Tô Phở
Duyên Nợ
(Tác giả: Nguyễn Thị
Hữu Duyên)
Tác giả sinh năm 1957,
cư dân Santa Ana, công việc: làm nail. Tham
gia viết về nước Mỹ từ
2011, với bút hiệu Hữu Duyên
Nguyễn và bài "Cám Ơn
Bố", bà đã nhận giải
Đặc Biệt Viết Về
Nước Mỹ 2012. Sau đây là bài
viết mới nhất của bà.
* * *
Mùa lễ tết
năm nay hai vợ chồng Hà quyết
định qua Nam Cali chơi.
Từ sân bay
về, Thìn cho xe dừng trước
tiệm phở ngày xưa.
Thìn bế con gái
nhỏ của Hà nhanh chân bước vào
tiệm, Hà và chồng còn lục
tục mang giỏ tã, sữa cho bé và
dẫn con gái lớn vào sau. Cô
tiếp viên trầm trồ:
"Em bé đẹp
quá, Mỹ hả chị?" Cô vừa
bắc ghế cho bé ngồi vừa
hỏi.
"Cha Mỹ trắng,
mẹ Mỹ vàng, hi hi." Thìn dí dỏm.
Vợ chồng Hà
cũng vừa vào bàn. Chồng lo cho
đứa nhỏ, vợ lo cho đứa
lớn, chị năm tuổi, em một
tuổi rưỡi, hai chị em giống nhau
như đúc. Mắt xanh, mũi cao, da
trắng, tóc hoe pha lẫn nét dịu
dàng của mẹ, nét dịu dàng
đặc biệt của người phụ
nữ Việt Nam khiến ai thấy
cũng trầm trồ: "Wao, đẹp
quá, thấy thương quá"
"Thấy mấy
em bưng phở nhớ bọn mình ngày
xưa nhỉ." Hà nhìn Thìn bồi
hồi.
*
Hà sinh ra và lớn
lên ở Thanh Hóa, miền Bắc.
Năm mười tám tuổi, vừa
tốt nghiệp cấp hai xong. Gia
đình quyết định gom góp
tiền của, và mượn thêm vàng
của bác Hai lo cho Hà đi du học.
Với giọng
Bắc đặc sệt lại mang âm
hưởng của vùng nhà quê Thanh Hóa
nặng nề, cô không dễ tìm
bạn ở Mỹ vì đa số cho
rằng Hà là Việt Cộng nên
không chơi.
"Nè cẩn
thận với con Việt Cộng
đó nhen. Có thể nó được
Cộng sản cài vô để hại
bọn mình, chứ Cộng sản có
ưa gì Mỹ đâu mà qua Mỹ học."
Tiếng chì,
tiếng bấc các bạn nói sau lưng
nhưng lại cố ý cho lọt vô tai
Hà.
Hà tủi thân,
thầm trách trời, oán đất
sao mình lại sinh ra ở miền Bắc
mà không là miền Nam? Cùng một
dải đất hình chữ S, cùng
dòng máu đỏ, cùng màu da vàng mà
sao lại phân biệt đến đáng
thương. Hà không bận lòng
với chế độ, với chủ nghĩa
thì tại sao cái chế độ,
cái chủ nghĩa ấy lại ảnh
hưởng đến Hà. Tại sao và
tại sao? Ngán ngẩm, Hà bất
cần, cô dán lên khung cửa
sổ khẩu hiệu: "Bạn là
hoạn, bè là nạn" tự nhắc
mình không cần đến mối
quan hệ ấy!
Suốt một
năm học Hà chỉ chơi với hai
người cũng dân Bắc như Hà:
người ở Hà Nội, người
ở Hải Phòng. Nhưng hai cô này khó
trở thành tri kỷ vì gia đình họ
rất giàu, con cán bộ cấp cao,
tiền bạc xài thoải mái, không
thích hợp với Hà. Họ mới
đích thực là "Việt
cộng nòi," còn Hà? Có
tiếng nhưng không có miếng,
ở với Cộng Sản nhưng luôn
đề phòng Cộng Sản.
Hai năm đầu
vẫn còn học ESL, tiền học
đóng không nhiều. Vừa học,
vừa làm để kiếm tiền trang
trải mọi chi phí và dành dụm gửi
về quê trả món nợ "du
học."
Cái giọng Thanh Hóa
đặc sệt ấy là một
trở ngại lớn khi gọi phone xin
việc làm. Bất cứ việc
gì: bồi bàn, rửa chén, giữ
em bé .. Hà không nệ nhưng .. người
ta lại " nệ" cô vì là
"Bắc kỳ". Hà thắc mắc
trong lòng: "Sống ở Mỹ, tự
do và không được kỳ thị
đó là luật nhưng sao người Việt
mình lại kỳ thị quá như
vậy?" Tự thắc mắc
rồi tự trả lời: "Chắc
họ không hiểu luật".
Xin việc nơi nào
cũng bị từ chối, sau đó Hà
quyết định đi đến tận
nơi chứ không gọi phone nữa. Khi
gặp mặt có lẽ họ sẽ
dễ nhận hơn. Nghĩ thì làm,
lần ấy Hà đến tiệm
phở vừa đăng rao vặt cần
hai nữ tiếp viên, biết
tiếng Anh và tiếng Việt.
Hà nhìn bà chủ
cười thật tươi: "Xin
lỗi, cháu thấy cô đăng báo
cần tiếp viên nên đến xin
việc, không biết cô đã có
người chưa ạ?
Qua cặp kính
cận dày cộm, bà chủ
lướt mắt thật nhanh từ
đầu đến chân cô, bà
chưa kịp trả lời, Hà nài nỉ:
"Xin cô giúp
cháu, cháu cần việc làm, cháu
hứa sẽ làm siêng năng và cháu tin
là cô sẽ hài lòng, bởi vì
cháu quen cực khổ lắm rồi
ạ". Hà cất giọng dịu dàng
và nhỏ nhẹ nhất ở mức
độ có thể, mong nhận
được thiện cảm của bà
chủ.
Trời không phụ
lòng, bà chủ chấp nhận cô sau
khi bàn bạc với chồng vài câu. Hôm
ấy có một sinh viên du học
người miền Nam, Thìn, cũng
được nhận cùng với Hà.
Việc làm bưng
bê phở là thịnh hành nhất,
vừa học vừa làm kiếm
tiền gửi về Việt Nam trả
nợ ai cũng trải qua. Ngoại trừ
một số ít gia đình có
tiền của sẵn nên các em qua
đây chỉ để lo học mà thôi.
Đa số các em vay mượn nợ
để đi. Hình như mọi
người đều biết các em sinh
viên du học cần tiền trả
nợ nên nghề bưng bê phở
hoặc phụ giúp việc nhà hàng
được nhiều tiền tip
lắm. Đó là cách giúp đỡ
gián tiếp của đồng hương
Từ đó hai
bạn làm chung với nhau trong tiệm
phở ấy. Thìn dễ thương
và không có thành kiến gì với
Hà. Hai cô làm việc siêng năng,
đúng giờ, cần mẫn vì
cả hai có cùng hoàn cảnh giống nhau:
Nhà nghèo phải mượn tiền
để lo đi du học nên thiếu
nợ. Cả hai đều chi tiêu
tiện tặn từng đồng,
không phung phí, không đi mua sắm như
những cô sinh viên con nhà giàu.
Quần áo, hai cô xin của con Bà chủ,
ăn uống ở tiệm. Lúc nào
trong xe cũng có thùng mì gói, Hà
thường bảo: "Khéo ăn thì no,
khéo co thì ấm." Thìn thì lại
mở Kinh Thánh đọc cho Hà nghe:
"Đủ ăn, đủ mặc thì phải
thỏa lòng vì sự tin kính và
sự thỏa lòng là một mối
lợi lớn."
Thìn thường
rủ Hà đi đến Hội Thánh Tin
Lành để "thờ phượng
Đức Chúa Trời" là Đấng
Tạo hoá. Thìn thường hỏi thăm
về " miền Bắc", Thìn
muốn biết về sinh hoạt,
đời sống của người dân
cùng da vàng, máu đỏ như mình mà
bấy lâu nay bị chia cắt không quan
hệ với nhau, giống như anh em bị
thất lạc vậy. Hà được
dịp tâm tình:
"Năm năm mươi
tư, mọi người ùn ùn di cư vào
Nam gia đình tớ cũng định đi
nhưng thời gian đó bà nội
tớ đau nặng, bố tớ
sợ khi đi bà chết trên tàu
thì phải ném thây xuống biển
cho cá ăn. Bố không đành lòng
như thế nên ở lại miền
Bắc sống với Cộng Sản.
Việc ngoài ý muốn, gia đình
tớ nhất định không tham gia vào
chính trị. Bố có nghề thợ
mộc nên cứ chăm chỉ làm
công cho đồng bào, để
sống qua ngày. Gia đình quyết
định cho tớ đi du học ước mong
tớ có cơ hội đổi
đời và giúp gia đình
đổi theo. Hy vọng lột
được hai chữ "Việt
Cộng" bỏ lại cho chúng nó
để đến đất
nước tự do."
Thìn rất thông
cảm Hà, giúp được gì cho Hà
thì giúp hết mình. Thìn bảo:
"Giúp Hà là mình đang làm
việc cho Chúa" Thìn cũng khuyên
Hà nên đặt đức tin nơi
Chúa Giêsu để nhận
được sự bình an, sự giúp
đỡ từ Đấng cầm
quyền trên vũ trụ này. Hà học
chủ nghĩa "vô thần" và
thuyết "tiến hoá" từ
nhỏ nên chưa chấp nhận
được những điều Thìn
nói, nhưng cũng không phản bác vì:
"Phải có một Đấng sáng
tạo chứ, không cái gì tự
nhiên mà có cả." Tự thâm
tâm Hà nghĩ thế.
*
"What are you thinhking?"
Câu hỏi của Mark
kéo hai bạn về thực tại. Thìn
lắc nhẹ đầu, hé một
vệt cười trên khoé môi, cô
vui vì thấy ánh mắt anh tràn
ngập hạnh phúc và thỏa lòng. Mark cho
tương vào tô phở xe lửa,
mặt tươi rói.
Hà loay hoay cắt
phở và thịt cho con, con bé chun mũi
hít hít ra vẻ tay ăn phở sành
điệu.
"Cho xin một chén
hành dấm." Hà gọi thêm, đó
là sở thích của Hà khi ăn
phở, Thìn thì không ăn
được hành sống như vậy.
Thìn ngắt
từng lá quế cho vào tô như
thấy hình ảnh mình đang xếp
các cọng quế và ngò gai vào đĩa
giá chuẩn bị bưng ra cho khách. Còn
nhớ vào những dịp lễ
lớn, hoặc tết, tiệm mở
cửa hai mươi bốn giờ, bà
chủ yêu cầu làm tăng ca hai bạn
cũng không dám từ chối, buồn
ngủ đến khiếp nhưng vẫn
cố gắng vì đó là dịp
để kiếm thêm tiền.
"Bây giờ các
em dễ kiếm việc hơn chúng
mình ngày trước vì nhà hàng,
chợ búa mọc lên như nấm."
Thìn vừa vuốt tóc đứa
bé vừa nhẹ giọng.
Kỷ niệm
chợt ùa về như cơn gió tràn
vào qua cánh cửa vừa
được mở tung. Thìn nhắm
mắt dâng lời tạ ơn trước
khi ăn. Hai bạn và đứa bé gái cùng
Amen với giọng hào hứng vô cùng.
*
Nợ duyên của
Hà xuất phát từ tiệm
phở này, nói đúng hơn là
từ một "tô phở" khi đến
lượt cô lấy "order" một
ông khách Mỹ.
"Ông cũng
biết ăn phở sao?" Hà hỏi
khách tiếng Anh nhẹ như gió (chứ
không nặng như khi nói giọng Thanh
Hoá).
"Yes." Khách nheo
mắt với Hà.
Cô thấy vui vui
vì người khách dễ thương
này. Khách giới thiệu tên
"Mark" khi Hà bưng phở ra, gián tiếp
muốn biết tên Hà.
Mark ở Michigan qua Nam Cali
hai tháng một lần, mỗi
lần năm ngày. Là kỹ sư giỏi,
lâu năm, nhiều kinh nghiệm, làm
việc trong hãng chế tạo máy bay. Anh
đi đây đó đến các chi
nhánh của công ty để hỗ trợ
kỹ thuật. Qua Cali anh đến chi nhánh
ở Tustin, Irvine. Anh thích thuê khách sạn
ở G.G để được gần
nhà hàng Việt Nam, được ăn
món phở mà bạn bè giới
thiệu và anh rất thích. Hầu
như khi đến Cali, Mark ăn phở
mỗi ngày. Khi gặp Hà tại
tiệm này, Mark không phải chỉ mê
tô phở mà thôi nhưng hình như
cô tiếp viên Bắc Kỳ nho nhỏ xinh
xắn ấy đã quấy
động trái tim Mark. Anh xem "phở"
như món ăn chính của mình. Ăn sáng
trước khi đi làm, buổi chiều
khi làm về và buổi tối
trước khi đi ngủ, nếu ngày đó
anh chưa được gặp Hà.
Rồi làm quen, rồi xin số phone,
rồi hẹn hò, rồi tình cảm
bỗng dưng không mời mà
đến, rồi xa nhau chợt nhớ,
rồi khi gần thì lại chẳng
muốn xa. Không ai mà chẳng nhận
ra giữa họ: "Tình trong như đã, mặt
ngoài còn e" (*) Mark hơn Hà
chín tuổi, nhưng anh vui nhộn, trẻ
trung, đơn giản, không kiểu cách,
không cầu kỳ, không hình thức,
không đãi bôi, và có ước
muốn cưới vợ Châu Á. Ba
Mark từng có mặt ở chiến
trường Việt Nam bốn năm và
có mối tình đẹp, trong sáng
với cô nữ sinh vùng sông nước
Hậu Giang. Khi về Mỹ tình yêu
của họ trở thành kỷ niệm, do
đó ông thường ca tụng với
mẹ con Mark về người phụ nữ
Việt Nam.
Phần Mark, sau
thời gian tìm hiểu, đến khi
duyên thắm, tình đậm, tình
càng đậm hơn với những
tô phở thơm lừng. Mark ngỏ
lời cầu hôn.
Không có lý do
gì để từ chối, thêm
sự vun bồi của Thìn, Hà
đồng ý.
Sau một chuyến
đi Cali về, Mark trao cha tấm ảnh cô gái
Việt có mái tóc đen tuyền,
dài nửa lưng, ánh mắt huyền,
tròn xoe tinh nghịch, chiếc miệng hơi
rộng với đôi môi hơi
dầy trông hiền và hấp
dẫn. Chiếc cằm vuông biểu
hiện bản chất kiên nghị, nhẫn
nại. Nụ cười của cô như ánh
đèn soi, sáng bừng cả gương
mặt.
"Cô ấy tên
Hà, con quen hơn một năm rồi. Con
muốn cưới." Mark nói với Ba.
Ba hỏi thăm về
Hà và muốn gặp cô vào mùa
Giáng sinh năm đó.
Hà rủ Thìn đi
Michigan thăm gia đình Mark. OK.
Mùa đông Michigan
thật lạnh, tuyết rơi trắng
đường. Hôm ấy thời
tiết xuống âm 22 độ.
Đã được Mark dặn dò mà
áo khoác của hai cô vẫn không
đủ ấm, dự định ra cửa
đứng đợi Mark và nhìn
tuyết rơi cho sướng mắt, nhưng
cái lạnh khiến hai bạn run từ trong
ruột run ra, phải trở vào bên trong
chờ Mark gọi mới chạy vội ra.
Mẹ Mark thật chu đáo, sắm
sẵn cho hai cô mỗi người
một chiếc áo lông giả
thật đẹp và sang trọng gọi là
quà Giáng sinh. Họ khoác lên
người, buốt giá nhường
chỗ cho hơi ấm len vào hai tấm
lòng viễn xứ. Riêng Hà cô
ấm cả trái tim đang yêu và
được yêu.
Ba ngày ở Michigan,
chơi với tuyết, chụp hình
với tuyết, đi dưới
tuyết, ngồi hứng tuyết rơi,
xem xe raải muối cho tan tuyết, xúc
tuyết trên lối đi bộ, cào
tuyết đọng trên xe vào sáng
sớm, hai bạn tranh nhau làm. Lần đầu
tiên thấy tuyết nên vô cùng
thích thú. Hà đem lòng yêu Michigan và
yêu màu trắng của tuyết từ
dạo ấy.
"Mừng thay chốn ấy
chữ bày. Ba sinh âu hẳn duyên
Trời chi đây" (*)
Gia đình Mark
đồng ý, năm tháng sau, hôn
lễ được cử hành tại
Presbyterian Church ở Michigan nơi mà gia đình
Mark đi nhóm thờ phượng
Đức Chúa Trời hàng tuần.
Ngày cưới hai bạn, Thìn bay qua từ
Nam Cali. Thìn thầm cầu nguyện cho
Hà biết giao đời mình cho
Đấng cứu chuộc tên Giêsu
để cuộc đời thực
sự phước hạnh, chứ không
chỉ giao trong tay Mark.
Từ đó Thìn
không có dịp qua Michigan nữa, vì
bận rộn chồng con rồi lo
làm kiếm tiền bảo lãnh gia
đình qua Mỹ. Hai bạn vẫn giữ
liên lạc với nhau, bây giờ Hà
là một con chiên ngoan đạo hơn cả
Mark. Lần sanh đứa con đầu
Hà đau bụng lâu lắm, sợ hãi
nên gọi Thìn nhờ cầu
nguyện cho hai mẹ con. Thìn đọc cho
bạn nghe câu Kinh Thánh: "Đức
Giêhôva phán: Ta là Đấng mở
lòng mẹ ra, Ta là Đấng săn sóc
sự sanh đẻ" rồi cầu xin cho
Hà được "mẹ tròn con
vuông." Hà vui mừng quên cả đau
đớn, "cám ơn" bạn rối
rít. Đứa bé mang hai dòng máu
Việt - Mỹ ấy là sợi dây
thắt chặt tình yêu của họ,
là chất súc tác thêm hương
vị cho hạnh phúc gia đình hai bạn.
Hà cũng đã
bảo lãnh được cả gia đình qua
Mỹ. Bây giờ Hà là chủ tiệm
nails ở thành phố T, Michigan.
Vừa ăn phở
vừa nhớ chuyện xưa, hai bạn
thấy ấm lòng theo từng thìa
nước lèo nóng hổi, thơm
lừng. Tiệm phở này đã
đổi chủ nên bây giờ họ
không gặp người quen ở
đây. Mark vừa ăn vừa đút cho
con. Đàn ông Mỹ họ lo cho con rất
giỏi vì họ nghĩ rằng lúc vợ
mang con trong bụng họ không giúp
được gì, khi con đã chào đời
họ phải lo cho con giúp vợ. Vui vẻ,
hạnh phúc khi được giúp vợ lo
chăm sóc con chứ không phải bị ép
buộc. Hình ảnh chồng đẩy
xe, xách nôi, cho con bú bình ở
bến xe, bến tàu, sân bay là
chuyện thường xảy ra ở
xứ Mỹ.
"Hà nấu
phở rất ngon, tôi ăn nhiều
lắm" Mark khoe.
Hai bạn cùng
cười thích thú. Thìn đưa ngón
tay cái lên về phía Hà ý nói:
"Cô ấy là số một."
Mark hãnh diện nhìn vợ, ánh
mắt đầy khâm phục, yêu thương.
"Hà có về
thăm Việt Nam không?"
"Có, năm 2010, lúc
ông Bác qua đời cả nhà về
một chuyến."
"Mark thích
không?" Thìn hiếu kỳ.
"Dĩ nhiên, vì
lần đầu về quê vợ
mà. Ôi giời ạ, bao nhiêu
người từ già đến trẻ
đều bu vô ông ấy, ông
ấy khoái quá. Chắc tưởng
mình là nhân vật quan trọng gì
đó. Hi .. hi .." Hà nhìn chồng che
miệng cười.
Hà kể, một
tháng ở Việt nam đối
với Mark là một chuyến phiêu
lưu đầy thú vị: "Có lẽ
thú dị hơn Dế mèn phiêu lưu
ký". Lần đầu được
ăn những đặc sản miền
Bắc, ngoài phở còn những món
ngon vật lạ khác, có món ăn
được, có món không.
Điều thú nhất
là: từ sáng đến tối,
nếu đi thì thôi, ở nhà thì
hàng xóm kéo đến đầy
nhà. Họ gọi Mark là "Thằng
Tây."
Mark nghe Hà nhắc
đến hai chữ "Thằng Tây"
biết đang nói về mình nên
cười ha hả. "Lần đầu
trong đời dân làng tớ
được tận mắt nhìn
thấy ông Mỹ chính hiệu, không
hiểu gì cớ gì họ không gọi
"Thằng Mỹ" mà lại gọi
"Thằng Tây? Tớ cũng không
biết. Chỉ biết họ cứ ơi
ới gọi nhau: "Đến xem thằng
Tây nầy."; "Cái Hà đi Mỹ,
lấy thằng Tây đẹp lắm
đưa về nầy, đến mà xem
chồng, con của cái Hà bà con ơi."
Họ kéo đến
xem thật, họ rờ rẫm Mark
vuốt nhẹ lên làn da trắng lạ
lùng, ửng đỏ lên khi trời nóng
bức. Có người véo nhẹ xem sao?
Chắc họ tưởng Mỹ không
biết đau, hi hi. Khi Mark mặc quần
" short", mấy đứa trẻ con
cứ bu vào vặt lông chân
"thằng Tây"Mark. Có người
nhìn thật kỹ đôi mắt màu
xanh trong như pha lê của Mark, họ xầm
xì: "Mắt thằng Tây giống
mắt con mun nhỉ! Đẹp quá nhỉ!"
Từ ngày về
quê vợ tên Mark không được
nhắc đến mà tự dưng có
tên mới: "Thằng Tây."
Nhà lúc nào cũng
nghe kêu léo nhéo: "Thằng Tây ơi
vô ăn cơm" "Thằng Tây ơi
bế con đi" "Thằng Tây ơi khi
nào trở về Mỹ?" "Thằng
Tây có thích Việt Nam không?"
"Thằng Tây có con đẹp quá!" v
.. v ..
Vui nhất là màn
đi chợ. Chị Hai rất thích trêu
"thằng Tây", chị dạy Mark khi đi
chợ phải biết trả giá, Mack hỏi:
"Trả giá" là nghĩa gì?" Hà
giải thích. " Trả giá bao nhiêu?" Mark
lại hỏi, chị Hai dạy Mark nói câu:
"Đắt quá, một ngàn
thôi". Cả nhà cười quá
trời quá đất. (Hà bắt
chước Thìn vì Thìn hay nói
"quá trời quá đất")
Sáng hôm sau,
Thằng Tây theo chị và mấy
đứa cháu đi chợ, Mark trả giá
thật.
Mua thứ gì cũng
hỏi "Cái này bao nhiêu?".
Người bán trả lời xong, Thằng
Tây Mark nói liền: "Đắt quá,
một ngàn thôi". Cả chợ
cười lăn. Mark cũng cười hì
hì theo họ, chứ đâu hiểu
được ý nghĩa thâm thúy vì
sao họ cười. Họ cười sự
ngây ngô của "thằng Tây"
biết nói mà không hiểu
tiếng Việt.
*
Thìn hình dung cảnh
mọi người bu quanh thằng Tây Mark
mà lòng bùi ngùi. Tội nghiệp,
họ sống trong sự tuyên truyền,
đầu độc quá mức nên
khi đối diện sự thật
chắc họ ngỡ ngàng lắm. Họ
không tưởng được Mỹ
tốt và dễ thương như
vậy.
Lúc trả tiền,
Mark xem hóa đơn xong, ngoắc em tiếp
viên ra, tay chỉ vào hóa đơn:
"Đắt quá.
Một ngàn thôi." Mark vừa giả
bộ trợn mắt kinh ngạc vừa
móc tiền ra trả.
Thìn cười
nắc nẻ, mấy người khách
chung quanh cũng cười ké, còn vỗ
tay nữa chứ.
"Người dân
miền Bắc bị tuyên truyền
Mỹ xâm lăng, họ đâu có hiểu
sự thật. Lẽ ra họ phải ác
cảm với "Thằng Tây Mark"
mới đúng?" Thìn thắc
mắc.
"Bây giờ
người dân họ hiểu Mỹ
tốt rồi. Nếu không tốt
thì đâu có cho con cháu họ qua du học."
Hà giải thích. "Xóm của tớ
ngày xưa nghèo khổ lăm nhưng bây
giờ có đô la Mỹ của thân
nhân gửi về giúp đỡ nên
khá hơn nhiều. Có người còn
nói nhỏ với tớ "Thằng
Mỹ giàu mà tốt hơn thằng
Liên Xô đấy nhé!".
"Nước chảy
càng ngày càng tới. Từ từ
rồi mọi người cũng hiểu ai
tốt, ai xấu; ai hại, ai giúp; ai
ghét, ai thương; ai thật, ai giả!"
Thìn trầm giọng đủ cho Hà nghe.
Hai người bạn
sống trong hai chế độ khác nhau,
hiểu biết khác nhau nhiều
mặt nhưng được cùng qua Mỹ
học và chơi với nhau nên
đồng cảm được nhau.
Bây giờ giới
trẻ Việt nam qua Mỹ du học nhiều,
mắt họ mở ra thấy
được đâu là "thiên
đàng hạ giới," đâu là "địa
ngục trần gian."
Đối với
Thìn, dầu các bạn trẻ ấy
là dân miền Bắc hay miền Trung,
miền Nam họ đều là mầm non
của đất nước. Nếu họ
là con em cán bộ, Đảng viên càng
tốt vì họ sẽ được
thấy tận mắt, rờ tận
tay, được hiểu rõ hơn
thế nào về "Thằng Mỹ"
mà bấy lâu nay họ chỉ thấy qua
những bức tranh vẽ rùng rợn,
độc ác, gớm ghê. Họ chỉ
được nghe mắng chửi, tuyên
truyền bậy bạ.
Dầu họ qua Mỹ
rồi họ ở lại hay họ trở
về cũng là điều tốt cho
họ. Họ sẽ học được
những điều hay, những việc
tốt của một đất
nước tiến bộ, văn minh
nhất thế giới. Một
đất nước luôn có mặt
trước tiên để cứu giúp,
giải cứu cho những nơi nào có
thiên tai, có chiến tranh, có khủng
hoảng, có đau khổ, có áp
bức, có sự bất công, có
hành động mù quáng. Một
đất nước tự do đúng
nghĩa, nhân đạo đúng nghĩa, tiến
bộ đúng nghĩa, hùng mạnh
đúng nghĩa trong khoảng thời gian
ngắn, chỉ hơn hai trăm năm lập
quốc.
*
Thìn đặt
tờ giấy hai mươi đô lên
bàn.
"Cho nhiều típ
để mấy em chia nhau được
nhiều, nhớ ngày ấy, hôm
nào được tiền tip nhiều
Hà mừng quá không thể nào
chợp mắt được, cố
nhớ lại từng gương mặt
khách mà thầm cám ơn họ. Hà
bảo với mình như vậy, có
nhớ không?" Thìn mỉm cười.
Hà chớp mắt
cố ngăn xúc động, gật
nhẹ đầu. Cô đảo mắt
một vòng nhìn các em bưng bê, nam
có, nữ có đi tới đi lui, nhanh
nhẹn, trật tự và vô cùng
lịch sự. Mi đã ngân ngấn
lệ, Hà như thấy hình ảnh
mình mười năm trước mờ
ảo, ẩn hiện. Nhìn quanh thực
khách như để cố đoán xem
trong số những anh chàng đang
ngồi ăn ở đây anh nào sẽ
gặp được "cái xương
sườn số tám" của mình.
Để rồi
thêm một mối tình lại bắt
đầu qua "Tô phở duyên
nợ" đậm tình quê hương.
Nguyễn
Thị Hữu Duyên
(Xíu
Muội
Rạch
Giá sưu
tầm
và chuyển)