Chiếc
Mũ Năm Xưa
(Tác giả : Võ Quách Thị
Tường Vi)
Tác giả là một
Y sĩ nội khoa và là Giáo Sư Đại
Học tại Texas. Bài viết về nước Mỹ
đầu tiên của tác giả là "Chai Dầu
Gió Xanh", kể chuyện trên một chuyến
bay khi tác giả hướng dẫn phái
đoàn gồm 33 giáo sư, sinh viên đi Việt
Nam thực hiện một chương trình y tế của
đại học TWU, Texas. Bài viết thứ hai của
tác giả là môt chuyện tình "đơn
phương, nhẹ nhàng, thâm trầm mà
sâu sắc" từng làm chính nhân vật
mà cũng là tác giả đẫm lệ.
* * *
Nhìn qua khung cửa sổ
của phòng cấp cứu, bên ngoài trời
đã bắt đầu xế chiều. Cơn
nóng của mùa Hè vẫn còn gay gắt
khi tôi chạm tay vào cửa kiếng. Sắp tới
giờ đi thăm bệnh nhân trong khu nội
trú rồi. Từ khi vào bệnh viện hồi
sáng sớm đến giờ, tôi chưa có dịp
để đi ra ngoài.
Phòng cấp cứu
hôm nay quá bận với nhiều bệnh nhân
bị bệnh rất hiểm nghèo cần chữa trị
kịp thời. Có ba bệnh nhân không thở
được nên phải đặt ống thở nội
khí quản và đã được chuyển
lên phòng ICU hay Phòng Hồi Sinh để theo
dõi điều trị. Năm bệnh nhân
khác đã nhập viện để cho thuốc
kháng sinh theo đường nước biển,
và cho thuốc hoá trị khẩn cấp, vì
bệnh ung thư đã lan tràn nhiều nơi.
Có những bệnh
nhân đã được trị bệnh bằng
hoá chất, sau một thời gian khoảng chừng 7
tới 10 ngày thì tiểu cầu, hồng huyết
cầu, và bạch huyết cầu đã bị
xuống thấp, bị sốt cao, không ăn uống
gì được, rất nguy hiểm đến
tính mệnh. Còn những bệnh nhân
khác đi vào phòng cấp cứu vì bị
tăng độ đau đớn trong người, hay
đang chờ kết quả xác nghiệm của
máu, nước tiểu, hình chụp quang tuyến,
hay CAT Scan và MRI.
Không khí trong
phòng cấp cứu bây giờ thì cũng
không ồn ào lắm. Phần lớn ai cũng
ăn nói nhỏ nhẹ và ít gây tiếng
động. Nhưng một khi có bệnh nhân bị
tắt thở, tim ngừng đập, các nhân
viên của phòng cấp cứu phải gọi
"code blue" để được cấp cứu lập
tức.
Khi code blue này được
gọi, có những bác sĩ ngoại khoa hay
chuyên về gây mê cũng túc trực một
bên, để trong những trường hợp
khó tìm mạch máu hay cần bỏ ống thở
vào nội khí quản thì họ sẽ sẵn
sàng mà giúp một tay. Không khí trong
phòng cấp cứu sẽ sống động hẳn lên,
với tiếng người đối đáp,
máy móc lao xao, điện thoại hay máy Fax
rung tiếng liên hồi, và những âm thanh
lanh lảnh qua hệ thống truyền tin trên trần
nhà.
Đôi khi, cũng có
những tiếng nấc nghẹn ngào của những
gia đình thân nhân vì đang lo lắng
không biết người thân yêu của
mình có qua khỏi lúc ngặt nghèo nầy
hay không. Ban đầu, mới nhìn vào
thì thấy rất hỗn loạn, nhưng thật ra
thì nó cũng có cái thứ tự
riêng của nó. Mọi người ai cũng
có một vài nhiệm vụ để làm,
như một bộ máy liên kết cùng ăn
khớp với nhau.
Tôi về làm cho bệnh
viện này từ hồi mới ra trường.
Tưởng chừng sẽ làm tạm ở
đây vài năm rồi chuyển qua ngành tim
mạch mà tôi rất có cảm tình từ
khi còn đi học. Nhưng dần dà tôi lại
thích tiếp xúc với những bệnh nhân
bị những chứng bệnh nan giải nầy. Tôi
thông cảm và thấy thật gần gũi với
họ. Và "vài năm" của tôi lại
trở thành "vài mấy chục năm" nay
rồi.
Bệnh viện nầy
chuyên chữa trị bệnh ung thư và là một
bệnh viện lớn nhất trên nước Mỹ
với những chương trình nghiên cứu
và điều trị ung thư rất tân kỳ.
Bệnh nhân của nhà thương nầy đến
từ khắp nơi trên thế giới. Từ những
người nói tiếng Tây Ban Nha đến tiếng
Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Trung Đông, Châu Phi,
Phi Luật Tân, hay tiếng Tàu .. Như vậy
tôi cũng được học hỏi thêm nhiều
và thích nhất là những người đồng
nghiệp của tôi cũng rất dễ thương
và thân thiện.
Mấy năm đầu,
vì là một trong những người Việt Nam
đầu tiên làm việc ở nhà
thương nầy, nên mỗi khi có bệnh
nhân người Việt đến, tôi thường
hay được gọi để thông dịch
giùm. Nhiều khi quá bận, không đến
được lúc ấy thì tôi lại
tìm dịp ghé thăm sau, để hỗ trợ
tinh thần cho những bệnh nhân nầy và gia
đình của họ. Và từ đó
tôi đã trở thành "Cô V. Y Sĩ"
mà những bệnh nhân thường hay gọi một
cách rất thân tình. Tôi đã trở
thành một phần tử trong gia đình của
họ một cách "bất đắc dĩ", từ
những bữa tiệc mừng sinh nhật thôi
nôi, đến cả những ma chay cưới hỏi,
họ đều muốn tôi tham dự.
Sau nầy, khi số bệnh
nhân người Việt tăng nhiều, ban điều
hành của bệnh viện có mướn
thêm thông dịch viên nên tôi cũng
đỡ .. khổ. Và cũng như đã hiểu
ngầm với nhau, mỗi khi có bệnh nhân
người Việt vào phòng cứu cấp,
các vị y sĩ khác đều "nhường"
cho tôi. Họ thường nói là tôi sẽ
hiểu ý bệnh nhân hơn và như vậy
việc chữa trị cho bệnh nhân cũng sẽ hiệu
quả hơn. Tôi thì chỉ cười và
nói sao cũng được, nhưng trong lòng rất
vui vì có dịp để tiếp xúc và
hàn huyên với đồng hương người
Việt của mình. Tôi luôn thầm nhủ rằng
mọi việc trên đời đều có số
mệnh cả. Nếu mình có thể chia sẻ những
buồn vui, tạo niềm tin yêu và giữ nguồn
hy vọng cho những người bạn đồng
hương kém may mắn này thì việc
gì rồi cũng có thể qua đi.
oOo
Có bàn tay ai đang
đặt nhẹ trên vai tôi. Tiếng của Ted
nói:
- Tới giờ đi khu nội
trú rồi. Mình đi thôi.
Ted là một bác
sĩ chuyên về nội thương và làm
chung nhóm của tôi. Anh trẻ hơn tôi khoảng
5 tuổi, rất tận tâm với bệnh nhân.
Anh hay tâm sự với tôi về việc gia
đình cùng hai đứa con và người
vợ Ý Đại Lợi của anh. Chúng
tôi rất thân thiết trong tình đồng
nghiệp làm chung với nhau.
Cầm cái ống nghe bỏ
vào túi áo lab, tôi đứng lên
đi với Ted. Bỗng cô Jenny, điều dưỡng
trưởng của phòng cấp cứu, lật đật
chạy vào:
- Dr. V, có một bệnh
nhân đang đến bằng xe cứu thương
trong vòng vài phút. Rất nguy kịch không
thở được. Ông ấy chỉ nói tiếng
Việt thôi, nhờ Dr. V ở lại một tí
để giúp chúng em nhé. Cô Jenny năn nỉ.
Bác sĩ Ted nói:
- Thôi V. cứ ở lại
một chút đi, tôi đi trước cũng
được. Khi nào xong thì gặp nhau ở khu
Tim Phổi lầu 7 đó nha.
- Ok, cảm ơn Dr. Ted nhiều
nhe.
Quay qua cô Jenny tôi hỏi:
- Bệnh nhân này
là ai vậy Jenny?
- Dạ đây là
ông Thanh, 60 tuổi, bệnh nhân mới của bệnh
viện, tuần trước có vào phòng
khám để gặp bác sĩ Morris vì bệnh
ho kinh niên. Họ đang tình nghi bệnh nhân bị
bệnh lao phổi đó. Như vậy thì
mình phải đeo mask (khăn vuông nhỏ có
giây thun choàng đầu đeo vào để
bảo vệ mũi miệng ngăn ngừa khỏi bị
lây bệnh).
- Ok, thôi mình qua
phòng code blue đi.
Phòng code blue là
phòng dành cho những bệnh nhân bị nguy hiểm
đến tính mệnh, sắp chết hay hấp hối.
Phòng này có đầy đủ dụng cụ
cứu cấp, Oxigen, máy đo hay shock tim, phòng mổ
tiểu khoa, thuốc mạnh cấp cứu. Khi bệnh
nhân không may phải vào phòng này
thì sống chết như chỉ mành treo
chuông, hy vọng chỉ đặt vào trong tay của
những bác sĩ cùng điều dưỡng
chuyên nghề.
Có tiếng còi xe cứu
thương hụ lên từ ngoài đường
lớn và ngừng lại ở trước cửa
vào của phòng cấp cứu. Hai người
trong xe cứu thương nhảy ra, hai người hai
bên, đẩy một băng-ca đi ở chính
giữa. Trên băng-ca này có một bệnh
nhân người Á Châu, thở rất khó
khăn và đang được tiếp hơi Oxigen
chuyền qua ống dây nhỏ gắn vào trong lỗ
mũi. Bệnh nhân độ chừng khoảng 57 tới
60 tuổi, mái tóc đã điểm muối
tiêu trên một vầng trán rộng với
đôi chân mày đen rậm đẫm giọt
mồ hôi. Khi chuyển từ băng-ca qua giường,
anh cố giương mắt lên nhìn nhưng sau
vài giây là nhắm mắt lại. Hai bàn
tay để trên bụng và đang nắm chặt
một túi xách của hãng hàng không
Pan Am đã ngả màu, các góc cạnh
thì sờn và bị nứt nẻ rất nhiều.
Các y tá điều
dưỡng và nhân viên phòng cấp cứu
đổ ập lại. Người thì lấy
áp xuất máu, người thì lấy
máu, người hỏi hồ sơ lý lịch của
bệnh nhân qua người bạn cùng đi theo
đến bệnh viện. Không khí phòng cấp
cứu sống động hẳn lên. Nhân viên
nào cũng đeo mask màu vàng và mang
găng tay khi tiếp xúc với bệnh nhân. Khi một
cô y tá giở tay anh để lấy cái
túi xách Pan Am đi thì anh bấu chặt lại,
không cho gỡ ra. Người y tá phải dỗ
dành hứa là sẽ trả lại cho anh, một
lát sau anh mới chịu nhẹ lơi tay ra.
Có tiếng của Jenny
báo cáo:
- Dr. V, áp xuất của
ông Thanh là 76/48, mạch máu là 120 nhịp
một phút, hơi thở là 28 trong một phút,
độ Ốc-xi trong máu là 86 với lượng
Ốc-xi non rebreather mask.
- Em cho 1 lít dung dịch
nước biển vào mạch máu mau đi. Mở
cho nước biển chảy thật nhanh nhé. Gọi
ban gây mê và chuẩn bị cho đặt ống
vào nội khí quản. Tôi nói.
Jenny báo cáo tiếp:
- Dr. V, kết quả thử
nghiệm về rồi với hồng huyết cầu
là 2000, tiểu cầu 45000, bạch huyết cầu
15000. Mấy thử nghiệm khác cũng bình
thường.
Bệnh nhân nầy thiếu
máu? Tại sao? Tôi đặt câu hỏi trong
đầu mình. Khi tôi khám bệnh nhân
dù tim đập rất nhanh nhưng nhịp độ
thì bình thường, phổi thì khò
khè và khó thở, người không bị
phù thủng. Bệnh nhân chỉ hé mắt
nhìn tôi rồi khép lại. Tôi nói với
Jenny.
- Em cho bắt đầu
kháng sinh bằng đường vein đi nhé.
Lúc nầy thì một
bác sĩ gây mê đã đến đặt
ống thở vào khí quản của bệnh
nhân. Bỗng Jenney hớt hải chạy đến
báo cáo với tôi:
- Dr.V, áp xuất của
ông Thanh giờ bị tuột xuống còn 60/30
thôi và mạch rất yếu
Tôi ra lệnh:
- Bắt đầu Dopamine drip
đi em và bolus 1 lít dung dịch nước biển
đi. Khi áp xuất huyết ổn định một
chút, em cho bệnh nhân đi chụp CT scan của
phần ngực nhe.
Dopamine là một loại
thuốc có thể làm mạch máu co lại
và áp xuất tăng lên.
Khoảng chừng 30 phút
sau thì Jenny cho biết là áp xuất của
ông Thanh đã ổn định và hơi thở
cũng bình thường với máy trợ hơi
thở-respirator và đang được chuyển
lên phòng cấp cứu đặc biệt (ICU).
Phong, người bạn của Thanh, vẫn đứng lẩn
quẩn trong phòng cấp cứu. Tôi đến
nói chuyện với Phong một chút.
Phong kể rằng ngày
xưa Thanh học bên Đại Học Khoa Học
đến năm thứ Hai thì bị động
viên đi khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức.
Sau 75 thì ở lại Việt Nam. Thanh qua định
cư ở Mỹ hơn 15 năm nay rồi, đã ly
dị và có một đứa con gái,
nhưng ngưng liên lạc với gia đình gần
10 năm nay. Anh hút thuốc lá rất nhiều
và thường có những cơn ho liên tục
từ 5 năm về trước. Lần gặp bác
sĩ Morris tuần rồi, anh bị nghi là vướng
bệnh lao và đang chờ kết quả của cuộc
thử nghiệm đàm. Cuộc đời Thanh
có những thăng trầm mà Phong đã
tâm sự sơ qua cho tôi nghe một cách rất
nhẹ nhàng và vắn tắt.
Khi nghe Phong kể lại những
chuyện nầy làm tôi nhớ về những
năm học ở Đại Học Khoa Học ở
Sài Gòn.
oOo
Sau khi học xong bậc trung học
ở trường công lập Ngô Quyền Biên
Hoà, tôi lên Sài Gòn học tiếp.
Tôi ở chung với năm người bạn
gái khác, trong một căn nhà nhỏ có
gác ở trên từng hai, đường Hồng
Thập Tự Sài Gòn. Chúng tôi chia ra
để làm những việc như nấu cơm,
đi chợ cho cả nhóm. Có những tối, cả
nhóm họp lại, tôi đánh đàn
guitar, các bạn quây quần hát những
bài hát như Như Cánh Vạc Bay, Phố
Núi Cao Phố Núi Đầy Sương, Căn
Nhà Ngoại Ô .. Cả đám cười vui
trên căn gác trọ nhỏ hẹp.
Từ căn nhà trọ nầy
đến trường thì rất gần, tôi
đi bộ được. Nhớ hồi ấy có
hai hàng cây phượng tây rợp bóng
mát hai bên đường, đi bộ rất
là thú vị. Tôi nhớ lại những buổi
sáng thứ Bảy có giờ thực tập tại
phòng lab cho môn động vật, mổ con
tôm càng bị đầu tôm chích vào
tay đau điếng và có những lần
tôi đi học trễ, bị khóa cửa
không được vào, đi lang thang trong
khuôn viên trường đại học.
Trường đông sinh
viên, không đủ chỗ ngồi nên
chúng tôi thường chen chúc nhau ngồi
trên sân khấu của giảng đường gần
thầy cô, vừa dễ nghe, nhưng phải tội
là sau mấy tiếng đồng hồ ngồi một
chỗ, lưng và chân thiếu điều muốn
co lại, đi không nổi.
Tôi cũng nhớ có
những lần lên Thủ Đức đi tìm những
lá cây cho môn thực vật. Khi đi về nắng
cháy da, nằm la liệt mấy ngày.
Tôi thường hay đội
cái mũ nhựa trắng, phủ che mặt và
phía sau đầu, nhưng vẫn không đủ
mát cho những ngày nắng cháy Sài
Gòn hay Biên Hòa. Chiếc mũ này có
rất nhiều kỷ niệm đối với tôi.
Tôi đã dùng tiền lương đầu
tiên ít ỏi mà tôi đã kiếm
được bằng đi dạy kèm để mua
cái mũ này. Dù không trị giá bao
nhiêu, nhưng đối với tôi nó tượng
trưng cho sự trưởng thành và tự lập
của mình.
Từ đó chiếc
mũ này đã theo tôi đi nhiều nơi
như khi tôi tham gia vào đám văn nghệ
"Thằng Bờm", cùng các bạn bè
đi lang thang trong các câu lạc bộ, hát nhạc
dân ca, đi học hay đi lên Bình
Dương, dọn dẹp lại những căn nhà
bị phá vỡ vì bom đạn.
Và có những buổi
sáng sớm thứ Hai, tôi đạp xe từ
Phúc Hải - Dưỡng Trí Viện lên
nhà Ga Biên Hoà để đi Sài Gòn
học, hai bên đường rất vắng vẻ
vào lúc năm giờ sáng, đầu vẫn
đội cái mũ nầy làm tôi cũng bớt
sợ. Sau đó một dạo thì tôi
làm mất cái mũ này, tìm hoài
không thấy. Tôi lại thay nó bằng một
cái nón lá nhưng ít đội hơn
vì nón lá, khi chạy xe đạp xuống dốc,
hay bị gió cản lại, rất là bất tiện.
Mới đây mà
đã mấy chục năm rồi, vật đổi
sao dời, cảnh cũ người xưa không bao giờ
tìm lại được.
oOo
Ngày hôm sau, tôi
có ghé qua phòng ICU thì thấy Thanh có
vẻ bớt nhiều, tỉnh táo hơn một
chút nhưng vẫn còn dùng ống hô hấp
nhân tạo. Anh nhìn tôi một cách chăm
chú và chúng tôi dùng tay làm dấu
để nói chuyện với nhau.
Nhân viên điều
dưỡng cho biết anh sẽ không cần ống
hô hấp nhân tạo nữa vào chiều nay nếu
mọi việc không có gì thay đổi. Thanh
làm dấu cho tôi biết là anh đang
thèm thuốc lá. Trời ơi! Bệnh gần chết
mà cũng còn ghiền thuốc! Tôi lắc
đầu và mỉm cười mà thôi. Kết
quả về vi trùng lao -Koch- được thử
nghiệm nhưng chưa có. Nhân viên nhà
thương vẫn còn đeo mask khi đến
chăm sóc anh.
Buổi chiều ngày
hôm sau, tôi đến thăm, thì Thanh
được di chuyển xuống khu bệnh lao phổi.
Thanh có vẻ khoẻ hơn nhiều, hơi thở
bình thường và ống thở đã
được rút ra, chỉ còn thở Ốc-xi
qua mũi thôi. Thấy tôi thì Thanh mỉm
cười và lên tiếng chào. Thanh hỏi.
- Dạ đây có phải
là Dr. V mà hôm tôi mới vào
đã gặp rồi phải không?
- Đúng vậy
đó anh Thanh. Hôm ấy anh bị bệnh rất
nặng. Tôi rất là ngạc nhiên khi anh
còn nhớ. Anh thấy người ra sao? Thở
còn khó khăn không? Tôi hỏi.
- Dạ tôi đã bớt
nhiều, thở có vẻ dễ dàng hơn nhiều.
A, Dr. V, xin lỗi không hiểu Dr. V sinh ở
đâu vậy? Thanh hỏi.
- Dạ tôi sinh ra ở
Bình Định và lớn lên ở Biên
Hoà. Mà anh hỏi để làm gì vậy
? Tôi hỏi lại.
- Dạ tôi thấy
đôi mắt của Dr. V mang máng giống một
người nên hỏi vậy thôi. Xin lỗi nha.
Thanh trả lời giọng
nói của anh lộ vẻ buồn bã, âm thanh
trầm như có chút buồn phiền và
trách móc. Tôi hỏi.
- Nghe bạn anh nói
ngày xưa anh học ở Đại Học Khoa Học.
Tôi cũng học ở đó mấy năm. Anh học
năm nào vậy?
- Dạ tôi học năm
72-73. Cuối năm 73 thì tôi bị động
viên nên đi Thủ Đức. Thanh trả lời.
- A, thì ra vậy. Lớp
đông quá nên không nhớ ai là ai cả.
Tôi nói.
- Vâng, đúng vậy.
Thanh nói xong rồi im lặng. Đôi mắt
nhìn xa xăm và biểu lộ sự mệt mỏi.
Tôi về phòng
làm việc, coi lại hồ sơ của Thanh. Khi liếc
qua kết quả của CT phổi thì tôi khựng
lại, tim như muốn ngừng đập một
giây phút. Kết quả ghi rõ ràng là
có một cục bứu rất lớn, khoảng chừng
4.5 cm ở phổi phía trên bên trái với
những đặc điểm tiêu biểu cho ung
thư phổi loại tế bào Oat Cell hay tế
bào ung thư phổi loại nhỏ.
Những tế bào ung
thư nầy đã lan tràn qua những hạch
chung quanh và đến gan. Oat Cell hay những tế
bào ung thư ung loại nhỏ rất là khó
trị, lan tràn rất mau và tỷ lệ sống
sót trong vòng 5 năm rất thấp. Loại ung
thư nầy, nếu dùng hoá trị (thuốc trị
những tế bào ung thư, thông thường phải
chuyền qua mạch máu qua nhiều chu kỳ), thường
mang đến kết quả hữu hiệu hơn so với
những cách trị khác.
Tôi gọi bác sĩ
Ted, bây giờ bác sĩ nội khoa cho Thanh. Ted hẹn
sẽ gặp tôi ở phòng của Thanh để
chúng tôi cùng thông báo kết quả
cho bệnh nhân biết. Khi chúng tôi đến
phòng Thanh thì Phong cũng có mặt. Ted
báo hung tin nầy cho Thanh, còn tôi thì
thông dịch lại. Thanh im lặng không nói
gì cả. Còn Phong thì hỏi những câu
hỏi như cách chữa trị, có thể sống
bao lâu nữa ..
Tôi trả lời những
câu hỏi nầy cho Phong, còn Thanh thì vẫn
tiếp tục yên lặng. Khi Ted đi rồi thì
Thanh hỏi tôi.
- Ung thư phổi thì từ
đâu mà ra vậy, Dr. V?
- Cũng có nhiều
nguyên do. Có thể do môi trường mình
sống, gia truyền, miễn nhiễm, chất hoá học.
Phần lớn là do thuốc lá mà ra.
- Như vậy cai thuốc
lá có khó lắm không? Tôi cũng muốn
bỏ cái thói quen nầy nhưng thấy khó
quá.
- Cũng không khó lắm.
Nếu anh muốn thì chúng tôi sẽ chỉ
cách cho anh nhe.
- Phải chi hồi
đó tôi cai thuốc lá sớm thì
có thể tôi không bị ung thư phổi phải
không Dr. V? Thanh nói.
- Cũng có thể lắm.
Nhưng bây giờ anh đã bị rồi,
thì cũng nên chú trọng với thực tế
để tìm cách chữa trị nhe.
- Như bệnh ung thư của
tôi thì Dr. V nghĩ là tôi sẽ sống
được bao lâu nữa? Xin hãy thành thật
mà trả lời.
- Thật ra thì khó
nói lắm. Ung thư loại tế bào nầy rất
là nguy hiểm và khó trị. Tôi trả lời
một cách thành thật.
Thanh im lặng. Tôi thấy
có những giọt nước mắt ứa ra ở
khoé mắt của anh. Anh khóc âm thầm.
Tôi đi ra bên
ngoài để tránh cho anh nhìn thấy
mình cũng đang khóc. Tôi khóc
thương cho số phận một con người với
những chuỗi đời thăng trầm theo vận
nước nổi trôi. Tôi khóc thương
cho Thanh và cũng hình như khóc thương
cho chính mình.
Khi tôi trở lại
thì Phong đã đi về, chỉ còn một
mình bệnh nhân nằm, cái hình bóng
nhỏ nhoi trông thật tội nghiệp nằm im
trên tấm khăn trải giường trắng mướt.
Nghe tiếng động, Thanh quay lại và ánh mắt
sáng lên khi nhận ra tôi. Tôi bây giờ
không đeo chiếc mask nữa vì biết rằng
sau cuộc thử nghiệm anh không bị lao phổi
mà bị những tế bào gây ung thư phổi.
- Dr. V đó à,
tôi cũng muốn nói chuyện với Dr. V một
chút. Dr. V có thì giờ để tôi
nói chuyện không?
- Tôi có nhiều giờ
lắm. Anh Thanh cứ nói đi. Tôi đáp lời.
- Cuộc đời tôi
bây giờ có hai nguyện vọng. Thứ nhất
là gặp được con gái tôi sau mười
mấy năm xa cách. Còn nguyện vọng thứ
hai thì mong manh lắm, tôi chắc sẽ không
thành đâu. Thanh ngập ngừng.
- Lần cuối anh gặp con
gái ở đâu và bao lâu rồi? Tôi
hỏi.
- Khoảng chừng 10 năm.
Tôi lập gia đình khi gặp vợ tôi 15
năm về trước. Nàng lúc ấy có một
vẻ đẹp u buồn, giống như người con
gái mà ngày xưa tôi đã gặp.
Sau 5 năm thì tình cảm giữa chúng
tôi phôi pha. Cũng không hiểu tại sao.
Chúng tôi lúc đó ở San Jose, nàng
theo đạo Công Giáo và có gia
đình thân quyến ở đây. Hơn
mười mấy năm không liên lạc, tôi
nghĩ là họ không còn ở đó nữa
đâu. Thanh nói.
- Còn nguyện vọng thứ
hai của anh là gì? Tôi hỏi.
Thanh ngập ngừng không
nói. Tôi cũng không ép Thanh làm
gì.
oOo
Tối đó, khi về nhà
tôi liên lạc với ông anh tinh thần
tên Peter đang làm việc ở Los Angeles. Nói
là anh chứ thật ra ông ấy là linh mục
của một giáo phận Công Giáo ở
vùng Riverside.
Sau khi nghe chuyện xong, linh mục
Peter bảo tôi hãy yên tâm để ảnh
liên lạc giúp tìm vợ con anh Thanh. Hai
ngày sau, cha Peter gọi lại báo tin đã
tìm được họ rồi. Số là, cha
Peter có điện thoại về địa phận
Công Giáo vùng San Jose và nói chuyện
cùng cha xứ ở đó. May mắn thay vợ của
Thanh còn một bà mẹ ở xứ đạo nầy
và cha xứ đã nói chuyện cùng bà
ấy về việc Thanh muốn gặp lại vợ con
mình.
Hằng ngày tôi vẫn
đến thăm Thanh. Thời kỳ nầy anh đang
được chữa trị bằng hoá trị. Anh
cũng bị những phản ứng phụ như
ói mửa, buồn nôn, đi tiêu chảy
và tiểu cầu cùng hồng huyết cầu bị
xuống thấp nên phải tiếp huyết cùng
chuyển tiểu cầu. Thanh vẫn buồn bã
và thỉnh thoảng tôi thấy Thanh khóc.
Còn người thì hốc hác đi nhiều.
Tôi không nói cho Thanh biết về vụ vợ
con Thanh, để tránh cho Thanh khỏi thất vọng,
nếu không gặp được vợ con mình.
Thanh cũng không nói nguyện vọng thứ hai của
anh là như thế nào.
Sau đó một tuần,
một buổi chiều tôi ghé thăm Thanh. Qua cửa
sổ kiếng của phòng, tôi thấy có hai
người đang quây quần kế bên anh. Một
người đàn bà có vẻ như
là vợ của anh và một cô bé chừng
15-16 tuổi. Tôi đoán chắc là vợ con
của anh. Thanh ngó ra và tôi đã thấy
ánh mắt của anh. Ánh mắt vừa tỏ vẻ
biết ơn nhưng lại đượm buồn
thêm một chút gì u uẩn nào khác nữa.
Tôi mỉm cười và giơ tay lên
chào. Anh gật đầu và cũng mỉm cười
lại.
Tối hôm ấy, tôi
không ghé thăm Thanh như thường lệ,
nhưng trong lòng tôi rất vui mừng, vì biết
rằng Thanh đã tìm được vợ con của
mình. Tình cảnh đã thay đổi
vào lúc cuối đời rồi, Thanh cũng
nên hoà giải để tâm hồn được
an vui và thanh thản một chút. Tôi thầm
nghĩ như vậy.
oOo
Chiều hôm sau, tôi
ghé qua thăm Thanh thì phòng nay đã trống.
Cô trưởng toán điều dưỡng ở
khu nầy đến gặp tôi báo là Thanh
đã đi về San Jose với vợ con mình
và nhờ trao cho tôi một cái túi
xách bằng nhựa. Bên trong túi xách nầy
có một cái túi xách Pan Am mà
tôi đã thấy khi Thanh mới vào nhà
thương nơi phòng cứu cấp. Mở cái
túi xách Pan Am ra thì trong đó có một
túi đồ. Tôi vội mở túi đồ
ra thì có một lá thơ và một
cái mũ màu ngà đã sờn mòn nứt
nẻ nhiều nơi. Tay run run tôi cầm mở rộng
cái mũ cũ nầy ra. Vành mũ bên trong
có 5 chữ viết bằng mực xanh mà nay tuy
nét mực đã mờ loang lổ nhiều
nơi, nhưng tôi vẫn nhận ra là nét chữ
và tên của mình.
Chuyện gì đây?
Sao cái mũ nầy lại
ở đây?
Trời ơi thật khó
hiểu quá. Tôi không tự chủ nổi, vội
ngồi bệt xuống cạnh cầu thang máy
và mở lá thư của Thanh ra đọc.
V thân mến,
Rất ngạc nhiên phải không V
khi nhận lá thư nầy. Xin lỗi V cho Thanh
được gọi tên Dr. V một cách thân
mật nhe. Mình đã học chung với nhau ở
Đại Học Khoa Học mà V vô tình
không còn nhớ Thanh nữa đó V. Thanh
là người hay ngồi đàng sau lưng của
V khi mình học môn Sinh Lý Sinh Hoá của
bà Phiêu (vợ Bác Sĩ Trần Nguơn
Phiêu) dạy.
Có nhiều lần Thanh định
làm quen với V nhưng không có cơ hội.
Một hôm tình cờ thấy V bỏ quên
cái nón (mũ) của Vi ở trong trường
Thanh đã lấy về. Rồi mấy lần định
trao lại cho V nhưng không đành lòng.
Thôi thì cứ giữ một chút gì của
V để mình thương nhớ.
Cả đời Thanh đã mang cái
nón của V theo mình hơn 40 năm. V ơi, chiếc
nón nầy đã vào sinh ra tử với Thanh
khắp bốn vùng chiến thuật, đã trải
qua những thăng trầm dâu bể cuộc đời.
Thật ra thì Thanh cũng rất hạnh phúc
vì lúc nào cũng có cảm tưởng
là V đang ở cạnh mình.
Hôm Thanh từ giã trường lớp
để đi Thủ Đức, có viết thư
giã từ với V và xin gặp V một lần.
Thanh đợi suốt cả buổi sáng nhưng
không thấy V đến. Khi có dịp thì
Thanh cũng cố tìm V nhưng V đã biệt
tích rồi. Nghe phong phanh bạn bè nói
là V đã chết rồi. Thanh thì không
bao giờ tin như vậy.
Ngay ngày đầu vào nhà
thương, Thanh đã nhận ra V liền dù thời
gian có làm V thay đổi, nhưng ánh mắt
và nụ cười của V không khác
xưa. Định nói ra cho V rõ nhưng lại
thôi. Mọi sự đã muộn màng rồi.
Nói ra chỉ làm bận lòng người bạn
của mình.
Bây giờ Thanh xin trao lại chiếc
nón này cho chủ cũ của nó. Lòng của
Thanh cũng rất thanh thản vì cuối đời
được gặp lại V. Lại được V
chăm sóc mấy tuần lễ nay rất chu
đáo và có dịp nói chuyện với
nhau như hai người bạn thân thiết ngày
xưa.
Cảm ơn V đã lo lắng và
chăm sóc Thanh mấy tuần lễ qua. Cũng xin cảm
ơn V đã giúp tìm lại con gái của
Thanh. Thanh bây giờ xin trao trả lại cái
nón cho chủ cũ của nó.
Tất cả tâm tình của Thanh
trong mấy chục năm qua cũng xin gửi lại V.
Xin V nhận vì đây là nguyện vọng thứ
hai và cuối cùng của Thanh.
Vĩnh biệt nhe.
Thanh
Nước mắt tôi
đã rơi ướt đẫm trên thư của
Thanh hồi nào tôi cũng không biết. Thật
là cả một chân tình mà tôi
vô tình không rõ.
Nếu Thanh biết rằng
năm xưa, khi nhận được thư của
Thanh, dù không biết Thanh là ai, tôi cũng
đã bâng khuâng, nửa muốn đến gặp
người bạn nầy trước khi anh lên
đường nhập ngũ, nửa lại ngại
ngùng. Nhưng giờ cuối cùng thì tôi
có đến chỗ Thanh đã hẹn, nhưng
đã muộn vì xe cam-nhông đã chuyển
bánh trên đường vào Thủ Đức.
Nếu biết vậy thì Thanh cũng có phần
nào an ủi. Thôi cũng là số mệnh!
Và trời ơi! Bây
giờ tôi lại mất đi thêm một người
bạn cho cái bệnh ung thư quỷ quái
này nữa rồi. Cả đời tôi
đã làm việc không biết mệt để
đem một chút gì hiểu biết về ung
thư ra chia sẻ cho người đời qua những
buổi thuyết trình, hướng dẫn, hỗ trợ
để ngăn ngừa hay tìm kiếm ung thư sớm.
Phải chi tôi gặp lại
Thanh sớm hơn để có dịp khuyên Thanh
nên ngừng hút thuốc, để tìm kiếm
bệnh này sớm thì biết đâu Thanh sẽ
không đến nỗi phải bó tay như
bây giờ. Phải chi .. phải chi ..
Cả một nỗi niềm
hối tiếc ân hận nặng trĩu trong lòng
tôi. Tôi biết cuộc hành trình để
tìm kiếm và diệt trừ ung thư của
tôi vẫn còn dài đăng đẳng
không biết bao giờ cho xong.
oOo
Ở trên đời
có những mối tình như cơn lốc, khi
qua rồi thì để lại những tàn
phá đau thương. Cũng có những mối
tình đơn phương, nhẹ nhàng, thâm
trầm và sâu sắc để lại cho tâm
hồn tràn đầy những kỷ niệm như
những hương xưa, những kỷ vật
đơn sơ, những lời thơ mộc mạc, những
nụ cười bâng khuâng, hay một bản nhạc
thân tình. Xin hãy trân quý gìn giữ
những mối tình nầy, vì tất cả
có thể làm cho chúng ta cảm thấy hạnh
phúc và ấm áp cõi lòng, vì biết
rằng đâu đó trên cõi đời
này, có một người nào đó
lúc nào cũng nhớ và yêu thương
mình. Khi có dịp để lo lắng cho nhau
thì cũng nên hết lòng hỗ trợ để
biết đâu mình có thể duy trì sức
khoẻ hay mạng sống cho những người
thân mến này.
Tôi đang trầm
ngâm suy nghĩ thì có tiếng gõ cửa
phòng và giọng Jenny:
- Dr. V, có một cô bệnh
nhân mới đến phòng số 32, 43 tuổi,
người Việt, bị ung thư ngực tới thời
kỳ thứ 4, xin Dr. V giúp tụi em một chút
nhe. Jenny năn nỉ.
- Được Jenny, tôi
sẽ đến liền. Tôi trả lời.
Lại thêm một
ngày nữa và đời sống mọi người
cứ đi vòng quanh như vậy, theo những lối
đi mà định mệnh đã an bài.
Như nước của những dòng sông cứ
theo phương hướng đã định trước
mà tụ tập về lòng đại
dương. Thôi thì ta hãy an vui với số
phận của mình, hãy tiếp tục cuộc
hành trình mà mình đã chọn lựa,
và cứ ấp ủ những mối tình mà
mình đã có trong tâm hồn, vì
đó là những nguồn hạnh phúc
mà không ai lấy đi được. Tôi thầm
nhủ, với những hành trình dài và
gập ghềnh trong cuộc sống mà mình
còn giữ được những tâm tình
như vậy thật không phải là may mắn lắm
sao?
Sài Gòn, Hạ Trắng,
tháng Sáu, 2013
Võ
Quách Thị Tường Vi
(Trịnh
Gia sưu
tầm và chuyển)