ĐỔ NƯỚC ĐƯỜNG
(Tác
giả : Tràm Cà Mau)
Vợ chồng ông Năm đối
xử với nhau lịch sự như tiên ông tiên bà. Họ
chưa hề to tiếng và gắt gỏng nhau. Cũng có
khi bất đồng ư kiến, nhưng họ biết tạm
thời gác lại các khác biệt, để mà vui hưởng
thời gian trời cho sáu mươi phút trong một giờ.
Bà Năm thường nhắc nhở chồng rằng,
hơn thua nhau mà làm chi, không có lợi cho ai, mà thiệt đến
cái vui, cái yên ấm của gia đ́nh. Bí quyết của ông
Năm để giữ lịch sự với vợ, là khi
nào cũng tự nhủ thầm rằng, đây là "cô em
gái" mới quen biết, phải cưng chiều, nhẹ
nhàng, ngọt ngào, may ra "cô em" mới xiêu ḷng, dại
dột ngă vào ṿng tay ḿnh. Nhờ đó, mà khi nào bà Năm cũng
thấy sung sướng, hạnh phúc, và thấy
thương ông chồng hơn. Phần bà Năm, cũng
theo một phương sách, xem ông như "người
anh trai" mới gặp gỡ, bà phải tỏ ra dễ
thương, lời nói ngọt như mía lùi, hiền
như Đức Mẹ, th́ may ra ông mới bị điên đảo tâm thần, u mê
ám chướng, dám thương "người-dưng-khác-họ"
ngang bằng, hay hơn cả cha mẹ ông. Người
xưa có khuyên "Tương kính như tân", nghĩa là
kính trọng nhau như buổi ban đầu, câu nói đó,
ai cũng biết, mà không mấy ai đem áp dụng để
xây dựng hạnh phúc gia đ́nh. Bởi v́ hàng ngày sống
chung va chạm thực tế rất trần tục, th́
không bực, không xem thường nhau là quư rồi, nói chi
đến cái kính trọng?
Một số bạn bè của bà
Năm, có những ông chồng thiếu chung thủy, các bà vợ
nầy không hiểu tại sao những cô nhân t́nh của chồng
vừa xấu xí dung nhan, vừa thấp kém, mà ông chồng
lại mê như điếu đổ, dám lén lút tư t́nh,
ngày đêm thương nhớ. Có bà cho rằng, đàn ông
ham mê của lạ. Nhưng theo bà Năm, th́ v́ các cô nhân t́nh
nầy khi nào cũng ngọt ngào, dịu dàng, vuốt ve, nịnh
bợ, tâng bốc các ông lên tận mây xanh. Làm tự ái của
các ông được thỏa măn. Trong khi vợ nhà th́ gầm
gừ, nạt nộ, chê bai, nói xấu, hạ thấp các
ông chồng sát ván, th́ các ông đi t́m thỏa măn tự ái bên
ngoài, chẳng có chi là lạ. Phần bà Năm th́ ngày đêm
cứ "đổ nước
đường" cho chồng, làm cho ông có cảm tưởng
rằng, tuy ông chẳng "ngon lành" ǵ với ai,
nhưng là thứ yêu quư của bà vợ. Ông cố gắng
giữ cho xứng đáng với ḷng tin vô điều kiện
của vợ. Bà khen ông đủ thứ chuyện, khen khi
riêng tư, khen với bà con, bạn bè, khen khi có mặt ông,
khen cả sau lưng ông. Khen ông tài giỏi, trí thức, rộng
lượng, dịu dàng, hiểu biết, vị tha,
thương người, có trái tim ấm áp. Có người
cười vào mặt bà khi nghe lời bà khen chồng.
Nhưng kệ họ, bà cứ nghĩ ông đáng được
khen tặng, và bà biết lời khen đó, thế nào cũng
dội lại tai ông, làm ông vui sướng. Chồng vui là
đủ rồi, ai cười mặc xác họ.
Ông cũng khen bà không tiếc lời,
nào là đảm đang, khéo léo, ngọt ngào, dịu
dàng, hy sinh, biết vun xới
cho hạnh phúc gia đ́nh, biết thấy nửa ly nước
đầy chứ không phải nửa ly nước
vơi, không đ̣i hỏi, chẳng mơ ước cao xa.
Ông cho bà là một người phụ nữ lư tưởng,
mà ai cưới bà, cũng sẽ t́m được hạnh
phúc đầy tràn. Bà có đủ công dung ngôn hạnh. Ông
thường ngâm nga hai câu thơ của một thiền giả
bạn ông; "Con ta
đẹp tựa thiên thần. Vợ ta tiên nữ xuống
trần độ ta". Bà biết lời
thơ thậm xưng, nhưng cũng làm cho bà sung sướng
lâng lâng. Một kẻ tầm thường và khiêm tốn
đến mấy đi nữa, khi được xem là
tiên nữ của một ngựi khác, th́ phải sướng
ngất ngây, và sẵn sàng làm đủ thứ chuyện cho
người tôn xưng ḿnh.
Trong một tiệc rượu, có
ông bạn say ngà ngà, nói rằng: "Nếu có một
người nào đó chê bai ta như vợ ta chê, gầm gừ
nạt nộ ta, thiếu lịch sự với ta, và
đ̣i hỏi đủ điều vô lư, mà ta vẫn chịu
đựng được, th́ kẻ đó, chính là vợ
ta, chứ không ai khác". Ông Năm tiếp lời và sửa
lại câu nói rằng "Nếu có một người nào
đó khen tôi như vợ tôi khen, nhỏ nhẹ dịu dàng
và lễ độ với tôi, không ham muốn chi cao xa cả,
làm cho đời sống tôi thêm ư nghĩa, hạnh phúc, th́
người đó, chính là vợ tôi chứ không ai khác".
Nhiều ông bạn kêu ầm lên rằng, đó là trựng hợp
cá biệt, không phải là trường hợp chung, v́ ông
nào trong tiệc rượu nầy, cũng bị vợ mắng
chửi, chê bai, không nhiều th́ ít.
Ông Năm nói rằng, các bạn bị
vợ la mắng nạt nộ, thiếu lịch sự cũng
tại lỗi của các bạn. Trước hết, các bạn
đă làm ǵ, để biến một cô em dịu dàng dễ
thương ngày xưa thành một bà chằng hống hách nạt
nộ. Hoặc v́ các bạn thô lỗ, thiếu khôn khéo, ít dịu
dàng, không ngọt ngào với vợ, hoặc các bạn làm
điều lầm lỗi to lớn, làm khổ các bà, hoặc
v́ các bạn quá chiều chuộng, nhường nhịn
đến độ nhu nhược, để các bà leo lên
cổ bạn ngồi, quen rồi, không gạt xuống
được nữa. Phần nào cũng tại lỗi của
các bạn cả. Nếu biết đặt ra một giới
hạn nào đó, để vợ bạn không vượt
qua, và đừng để cho ai vượt qua cái mức
đó, th́ t́nh trạng tồi tệ khó có thể xảy ra.
Ngay cả con cái, nếu được cưng chiều quá
đáng, nó cũng sẽ cảm thấy bị ức hiếp
và coi cha mẹ không ra ǵ, và kết quả thành đứa
con hư, không dạy được nữa.
Một ông bạn căi rằng:
"Làm sao mà đặt ra giới hạn được?
Khi mới lấy nhau về, tôi nói với vợ rằng, tôi
muốn điều khiển mọi sự trong gia đ́nh
như một vị thuyền trưởng trên chiếc
tàu. Vợ tôi đáp rằng cô ấy hoàn toàn đồng ư,
nhưng xin tôi đừng quên, phải xem cô như một vị
Đô Đốc Hải Quân. Thế th́ xem như đă thua
ngay từ khi chưa ra quân chứ c̣n ǵ?". Mấy ông bạn
cùng cười với nhau vui vẻ. Chỉ có ông Phan ngồi
trầm ngâm, thở dài không nói. Ông Phan nguyên là giáo sư
đại học, lấy một cô vợ là sinh viên của
ông. Ngày xưa, bà vợ ngưỡng mộ, kính trọng và
xem ông như một bậc thánh chữ. Nhưng khi đă kết
duyên xong, th́ cái vị trí thiêng liêng của ông càng ngày càng hạ
thấp xuống, cho đến khi sát tận đất
đen, và bà xem thường ông như một kẻ vô tích sự,
lẩm cẩm. Những góp ư của ông trong gia đ́nh,
đều bị bà đáp lại bằng những cái trợn
mắt nghiêm khắc, làm ông chùn lại như một kẻ
phạm tội. Bà đơn phương quyết định
mọi sự, ông không có quyền xía vào. Bởi v́ khi nào bà cũng
tự cho là đúng, và nghĩ rằng ông luôn luôn sai. Có
người hỏi ông Năm tại sao sự việc
đảo lộn như thế, từ kính trọng, đến
xem thường tệ mạt. Ông Năm cười và giải
thích rằng, khi ông Thánh đă luồn tay vào bụng người
đàn bà, th́ đừng mong chi c̣n sự kính trọng. Vả
lại, khi sống chung dài ngày, th́ cái tầm thường của
ông Thánh phơi bày ra quá rơ ràng, và như ca dao nói "Gần
chùa gọi Bụt bằng anh". Trong ḷng bà, ông ấy
đă được tôn vinh lên làm thần tượng, mà
thần tượng nào rồi cũng sụp đổ.
Khi thần tượng sụp đổ, th́ đau. Thà không là ǵ hết, mà lại khỏi bị
sụp.
Nhiều người biết chuyện
gia đ́nh ông Năm, gán cho bà Năm là cái "ḷ nấu mật
đường". Mỗi khi nghe giọng nói thỏ thẻ
ngọt ngào của bà với ông chồng, nhiều ông bạn
tức uất lên, cho rằng ông Năm đă bị vợ
đổ nước đường, bị mê hoặc.
Ông Năm th́ vui vẻ nói với bạn rằng, thà
được đổ nước đường vào
tai, c̣n hơn là bị tạt a-xít lên mặt. Bị tạt
a-xít mà vẫn phải cắn răng chịu đựng mới
đau. Ông nói thêm rằng, ông Trời c̣n ưa nghe lời nịnh
nọt, huống chi ông là một kẻ phàm phu tục tử.
Mỗi khi nhờ chồng làm việc
ǵ, bà Năm thỏ thẻ: "Anh
ơi, anh có thể nào giúp cho em việc nầy không? Em cám
ơn anh lắm. Nếu anh bận th́ thôi, để khi
khác, hoặc em sẽ làm lấy cũng được". Nghe
lời ngọt ngào đó, dù có bận việc khác, ông
Năm cũng bỏ ngang, để giúp vợ. Lời dịu
dàng của bà, có hiệu quả hơn lời gắt gỏng,
lên giọng sai bảo của các bà vợ khác. Ông Năm
đă từng nghe vợ bạn ông ra lệnh cho chồng
làm việc nầy, việc kia, và nếu các ông bạn
chưa kịp làm, th́ to tiếng phiền trách than văn. Các ông
chồng nầy, miễn cưỡng làm việc vợ sai
bảo, với tâm trạng bực bội, khó chịu,
đôi khi làm cho xong, cho có. Riêng ông Năm, th́ làm việc vợ
nhờvới tâm trạng phơi phới, vui vẻ, v́ ông
giúp vợ, chứ không phải làm theo mệnh lệnh. Ông
làm với hết cả tấm ḷng.
Một lần bà Năm nghe bạn
chê chồng : "Ông ấy
lười không lấy chi tả được. Vụng về, tay chân loạng quạng, chẳng
làm được việc ǵ nên thân. Con người đó,
không cótim, óc, độc ác, thiếu nhân từ", Bà
Năm nhẹ nhàng nói với bạn: "Chị chê chồng như vậy,
nhưng nghĩ kỹ xem, có ông nào khá hơn ông chồng chị
không? Thử chỉ cho tôi xem với!", Bà bạn
x́ một tiếng và nói: "Tôi thấy trong bạn bè, ông nào cũng
hơn ông chồng của tôi. Như ông Phan, ông Lê, ông Trần
chẳng hạn. Ông chồng tôi tệ nhất đám. Bà Năm cười mà nói: "Tôi
nghe bà Phan, bà Lê, bà Trần đều chê các ông chồng thậm
tệ, như chị chê chồng chị. Ở ngoài nh́n vào,
th́ không thấy sự thực, nhưng sống chung lâu ngày,
mời biết rơ tận tường. Nhưng tôi nói cho chị
biết, t́m cho ra những người như chồng chị,
như ông Phan, ông Lê , ông Trần cũng không phải dễ.
Khó lắm. Các
bà không thấy ưu điểm của chồng ḿnh, mà chỉ
nh́n vào khuyết điểm để than van trách móc. Ai mà
không có những khiếm khuyết. Phải nh́n vào ưu
điểm của các ông, để mà vui sống cho hạnh
phúc. Đứng bên núi nầy, thấy núi bên kia xanh
tươi long lanh diễm ảo, nhưng qua bên kia nh́n lại,
mới biết cái núi của ḿnh cũng đẹp đẽ
muôn màu. Không nên đem chồng người khác mà so sánh với
chồng ḿnh. Phải nhớ, ḿnh cũng may mắn lắm,
mới kết duyên được với mấy ông nầy.
Các ông không phải là đồ bỏ đi đâu nhé. Ngày
xưa được các ông ngỏ lời cưới làm vợ,
chúng ta đều mừng hết lớn, chứ đâu phải
ỏng eo chê bai. Chị xem,
như con Huyền em tôi, chê chồng, bỏ chồng, chạy
rong rong săn chồng mới cả mười năm nay
không t́m ra được một kẻ tệ cỡ ông chồng
cũ. Chúng ta cũng vậy, nếu bỏ mấy ông nầy
ra, th́ cũng chẳng ai
dám rước, không ai tốt
hơn các ông nầy đâu.
Bố mẹ của ông Năm th́
khác hẳn, khẩu chiến triền miên. Hầu như suốt
ngày lo căi nhau là việc chính yếu.
Ông bà cụ tranh nhau hơn thua từng tấc từng
li. Họ tranh luận gay gắt
cả những điều hoàn toàn không liên hệ đến
chính họ. Ví như căi nhau rằng mùa đông năm ngoái lạnh
hơn mùa đông năm nay, người Do Thái đáng
thương hơn người Palestine, khoai tây ngon hơn
khoai lang. Có nhiều điều, hai ông bà cụ đều
đúng cả, mà cũng căi nhau tưng bừng. Tiếp theo
là to tiếng, rồi bà nói hỗn, lôi tội lỗi xưa
của ông ra mà nhiếc móc. Ông th́ giận run, tím mặt, bà
th́ khóc lóc bù lu. Gia đ́nh không khi nào thiếu sóng gió v́ chuyện
tranh luận hơn thua giữa hai ông bà. Con cái trong gia
đ́nh t́m cách xa lánh, không dám về thường xuyên để
tránh tên bay đạn lạc. Ông Năm thường khuyên rằng,
hơn thua nhau làm chi, ai đúng ai sai th́ chẳng được
ǵ, mà tranh căi, làm cả gia đ́nh mất đi cái êm ấm, cái hạnh phúc. Nếu cái đúng và cái sai đó,
có thể vun xới thêm cho gia đ́nh, th́ cũng nên tranh căi,
mà chỉ tranh căi nhẹ nhàng, trong tinh thần xây dựng,
chứ không phải để được thua. Nhưng
lời của ông Năm chỉ như nước đổ
là khoai, bố mẹ ông đă ghiền căi nhau, ghiền
đập vỡ cái yên ấm gia đ́nh. Cũng có thể
nhờ thấy gương của bố mẹ, mà ông
Năm t́m ra được lối cư xử hợp lư
hơn, để nuôi dưỡng cái êm ấm của gia
đ́nh riêng ông.
Bà Năm thường nói rằng, mục
tiêu chính của con người trên thế gian là đi t́m hạnh
phúc. Làm việc kiếm tiền, tích trữ tài sản, cũng
chỉ nhắm đến việc mưu cầu hạnh
phúc. Đi theo một lư tưởng đẹp, cũng chỉ
v́ muốn đem lại hạnh phúc cho người khác, muốn
phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân loại.
Nếu mỗi người tự lo được cho hạnh
phúc của cá nhân họ, th́ cũng đỡ gánh nặng
cho xă hội, cho người khác. Bà tự lo cho hạnh phúc
riêng của gia đ́nh, và bà quan niệm rằng, trong một
quốc gia, nếu nhà nhà đều được hạnh
phúc, th́ đó là một xă hội lư tưởng, mong ước
muôn đời của nhân loại.
Ông bà Năm đă về hưu,
hưởng trợ cấp an sinh xă hội, không nhiều,
nhưng đối với ông bà, th́ đă quá đủ. Theo
ông, th́ có nhiều bao nhiêu cũng thiếu, mà có ít bao nhiêu cũng
đủ. Cái thiếu hay cái đủ đều nằm
trong tâm, chứ không phải ở con số. Không nhiều
tiền, nhưng ông bà Năm ăn tiêu thoải mái. Cứ
theo câu "Khéo ăn th́ no, khéo co th́ ấm". Họ sống
thong thả, không hà tiện, chẳng kiêng dè. Nhưng ăn
tiêu hợp lư, khi cần, th́ tiêu, không ngại. Mùa nào thức
đó, mua thức ngon nhất mà ăn, v́ họ không c̣n
ăn được nhiều như thời c̣n trẻ
trung.
Ông bà Năm tự cho là họ giàu có
hơn rất nhiều người
trên thế gian nầy. Giàu thật sự, chứ không phải
tự an ủi. V́ hai ông bà biết đủ, không ham, không
thèm muốn có thêm tiền của, hay thứ ǵ khác. Ông
thường lặp lại một câu của ai đó,
nói rằng: "Nếu một người giàu,
đă có một trăm triệu đô-la, mà c̣n muốn có
thêm hai trăm triệu nữa, th́ người đó nghèo
hơn tôi hai trăm triệu, v́ tôi chỉ có mấy ngàn bạc
thôi, mà đă thấy là đủ". Có lần,
một ông bạn khoe đă là triệu phú rồi, bà Năm
hỏi rằng, là triệu phú th́ ông hơn người khác
cái ǵ? Có ăn được nhiều hơn ba bữa
không? Có ngủ thêm được giờ nào không? Có an b́nh hạnh
phúc hơn ai không? Ông triệu phú tẽn ṭ, không trả lời
được.
Có người cho rằng, hai ông bà lạc
quan tếu, tự măn không đúng. Nhưng chính ông bà Năm,
không hề nghi ngờ chút nào về mức độ giàu có
của họ. Tiền không nhiều, mà chẳng bao giờ
thấy thiếu thốn. Đó là ch́a khoá của sự giàu
sang. Hai ông bà giàu t́nh
thương gia đ́nh, giàu hạnh phúc, giàu hoà hợp,
tương nhượng, giàu không khí êm ấm trong t́nh vợ
chồng, lại được
bà con bạn bè yêu mến. Họ không muốn cái ǵ hơn nữa.
Hai ông bà Năm có chương tŕnh
"mỗi ngày một món ngon" và xem như hàng ngày đều
đi ăn tiệm. Khi th́ nấu theo kinh nghiệm, khi th́
theo lời bạn bè dạy, khi th́ học được
trên đài truyền h́nh. Dù đă biết cách nấu ăn
ngon, ông bà Năm vẫn chịu khó lắng tai nghe người
khác truyền nghề nấu ăn, để lấy thêm
kinh nghiệm, và bổ khuyết cho cách nấu cũ. Mỗi
ngày một món: phở, bánh canh, bún ḅ, ḿ quảng, ḿ vịt
tiềm, cá hấp tương gừng, sườn dê nướng,
thịt ḅ chiên, ḅ kho, ḅ tái chanh, và nhiều món rặt mùi
đồng quê như canh tập tàng, canh bí, mướp, rau
lang chấm tôm kho đánh. Thức ăn nấu tại nhà hợp
với khẩu vị và chế biến tinh vi hơn. Cứ
đúng một tháng, mới quay lại món cũ. Những
khi học được món lạ chiếu trên truyền
h́nh, ông bà Năm chạy xe xuống chợ, t́m mua vật liệu,
về nhà nấu thử và mời thêm bạn bè đến
thưởng thức.
Mỗi sáng, hai ông bà dậy sớm,
cùng tập thể dục theo cử động hoa tay múa
chân, vừa tập thể dục, vừa xem truyền h́nh,
vừa nghe nhạc vui và bàn tán đủ thứ chuyện.
Họ đă dặn nhau, chỉ nói chuyện vui, không nói chuyện
buồn. Nói lời lạc quan vui tếu, không bàn đến
các vấn đề bi quan, buồn bă. Khi đài truyền h́nh không có tin tức
hấp dẫn, th́ họ xem phim truyện. Ông bà lựa những
phim khôi hài, vui nhộn, làm tinh thần phấn chấn. Ông
bà không xem những phim buồn, tránh những chuyện t́nh
sướt mướt éo le đầy nước mắt.
Không tội chi mà cơng cái buồn vô cớ lên lưng, làm cho u
ám một ngày b́nh thường. Những năm trước,
khi c̣n đi làm, ông bà không bao giờ đem chuyện khó
khăn buồn phiền ở sở về nhà, cũng không
kể lể về những chuyện rắc rối của
bà con, bạn bè, đồng nghiệp. Sợ làm mất cái
thanh thản tự nhiên của gia đ́nh. Nghe chuyện buồn
của người khác, không giải quyết hay giúp đỡ
ǵ cho thiên hạ được, th́ thà quên đi, đừng
để ư đến, cho đời sống được
b́nh yên hơn.
Sau khi thể dục xong, ông bà ngồi vào bàn,
pha trà nhâm nhi, và cùng ăn điểm tâm. Sáng nào ông ngâm câu
thơ: "Mời em cạn chén trà
hương. Khi ngày mới chớm khói sương mịt mờ.
Trăm năm thu ngắn một giờ. An vui, hạnh phúc
bên bờ thần tiên". Bà ngâm tiếp
theo: " .. Mời nhau đối ẩm trà
sương. Mỗi ngày uống cạn hoa hương đất
trời". Ông châm thêm trà vào chén cho bà. Bà cầm
chén đưa lên môi tận hưởng hương thơm
và vị đắng ngọt trong cổ họng.
Một khoảnh vườn nhỏ
ven hè được ông bà chăm sóc, trồng đủ thứ
rau màu như ớt, sả, hành, ng̣, tần ô, rau thơm, rau
răm, rau húng, mồng tơi, cà chua, cải cay , và có một
thau trồng rau muống, những thứ rau nầy, đủ
cho bà Năm nấu những món ăn đậm đà mùi vị
quê hương. Mỗi ngày tưới vun, cũng giúp cho ông
bà t́m được chút thư giăn tâm hồn.
Bà Năm tập thưởng thức
những thú giải trí của đàn ông, như xem các trận
thể thao, các cuộc so tài của những vơ sĩ. Bà biết
và nhớ tên của những cầu thủ lừng danh. Biết
đội banh nào hay, đội nào tầm thường, và
năm nào th́ ai giật được giải vô địch.
Bà bàn luận về chiến thuật, chiến lược
của từng đội cầu. Cùng vỗ tay reo ḥ khi gay
cấn. Riết rồi bà cũng mê xem tranh tài thể thao
trên truyền h́nh. Có lần đội banh của thành phố
tỉnh nhà được vào tứ kết, hai ông bà cũng
lùng mua cho ra vé đi xem trận đấu, cũng la lối,
ḥ hét chung với khán giả đến khản cổ, và đêm
về rất khuya, đi bộ thật xa mới đến
băi đậu xe. Ra về, c̣n bàn tán hăng say.
Dù không ưa xem thi sắc đẹp
hoa hậu thế giới, hoa hậu nước Mỹ, ông
Năm cũng cùng bà xem, cho có bạn, làm bà vui hơn. Ông b́nh luận về từng thí
sinh, và chấm điểm mỗi người trước
khi giám khảo tuyên bố. Ông
cũng tập ḥa hợp với cái sở thích của bà,
để cùng cộng hưởng niềm vui.
Mỗi đêm khi trời lạnh,
hai ông bà đắp chung chăn, nằm vừa nói chuyện
vừa xem thi đấu thể thao, vừa nghe nhạc, và
đọc sách. Không ai biết tại sao họ có thể
cùng thưởng thức bốn loại giải trí trong
cùng một lúc. Tay ông bà cầm sách và đọc khi
truyền h́nh thể thao tạm ngưng để quảng
cáo. Tiếng nói của máy truyền h́nh thể thao
được điều chỉnh thật nhỏ, chỉ
khi nào muốn nghe, th́ phải lắng tai thật kỹ. Một
truyền h́nh khác, đang phát những bài hát có nhạc cảnh
kèm theo. Khi thấy vui, hai ông bà th́ thầm bàn tán, tâm sự
dong dài. Đôi khi cả hai ngủ quên, để truyền
h́nh chiếu măi đến khuya.
Bà Năm thường tự nhủ
ḷng rằng, cố sống sao cho trọn vẹn, sống
như ngày mai sẽ phải chết. Xử sự với
chồng như ngày mai sẽ không c̣n nhau. Để mỗi
ngày, mỗi giờ không có ǵ phung phí của trời cho.
Đố ai mà biết được những bất ngờ
của định mệnh. Đang khoẻ mạnh, người
nào cũng có thể lăn đùng ra mà về trời luôn.
Có thể bị tai biến mạch máu năo, tim, có thể gặp
tai nạn bất ngờ. Khi sống, cố gắng vuông
tṛn. Đừng để đến khi mất nhau rồi,
mới làm được điều tử tế, hoặc
khóc lóc, hoặc ân hận việc đă làm, việc chưa
làm.
Bà Năm không sợ thua chồng trên
bất cứ lănh vực nào, bởi vậy nên bà chưa bao
giờ cố tranh hơn thua với ông. Bà thà chịu thua
để được có t́nh thương, c̣n hơn thắng,
mà mất cái êm ấm của gia đ́nh. T́nh thương quư
hơn tất cả. Hơn thua với chồng, đâu có
ích lợi ǵ. Bởi v́ bà biết điều như thế,
nên ông chồng bà cũng không
bao giờ lấn lướt vợ. Ông luôn bảo vệ ư
tưởng của bà. Ông thường nói rằng, lẽ
phải có nhiều mặt khác nhau, mà phía nào cũng có phần
đúng lẫn phần sai. Theo ông, th́ không ai hoàn toàn đúng,
không ai hoàn toàn sai. Đừng tranh
luận đúng sai làm ǵ cho mất th́ giờ sống.
Đôi khi hai vợ chồng ông cũng có những ư tưởng
xung khắc, nhưng không v́ vậy mà tranh luận căi vă cho
ra lẽ phải. Bà tôn trọng ư ông, ông tôn trọng lối
suy nghĩ của bà
Có những đêm ông bà Năm ra bực
đá bên bờ biển câu cá. Cắm một cái lều vải
nhỏ che sương. Hai người ngồi chờ cá cắn
câu, nói chuyện và nghe nhạc êm dịu nho nhỏ phát ra từ
một cái máy radio. Khi câu được những con cá ngon,
bà Năm mở ḷ ga, nấu cháo ngay trên băi, có tiêu, hành, ng̣ và
nước mắm đă mang theo sẵn. Hai vợ chồng
cùng ś sụp húp cháo nóng, cay, và bí mật nhắp chén rượu
cay cho ấm bụng. Sau đó, câu tiếp, hoặc vào lều
nằm nghỉ ngơi một chốc, rồi ông nhịp
đàn cho bà hát những khúc vui tươi yêu đời. Có
khi cùng đồng ca, lời hát vang vang trên bờ biển
cùng với tiếng sóng vỗ ŕ rào trong đêm khuya.
Bà Năm có giọng ấm áp và thích
hát. Cho nên những khi bạn bè tổ chức hát Karaoke th́
ông bà hăng hái tham gia. Bà không thích hát theo nhạc đệm
trong dĩa, mà thích được ông chồng đánh
đàn cho bà hát, và khi đến những đoạn cần
được tiếng hát phụ làm nền, th́ ông hát theo
bà. Có khi hai vợ chồng đi xa hơn trăm dặm,
để tham gia buổi ca nhạc bỏ túi, và trở về
nhà vào hai giờ sáng giữa mùa đông rét mướt. Ông
Năm thu tiếng hát của bà vào dĩa cứng, thỉnh
thoảng mở ra nghe, để t́m vui, và để bà thấy
được những đoạn hát chưa được
hay, hoặc sai nhịp. Ông Năm cũng biết làm thơ.
Thơ của ông chỉ viết cho bà, và ca ngợi t́nh yêu của
bà, ḷng hy sinh của bà, và cám ơn bà đă đem lại hạnh
phúc b́nh thựng cho gia đ́nh. Ông chỉ để riêng cho
bà đọc thôi, không phổ biến trong bà con bạn bè.
Con cái của ông bà đă lớn,
đi làm ăn xa. Hai ông bà lo cho nhau, chăm chút cho hạnh
phúc từng giờ, từng ngày. Tuổi già, không cần phải
lao động mà tháng tháng vẫn có tiền an sinh xă hội
chuyển vào trương mục ngân hàng, đủ cho gia
đ́nh ăn tiêu thong thả. Ông bà cho đó là một hồng
ân, ơn phước của xă hội ban cho. Hai ông bà ư thức
rằng, họ c̣n sung sướng
hơn nhiều tỉ người trên thế giới nầy.
Hàng trăm triệu người trên thế giới nầy
c̣n thiếu ăn hàng ngày, c̣n không đủ áo quần chống
rét lạnh. Hàng trăm triệu người già không có
nơi nương tựa, đời sống bấp bênh,
con cái không đủ khả năng phụng dưỡng.
Hàng trăm triệu gia đ́nh phân ly, sống cô đơn
trong tuổi già, góa bụa. Chưa kể những người
đau yếu, bệnh hoạn nặng nề.
Ông bà Năm thường cám ơn Trời
đă cho ông bà có sức khỏe tạm ổn định
như hôm nay, đời sống tương đối
không thiếu thốn vật chất và gia đ́nh c̣n nguyên vẹn.
Bởi vậy, nếu không biết chăm sóc cho hạnh
phúc gia đ́nh, không biết hoan hỉ với hoàn cảnh hiện
tại, th́ thế nào cũng bị trời phạt, lấy
mất đi một phần hay tất cả những ân huệ
đang có. Bởi vậy, trước tiên ông bà biết tử
tế với bản thân, rồi tử tế với
người hôn phối, bà con, bạn bè, láng giềng và tha
nhân.
Ông bà Năm nói với nhau rằng, hạnh
phúc gia đ́nh cũng như trồng cây, cần phải
chăm nom, tưới bón, vun trồng, hoa hạnh phúc mới
nở tươi tốt. Không thể măi trách móc nhau, nói nặng
lời với nhau, đ̣i hỏi nhau những điều
quá đáng, mà mong cuộc sống gia đ́nh được
hạnh phúc êm ấm. Ông bà biết cho nhau vô điều kiện,
mà không đ̣i hỏi phần trả lại, và nh́n thấy
những t́nh thương mà người phối ngẫu
dành cho.
Ông bà Năm học được rất
nhiều từ cặp vợ chồng căi nhau suốt ngày, gắt
gỏng nhau vô cớ, nói nặng lời với nhau, bực
bội nhau, tranh hơn thua nhau từ tí. Nhưng những người nầy
toàn là kẻ tốt bụng, hiểu biết, và dễ
thương, lịch sự. Họ
chỉ tốt, dễ thương, dịu dàng, lịch sự
với người ngoài thôi. C̣n với vợ chồng, họ
đối xử như những
người không biết điều, những kẻ thô lỗ
thiếu lịch sự và không ngại tự làm tổn hại
đến cái êm ấm hạnh phúc của gia đ́nh họ.
Đáng ra, họ được sung sướng hạnh
phúc bên nhau, nhưng họ đă tự làm cho cuộc sống
trở nên nặng nề, khó chịu, và gia đ́nh đi gần
đến địa ngục.
Thấy cái gương của họ để ông bà Năm soi và tự sửa
ḿnh.
Vợ chồng ông bà Năm khi nào cũng
đối xử với nhau như thời mới quen biết,
lịch sự, ngọt ngào, dịu dàng, nhường nhịn
nhau, cho nên hoa hạnh phúc trong ḷng họ tươi tốt,
nở thắm bốn mùa. /.
TRÀM
CÀ MAU
(Huon Doan
sưu tầm và chuyển)