CHÉN TRÀ NGÀY
XUÂN
(Thích Viên Giác)
Ngày
xuân mà thiếu trà là thiếu
hương vị đậm đà của xuân.
Người xưa coi trà như lẽ sống, người
nay cũng lấy trà làm bạn tri âm. Một
người bạn hiền, một khung cảnh ấm
áp, thư thái nâng chén trà ngon, cho
nhau một chút tình đời ý đạo,
còn gì thú vị hơn! Trà là thức
uống có từ rất xưa, gắn liền với
đời sống con người Á Đông, nhất
là người Việt Nam. Trà có mặt trong
đời sống của ta từ khi ta sinh ra cho đến
khi từ giã cõi đời (người chết
được liệm bằng trà), trà như
là một phần tất yếu của đời sống.
Uống
trà là một tập quán, tập tục của
người Việt Nam, từ hình thức uống
đơn giản và thông dụng cho đến thực
hiện nghi thức cúng tế đều có sự
góp mặt của trà. Phải nói rằng,
vai trò và tác dụng của trà trong
đời sống của con người Việt Nam rất
lớn.
Ngoài
việc uống trà như là ăn cơm uống
nước hàng ngày, trà còn có vai
trò cao hơn là đem lại an lạc, thư
giãn sau những giờ phút lao động mệt
nhọc, căng thẳng. Uống trà để lấy
lại thăng bằng tâm lý, cơ hội thưởng
thức một thú vui; ở mức độ thấp
gọi là giải trí, mức cao hơn là tập
cho tâm hồn thanh cao, an tĩnh. Như vậy, uống
trà đã trở thành nghệ thuật cao.
Nghệ
thuật uống trà khá cầu kỳ và phức
tạp, nó hình thành nghi thức uống
trà như nghi thức của tôn giáo, có
hẳn một lý thuyết về trà qua tác
phẩm Trà kinh, một nghi thức
uống trà gọi là Trà đạo. Có
kinh, có đạo đó là tính chất
tôn giáo của trà.
Nguồn
gốc cây trà có từ xa xưa, nhiều huyền
thoại bao quanh sự xuất hiện của cây
trà, cho thấy người ta ưu ái cây
trà như thế nào. Trà, theo huyền thoại,
do Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma, một
hôm ngài không muốn bị sự buồn ngủ
chi phối khi ngồi thiền nên đã cắt
hai mí mắt vứt xuống đất, ở chỗ
đó mọc lên cây trà. Huyền thoại
tuy không đáng tin, nhưng điều đó
nói lên một thực tế rằng, những
người đầu tiên dùng trà là
các thiền sư, mục đích là làm
cho tâm trí được bình thản và
chống lại sự buồn ngủ khi ngồi thiền.
Mặt khác, nghệ thuật uống trà xuất
phát từ chùa chiền và các thiền
sư, các đạo gia.
Nghệ
thuật uống trà thịnh hành từ thời
nhà Đường, là thời đại thịnh
vượng nhất của Trung Hoa, nhất là về
mặt thi ca, văn học nghệ thuật, trong
đó nghệ thuật uống trà cùng
phát triển. Lục Vũ, tác giả của Trà
kinh, được coi là Trà thần,
ông là một cư sĩ ở trong chùa. Sau
này, nghệ thuật uống trà truyền sang Nhật
Bản gọi là Trà đạo. Thời bấy
giờ, nghệ thuật trà sánh vai với
các nghệ thuật khác như cầm, kỳ,
thi, họa. Trà được coi là cao hơn tửu
(rượu) và kỳ (cờ) vì phẩm chất
thanh cao của nó.
Theo
Trà kinh, nghệ thuật thưởng thức trà
phải hội đủ 9 yếu tố:
1.
Phải chế lấy trà.
2.
Phải có khả năng chọn lựa loại
trà và hương vị trà.
3.
Phải có đầy đủ dụng cụ.
4.
Phải sửa soạn lửa củi cho đúng
cách.
5.
Phải có nước pha trà thích hợp.
6.
Phải sấy cho đúng cách.
7.
Phải tán trà cho tốt.
8.
Phải pha trà một cách khéo léo.
9.
Phải uống trà đúng cách.
Vấn
đề chủng loại trà cũng rất phong
phú, nó cũng liên quan đến nghệ thuật
thưởng thức trà. Có những loại
trà nổi danh trong lịch sử được ghi
chép lại như trà Long Tĩnh ở Triết
Giang, trà Mông Đỉnh ở Tứ Xuyên ..
Càng ngày càng có nhiều loại trà
nổi tiếng, không chỉ ở Trung Quốc mà
ở Việt Nam ta cũng có nhiều loại trà
đặc biệt được nhiều người
ưa chuộng như trà móc câu, trà
ướp sen, trà lài hoặc trà không
ướp .. thuộc các địa danh Bắc
Thái, Thái Nguyên, Bảo Lộc ..
Những
loại trà nổi danh cũng có những huyền
thoại thú vị như trà Mông Đỉnh ở
Tứ Xuyên đã đi vào văn học Phật
giáo. Trong nghi lễ tiến cúng các
hương linh, nghi dâng trà có bài kệ:
Dương Tử giang tâm thủy
Mông Sơn đỉnh thượng
trà
Hương linh tam ẩm liễu
Tảo sinh pháp vương gia
Tạm
dịch:
Nước dòng sông Dương Tử
Chế bình trà Mông Sơn
Hương linh ba lần uống
Sinh qua cõi Phật liền
Tuy
hơi cường điệu, nhưng muốn nói rằng
một tách trà ngon đúng điệu sẽ
làm cho tâm hồn vơi đi những muộn phiền,
tâm hồn sẽ thanh tịnh và đạt
được trạng thái siêu thoát.
Về
nghệ thuật pha trà và uống trà,
Trà kinh và các sách bàn về nghệ
thuật pha tra, thưởng thức trà khá phức
tạp, tựu trung có năm yếu tố căn bản
để có được một tách trà
ngon:
1. Trà ngon, 2.
Biết pha chế, 3. Thời gian và không gian, 4.
Tâm trạng, 5. Bạn bè.
1. Trà ngon:
Tùy
theo khẩu vị để mua loại trà có
ướp hay không ướp. Nếu ướp
như trà sen ở Huế (sen trắng) là tuyệt
vời. Trà một lá, hai lá, ba lá. Một
lá là ngon nhất. Phải biết bảo quản,
đừng để hở gió, ẩm mốc.
2. Biết pha chế:
a.
Trà cụ: Bình và tách trà bằng
đất nung hay sứ, không dùng kim loại
và thủy tinh, gồm có: Bình, tách (một
chén lớn và các chén nhỏ) thìa gỗ
hay tre để lấy trà, khay trà (thêm
trà thuyền), bình đựng trà. Tất cả
đều phải sạch sẽ (nhưng không rửa
bằng xà phòng) bày sẵn ở trên
bàn. Ấm trà được mở nắp lật
ngửa trên bàn hay trên dĩa để
không bị dơ.
b.
Tự mình pha chế trà: Khác với uống
rượu có người hầu rượu, đối
với trà thì tự mình sắp đặt
bình tách, tự mình pha trà. Điều
này nói lên cái lý khắc kỷ
vô ngã, không kiêu kỳ cao sang, làm cho
trà và tâm mình trở nên thanh khiết.
Mỗi động tác chuẩn bị đều
được kiểm soát, tỉnh thức và nhẹ
nhàng.
c.
Lấy nước sôi đổ vào bình
trà và các tách trà cho nóng đều,
xong đổ nước ra (thở vào thở ra 3
hơi).
d.
Lấy thìa gỗ xúc trà bỏ vào
bình, lấy nước sôi đổ vào
chút ít để rửa trà và đổ
ra ngay khi trà chưa kịp ngấm.
e.
Rót nước sôi vào (nước khoảng
90o) nhẹ nhàng đậy nắp lại (thở 3
hơi).
Nếu
pha với nước sôi chưa đủ độ
(80o) thì hương trà chưa bốc. Nước
nóng già quá thì hương bốc mạnh
nhưng không bền, không có hậu; nấu vừa
sôi lấy xuống ngay, sẽ nguội bớt còn
khoảng 90o-93o là tốt.
g.
Rót trà khoảng 2/3 bình ra chén lớn, chừa
lại 1/3 để làm nước cốt dùng
cho lần hai. Rót trà từ chén lớn ra
chén nhỏ (thở 3 hơi). Nâng tách trà
lên thưởng thức hoặc mời khách. Một
ấm trà không nên pha quá hai lần.
3. Thời gian và không
gian:
Uống
trà vào lúc nào ở đâu? Người
xưa nói: "Bán dạ tam bôi tửu,
bình minh nhất trản trà"
(Đêm về ba cốc rượu, sáng sớm một
chén trà). Vậy, vào buổi sáng trước
khi đi làm, thưởng thức một bình
trà rất sảng khoái. Buổi chiều sau khi
làm việc, thanh thản uống một hai chén
trà cũng tốt. Vấn đề nơi chốn
thì trong phòng hay ngoài sân, trong vườn
đều tốt, chỉ cần sạch sẽ thoáng
mát và yên tĩnh.
4. Tâm trạng:
Uống
trà lúc tâm tư rối bời, lo lắng, sợ
sệt hay hưng phấn, náo nhiệt đều
không đúng. Tâm lý phải trầm ổn,
thư thái và tỉnh thức. Sự cảm nhận
hương vị một tách trà liên quan rất
chặt chẽ với tâm trạng. Thiền sư Nhất
Hạnh có bài kệ uống trà rất hay:
Chén trà trong hai tay,
Chánh niệm nâng tròn đầy,
Thân và tâm an trú,
Bây giờ và ở đây.
Một
cảm xúc trọn vẹn là cảm xúc
toàn diện thống nhất giữa tâm thân
và hoàn cảnh. Một giây phút ngưng
đọng vắng mặt mọi tư duy, đối chiếu,
phân biệt, thất tình, lục dục .. Một
cảm giác siêu thoát có tác dụng
nuôi dưỡng thân tâm. Hoặc như
bài thơ của thi sĩ Quảng Từ Vân:
Hương
trà quyện cả non sông,
Nước
trong xanh biếc thấy dòng tử sinh,
Không
thời gian gánh nghĩa tình,
Mây
qua trăng tỏ thấy mình còn đây.
Một
cái nhìn trọn vẹn là một cái nhìn
thấy rõ các mối quan hệ của tách
trà với con người, vũ trụ, thiên
nhiên, uống trà như uống cả vũ trụ.
Tuy
nhiên, trong một hoàn cảnh đặc biệt,
tâm trạng não nề, trà cũng làm cho
người ta say như rượu:
…
Vị trà pha nước mắt,
Tỏa mùi hương quanh đây,
Bạn bè giờ xa khuất,
Quê hương như bóng mây,
Cồn cào trong gan ruột,
Chén trà làm ta say.
(Mạc Đình Phương)
Trà,
vừa có tác dụng thư giãn, thanh tĩnh
tâm vừa có tác dụng làm vơi đi
nỗi buồn đè nặng lên tâm tư của
con người.
5. Bạn bè đối ẩm:
Nếu
có bạn bè thì phải là bạn đồng
cảm, đồng điệu có thể chia sẻ với
nhau những vấn đề riêng tư mà
không còn sự tự vệ nào. Khi
đông người thưởng thức thì cần
có người phục vụ, phải là người
được tập luyện, tránh thô kệch,
vụng về làm mất đi nhã hứng thưởng
thức trà.
Trong
đời sống hiện đại, con người phải
đối mặt với tốc độ tăng trưởng
về mọi mặt của xã hội. Sự đấu
tranh, cạnh tranh sẽ tạo nên những áp lực,
nhiều căng thẳng làm mất thăng bằng
tâm sinh lý đưa đến bệnh tật,
stress. Tìm cho mình cơ hội để thư
giãn tinh thần là điều cần thiết.
Thưởng thức trà là cơ hội trong tầm
tay của mọi người.
Qua
thưởng thức trà, như là một nghệ
thuật thư giãn, sẽ đưa đến cho ta
một sự hưởng thụ nhẹ nhàng,
thú vui thanh nhã, làm quân bình đời
sống tinh thần và sinh hoạt đời thường,
nâng cao chất lượng và ý nghĩa sống
cho con người. Được vậy, ngày
nào cũng là xuân như Mãn Giác thiền
sư:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước một
cành mai
Thích Viên Giác
(TN sưu tầm, ThanhMinh + Oanh Phùng chuyển)