ĐÊM XA NGƯỜI
(kim thanh)
Em ơi! lửa tắt bình khô rượu
Đời vắng em rồi say với ai?
(Vũ Hoàng Chương)
1. Tôi gặp nàng lần đầu,
khoảng giữa 1970, cách đây bốn
mươi bốn năm, khi đang là Trung đội
trưởng Chính Huấn của Đại đội
204 CTCT Nha Trang. Một buổi sáng, Thiếu úy
Cường, Trung đội phó, vào văn
phòng gặp tôi, cùng với một thiếu nữ
rất đẹp, vẻ hiền thục, tuổi độ
đôi mươi. Cường nói:
- Xin giới
thiệu với Trung úy, đây là cô
Hương Mai, đến xin việc.
Tôi ngừng
viết, đứng lên, chào nàng. Thấy
gương mặt thanh tú, môi thắm tự
nhiên, tóc huyền rẽ đường ngôi ở
giữa, buông lơi trên bờ vai, mắt to
đen, mũi thẳng, trong bộ quần jeans và
áo pull tím ôm dáng cao thon, đầy đặn,
tất cả nơi nàng biểu hiện một vẻ
đẹp có phần cổ điển, như trong
tranh Raphaël, tràn đầy sức sống, và
dưới mắt tôi đã đạt quá
tiêu chuẩn của một ca sĩ chuyên nghiệp,
nói chi ca sĩ chính huấn - hay nữ huấn
đạo, theo ngôn từ chính thức.
Hương Mai ngồi xuống, và bắt đầu
tự giới thiệu, giọng nhỏ nhẹ, nửa Huế
nửa Nha Trang:
- Thưa
Trung úy, gia đình em ở Ninh Hòa. Ba em
là sĩ quan phục vụ tại Tiểu khu Phú
Yên. Em còn mẹ và ba đứa em nhỏ. Em
thi rớt Tú tài I, chán quá, bỏ học
luôn ..
Tôi ngắt
lời, nói một câu khá vô duyên:
- Thi rớt
là chuyện thường. Đừng vội nản,
nhất là mới rớt lần đầu. Tôi
khuyên cô nên tiếp tục việc học. Nghề
nữ huấn đạo ba chìm bảy nổi lắm,
không có tương lai đâu. Trừ phi, sau
này, nếu cô trở thành một ca sĩ hoặc
diễn viên nổi tiếng.
Nàng tỏ vẻ ngạc nhiên, đăm
đăm nhìn tôi, rồi ngập ngừng hỏi:
- Trung
úy nói thế có nghĩa là Trung úy
không muốn nhận em?
- Không
đâu. Tôi không có quyền quyết định.
Về sắc, riêng tôi đã chọn cô rồi,
chắc Thiếu úy Cường đây cũng
đồng ý với tôi. Về tài, thì
cuối tuần này Trung đội sẽ tổ chức
văn nghệ để các thí sinh vào thi phần
hát. Tôi hy vọng cô sẽ có điểm
cao.
Câu
này, dĩ nhiên, tôi cũng đã nói
với những cô thí sinh khác, trước
nàng.
Buổi
văn nghệ thuộc loại bỏ túi được
tổ chức tại hội trường đại đội.
Như thường lệ, tiếng đàn tiếng trống
xập xình vừa trổi lên đã thu
hút một số đông khán giả từ
khu gia binh và đồng bào quanh vùng Bình
Tân - nơi chúng tôi trú quân, không
xa Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân bao nhiêu.
Dưới ánh đèn màu lấp lánh, bốn
nữ huấn đạo "cơ hữu" của
đại đội bỗng biến dạng, son phấn
điểm tô, đẹp lộng lẫy trong những
chiếc áo dài thướt tha, thay cho bộ đồng
phục thường ngày tôi đã quen mắt
- quần jeans và áo sơ-mi trắng pha màu
xanh xám. Tám cô thí sinh cũng thế, cũng
đều yêu kiều, lả lướt như
tiên giáng trần. Nhận ai, bỏ ai, là cả
vấn đề làm nhức đầu! Y như thi
hoa hậu bây giờ.
Tôi ngồi
hàng ghế khán giả, bên cạnh Đại
úy Đại đội trưởng 204 Phạm
Văn Tải (hiện định cư cùng thành
phố Portland, Oregon), một sĩ quan nổi tiếng bay
bướm, một đơn vị trưởng có
tài chỉ huy và tổ chức, một người
bạn trung thành và dũng cảm dám sống
chết với bằng hữu và thuộc cấp, từ
thời còn ở Ban Mê Thuột, Kon Tum, ai cũng mến.
Đặc biệt, ông còn là một nhạc
sĩ hào hoa với ngón đàn dương cầm
và phong cầm điêu luyện tại các vũ
trường, sau giờ làm việc. Còn tôi
mù tịt về âm nhạc, văn nghệ, thỉnh
thoảng nổi hứng hát vớ vẩn vài
bài, nhưng giọng faux và luôn sai nhịp,
và nếu cực chẳng đã phải ra
sàn nhảy tôi chỉ biết có hai điệu
tủ: slow, mà tôi thích nhất, vì
không hao sức, và boston, mà tôi đã
quên. Nhưng không hiểu sao ông lại bổ
nhiệm tôi trông coi trung đội Chính huấn.
Sau này, mới vỡ lẽ, đó bởi vì
ông không muốn giao trứng cho ác, nghĩa
là đặt tôi vào kỷ luật và
trách nhiệm nặng nề của một ông
"thần giữ của" giùm cho cha mẹ
các nữ huấn đạo, đa số còn rất
trẻ, theo giao ước bất thành văn với họ:
tạo bầu không khí gia đình thân
ái giữa các nhân viên và ca sĩ
trong trung đội, nhưng đồng thời bảo vệ
tối đa các cô khi đi công tác nhất
là ban đêm, không để rủi ro nào
xảy ra, không để sĩ quan và quân
nhân thuộc đơn vị khác hoặc ngay trong
đại đội đến ve vãn, dụ dỗ,
làm tai tiếng.
Mỗi
thí sinh sẽ hát hai bài tự chọn, một
tình cảm, một hùng mạnh, và trước
đó được phép đến tập mỗi
ngày với ban nhạc Chính huấn. Điểm số
dựa trên phong cách trình diễn và nhất
là giọng ca. Phong cách có thể tập luyện,
nhưng giọng ca là thiên phú, cũng như
hồn thơ và óc hài hước, như ai
đã nói. Ca sĩ cỡ tôi là bị loại
ngay. Đêm ấy, cả tám cô thí sinh
đều rất xuất sắc. Hương Mai hát bản
Serenata, nhạc Enrico Toselli, lời Việt Phạm Duy - bài
ruột của tôi từ dạo được nghe dĩa
thâu của Tino Rossi. Viens, le soir descend, et l'heure est
charmeuse. Viens, toi si frileuse, la nuit déjà comme un manteau
s'étend .. Lắng trong tiếng chiều ngân, nhạc
dặt dìu ái ân .. Nhạc và lời
đã hay, và nàng diễn xuất tuyệt vời,
như một ca sĩ chuyên nghiệp, với dáng
điệu lúc tha thiết, si mê, lúc kiêu
sa, hờ hững, với giọng buồn, trầm bổng,
lên xuống cung bậc một cách tự
nhiên, dễ dàng, theo tiếng clarinette thổn thức
của một anh sĩ quan bạn, Trung úy Nhuệ,
Quân Cụ, được mời đến tăng
cường giúp vui. Tôi ngạc nhiên, sung
sướng, nghe xôn xao bao nhiêu là mộng cũ
và lời yêu gọi mời, giục giã. Cảm
giác ngất ngây hiếm hoi đưa hồn xa rời
cõi đời ô trọc và khói lửa
chiến tranh trở về những bến mơ thiên
đường diễm ảo, cũng như mỗi lần
nghe Kim Tước hát bản Tiếng Thời Gian của
Lâm Tuyền và Juliette Greco ca bài Les Feuilles
Mortes, phổ thơ của Jacques Prévert. Tôi vốn
yêu những ca sĩ và thi sĩ đích thực.
Vì muốn hát và viết ra những ngôn
ngữ mượt mà, quý phái, trữ
tình như thế, họ phải có một
tâm hồn rất thanh cao, trong sáng, luôn hướng
về cội nguồn Chân Thiện Mỹ từ trời
phản chiếu xuống nghệ thuật trần gian.
Một tuần
sau, Trung đội Chính huấn họp bàn về
kết quả thi tuyển, dưới sự chủ tọa
của đại đội trưởng. Chỉ lấy
hai trong tám thí sinh, nên việc chọn lựa
không dễ. Nàng đứng nhất với số
phiếu tối đa gồm của ban nhạc và tất
cả nữ huấn đạo. Và của tôi nữa,
dĩ nhiên.
2. Mấy tháng sau, Hương Mai
đã quen công việc. Như những nữ huấn
đạo khác, mỗi ngày nàng đến
đại đội tập dượt đều đặn,
và không bao giờ vắng mặt vào những
đêm công tác. Gặp tôi, nàng
luôn chào hỏi vui vẻ, lịch sự, khác
với Thiên Ân, một nữ huấn đạo
"ma cũ", cũng đẹp và hát rất
hay, thấy tôi đâu là tìm cách
né tránh. Thiếu úy Cường bảo
tôi: "Cô ấy giận
Trung úy vì đã cấm các cô
không được giao du thân mật riêng lẻ
với bất cứ ai trong khi công tác và tập
dượt.” Còn nhớ trong buổi văn nghệ mừng Tết
của Đại đội, Thiên Ân lên
hát một bản tình ca (tôi quên tựa
đề), và mắt hướng về phía
tôi, nói tỉnh bơ: "Bài
này em xin riêng tặng Trung úy NKQ, Trung đội
trưởng Chính huấn rất độc tài
và hắc ám của lòng em". Cả hội trường
cười rộ. Tôi cũng bật cười theo.
Một
hôm, Hương Mai đến xin Đại úy Tải
cho đi hát tại vũ trường Nha Trang Hotel
ngoài giờ để kiếm thêm tiền.
Ông chấp thuận, với điều kiện khi cần
đi công tác là phải nghỉ hát.
Còn tôi khuyên nàng không nên cho ai biết
đang làm việc với Đại đội 204
và đổi biệt danh khi hát cho vũ trường,
bởi lý do an toàn cá nhân. Dần dần,
cảm tình của tôi dành cho nàng tăng
trưởng vì tính tình khả ái, tấm
lòng chân thật, cử chỉ dịu dàng, cộng
với tài nghệ, sắc đẹp tự nhiên
và nét duyên dáng trong lời ăn tiếng
nói đã làm nàng trở thành ca sĩ
hoa khôi, ít ra là đối với lòng
tôi. Nhưng tôi may mắn đã dừng lại
được ở đó. Quả vậy, tôi
không phải là nhà tu hành cũng
không đạo đức thật, hay giả, mà
vì đã lỡ tự đặt cho mình một
nguyên tắc bất di bất dịch qua thời gian
và cuộc đời thăng trầm, là tự cấm
không bao giờ được tơ tưởng đến,
huống chi là đem lòng yêu thương,
các nữ sinh học trò của tôi và ca
sĩ dưới quyền. Lý do thật đơn giản:
họ là những đối tượng tương
đối dễ chinh phục, đã đặt hết
lòng tin và kính trọng vào mình.
Tôi không muốn lợi dụng vị thế của
mình, làm thất vọng mọi người.
Hương Mai, cũng
như Thiên Ân, dường như không hiểu
điều đó.
Một buổi chiều
cuối tuần, để tưởng thưởng
thành quả công tác tâm lý chiến,
dân sự vụ tốt đẹp, sau khi tổ chức
một tiệc vui chung cho cả Đại đội,
Đại úy Tải mời các sĩ quan và
nữ huấn đạo ra quán Gió Khơi Số
Một, lộ thiên, ở bãi biển Nha Trang
ăn bò nhúng dấm chấm mắm nêm,
món ngon nổi tiếng của quán. Hương
Mai đến trễ, vẻ mặt buồn hiu. Tôi mang
theo một chai rượu mạnh, đãi anh em.
Nàng ăn ít, nhưng cứ nốc cognac của
tôi, ly này sang ly khác, khiến tất cả ngạc
nhiên, không ngờ tửu lượng của
nàng cao như vậy, ăn đứt cả
đám nam nhi, nhưng không ai dám cản, sợ
bị hiểu lầm là kỳ thị. Đến khi
chai Courvoisier gần cạn và mặt nàng tái
nhợt, Thiếu úy Cường mới giật lại
ly rượu của nàng, ôn tồn bảo:
- Cô say rồi,
nên ngưng là vừa.
Nàng
không nghe:
- Không
sao đâu, cho em một ly nữa! Em đang vui mà!
Cường
và các cô lựa lời khuyên nhủ. Ai cũng
đoán nàng thất tình hoặc buồn chuyện
gia đình. Còn tôi lại nghĩ khác: một
người đẹp như nàng khó thất
tình lắm, trái lại, làm người ta thất
tình thì có. Chắc một chuyện gì
kinh khủng đã xảy ra cho nàng. Khi chai rượu
cạn sạch, nàng đứng dậy, lảo đảo
đến bàn tôi, nói như ra lệnh, tỉnh
bơ:
- Trung
úy đưa em đi tiểu!
Mọi
người há hốc mồm kinh ngạc. Còn
tôi không thể tưởng tượng
Hương Mai bình nhật rất đoan trang hôm
nay có rượu vào lại "chơi bạo"
đến thế. Sau mấy giây sửng sốt,
các sĩ quan vỗ tay tán thưởng. Đại
úy Tải thì cười cười, nhìn
tôi chờ đợi.
Tôi vẫn
ngồi yên, chưa biết phải làm sao. Thấy
thế, Đan Tâm, cô ca sĩ trẻ nhất,
chuyên hát nhạc kích động, đứng
lên, nắm tay dắt nàng đi ra phía sau
quán. Trở lại bàn, Hương Mai mệt lắm,
tựa đầu vào vai Cường, lim dim mắt.
Đại úy Tải nói tôi đưa
nàng về trước, vì tối hôm ấy
tôi lái xe nhà
- chiếc Peugeot 203 đen cũ kỹ của ba mẹ
tôi cho mượn. Tôi bảo Thiên Ân,
người rất kỵ tôi, theo cùng. Hai
nàng ngồi băng sau. Tôi hỏi Hương Mai về
đâu. Nàng đáp, giọng chán chường:
- Về
đâu cũng được. Em khổ lắm. Em
không muốn sống nữa!
Rồi thiếp
đi trong tay Thiên Ân. Không ai biết địa
chỉ nhà nàng. Thiên Ân đề nghị
về khu gia binh Đại đội, bề nào cũng
còn có sĩ quan trực trại và lính
gác. Cô dìu nàng vào phòng tôi,
hầu như trống trơn, chỉ có một
bàn viết, vài quyển sách, và chiếc
giường - mà tôi chỉ đặt lưng xuống
vào những đêm cấm trại thôi. Khi
tôi ngỏ ý không nên để nàng ngủ
một mình trong tình trạng đó tại một
nơi xa lạ, nhưng đồng thời tôi cũng
không thể ở qua đêm canh nàng, Thiên
Ân nói:
- Em sẽ ở
lại đây với chị ấy, vì em cũng sống
một mình. Không sao đâu. Em sẽ ngủ
trên chiếc ghế bố kia kìa.
Chờ đến khi
các sĩ quan khu độc thân ồn ào
kéo về, ghé thăm, tôi mới bàn giao
hai nàng lại cho ông phó Cường,
đã có vợ hai con, cho chắc ăn. Lúc
này Hương Mai đã ngủ mê, hơi thở
mệt nhọc. Cường chu đáo lắm, lôi
ở đâu ra được một lô mền gối,
khăn mặt, ca cóng, bàn chải và kem
đánh răng còn nguyên trong hộp, và
đặc biệt hai bộ pyjama đàn ông mới
tinh, chắc là vừa trưng dụng được
của một anh chàng sĩ quan độc thân tốt
số nào. Trong lúc giúp Thiên Ân
căng ghế bố, Cường cười nói với
tôi:
- Hôm nay
tôi trực, ngoại trừ Trung úy, đứa
nào muốn đụng đến hai cô phải
bước qua xác chết của tôi. Trung úy
yên tâm về nhà.
Tôi
và Thiên Ân cùng cười theo. Tôi bảo:
- Anh phải
nói như thế này: kể cả Trung úy,
đứa nào đụng đến hai cô sẽ
từ chết tới bị thương ..
Sáng
hôm sau, tỉnh dậy, Hương Mai nhớ chuyện
xảy ra, bèn đi xin lỗi mọi người.
Riêng tôi, cho mãi đến bây giờ vẫn
không rõ đêm ấy nàng buồn chuyện
gì để đến nỗi "em không muốn
sống nữa".
Những
quân nhân và nữ huấn đạo trong Trung
đội Chính huấn hiểu rõ công việc
của mình. Giúp vui cho binh sĩ tại những
quân trường và đơn vị tác chiến
về hậu cứ dưỡng quân, trong đó
thỉnh thoảng có cả lính Căm Bốt
được gửi qua thời Sirik Matak, đồng thời
trau dồi nơi họ kiến thức chính trị,
hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng
yêu nước, thương dân, v.v.. bằng những
buổi "lên lớp" ngắn, gọn, dễ hiểu
do các sĩ quan trung đội đảm trách
và chương trình mini văn nghệ gồm những
bản hùng ca, vở kịch ngắn, màn ảo
thuật, hoặc những trò chơi vui, lành mạnh
được giao cho Trung sĩ trưởng ban văn nghệ
sắp xếp. Đó là binh vận, tương
đối dễ dàng và kết quả mỹ
mãn.
Đại
đội 204 CTCT đôi khi được vài
toán chính huấn từ Sài Gòn ra phối
hợp công tác, trú ngụ trong doanh trại
đại đội. Tôi nhận thấy những
ông trưởng toán này còn "giữ
gà" kỹ hơn chúng tôi, hoặc "giấu
nghề" thái quá, vì nói là phối
hợp, mà chả bao giờ họ chịu cho các
nữ huấn đạo tập dượt hay sinh hoạt
chung, trao đổi kinh nghiệm với trung đội
chúng tôi, làm Đại úy Tải vốn
rất xã giao, bặt thiệp cũng phải lắc
đầu.
Công
tác tại những đơn vị gần thành
phố, như Trường Hạ Sĩ Quan Đồng
Đế, chúng tôi trở về nhà ngay trong
đêm. Ở nơi xa, như Trung Tâm Huấn Luyện
Biệt Động Quân Dục Mỹ, phải ngủ
lại. Những lần đi xa, tôi nhường xe
jeep cho Cường và các sĩ quan, các quân
nhân khác ngồi xe dodge, còn tôi lái
Peugeot, chở theo được bốn cô nữ huấn
đạo. Tất cả trang bị súng ống đầy
đủ, để tự bảo vệ, khi cần.
Đi ngang Ninh Hòa, Hương Mai thường xin
ghé thăm nhà, gần quốc lộ.
Đoàn xe dừng lại, vẫn nổ máy,
trước nhà nàng chỉ độ năm,
mười phút, nhưng nàng trở ra, lộ vẻ
vui mừng, biết ơn, một lần còn giới
thiệu tôi với mẹ nàng.
Một
tối, sau buổi sinh hoạt tại Trung Tâm Huấn
Luyện Dục Mỹ, cả trung đội chúng
tôi và toán Sài Gòn được chỉ
định nghỉ đêm trong một phòng học
rộng ở khu gia binh, trên những chiếc bàn
dài xếp lại với nhau. Riêng tôi,
liên toán trưởng, được cấp một
chiếc giường ở văn phòng trường.
Vì lịch sự với khách, tôi định
xin thêm ghế bố cho hai sĩ quan Trung ương,
nhưng hai ông cám ơn từ chối, bởi
không muốn xa rời các cô ca sĩ của
mình. Tôi ngồi chuyện trò, uống
trà với anh em trong trung đội cho tới nửa
khuya. Lò mò về phòng, vén màn
tính chui vào giường, tôi đụng phải
một thân người mềm mại đang nằm
chờ. Bật đèn pin lên thì hóa ra
Hương Mai, trong bộ đồ ngủ, rất
khêu gợi. Tôi giật mình, suýt kêu
lên. Nàng bật ngồi dậy, lấy tay bịt
miệng tôi, rồi mỉm cười, khẽ
nói:
- Suỵt ..
Em đây, chứ không phải ma. Đừng sợ.
Anh cho em ngủ ở đây với anh đêm nay.
Tôi đứng
chết trân, á khẩu, nhìn nàng không
chớp, căng mắt định thần xem có
cái đuôi chồn liêu trai lấp ló sau
lưng nàng không, hoặc nàng có say
như tối nào? Tình thế thật khó xử
và nguy hiểm. Một đàng nỗi khát
khao bị ức chế bấy lâu thôi thúc, một
đàng danh dự và trách nhiệm của một
sĩ quan chỉ huy đè nặng lên vai, không
đùa được. Lại còn cái
nguyên tắc bất di bất dịch của tôi! Lại
còn vết thương lòng buốt nhức
và mảnh trăng thề bỏ lại ở Qui
Nhơn! Sau mấy phút vật vã với chính
mình, cuối cùng lý trí thắng.
Nhưng từ chối thế nào để nàng
không tự ái, bực bội, tri hô cho mọi
người nghe? Đoán được sự dằn
vặt trong tôi, nàng đứng lên, nắm lấy
tay nhẹ nhàng kéo tôi xuống ngồi
bên nàng. Và ôm tôi, thủ thỉ:
- Hãy
hôn em đi, một lần thôi, cho em biết rằng
anh cũng đáp lại tình yêu của em ..
Tôi
nói, thầm thì như năn nỉ:
- Tôi
không thể làm gì được bây giờ,
cô .. em hiểu cho. Tôi hứa sẽ yêu em, sẽ
hôn em, hoặc nếu em muốn, sẽ van xin tình
yêu em ở một ngày khác, một hoàn cảnh
khác, hay một kiếp khác, biết đâu,
khi em không còn là ca sĩ trong trung đội của
tôi nữa. Bây giờ thì tôi không thể,
em hiểu cho ..
Một giọt
nước mắt rơi nhanh xuống cánh tay tôi.
Nàng thút thít:
- Anh
càng trốn chạy tình yêu em chừng
nào, em càng đuổi bắt anh chừng nấy,
dù từ bên kia cõi đời. Em hiểu nỗi
khổ và cái nguyên tắc kỳ quặc,
điên rồ của anh. Nhưng anh đâu có
hiểu nỗi khổ của em. Anh tàn nhẫn lắm,
anh biết không? Thôi em đi, để Trung
úy nghỉ.
- Không,
em cứ ở đây. Tôi xuống lớp học.
Tôi đặt
nàng nằm lại ngay ngắn trong giường, đắp
chăn cho nàng. Rồi bước ra giữa trời
khuya, làn gió mơn man trên má, trên
tóc, thấy người nhẹ thở. Bỗng
nhiên tôi lại nghĩ đến chuyện anh mục
đồng trong truyện Les étoiles của Alphonse Daudet
đã để cô chủ nhỏ xinh đẹp
ngồi dựa vào vai anh ngủ vùi suốt
đêm thâu trên núi, dưới bầu trời
đầy sao, mà không dám động tĩnh
gì hết. Tôi bước vào gian phòng của
trung đội. Hạ sĩ Mừng còn thức. Anh ta
hỏi, "Trung úy chưa nghỉ sao?". Tôi lắc
đầu, và hỏi lại, rất khẽ, "Còn
anh, chưa ngủ à? Các nữ huấn đạo
đâu?". Mừng chỉ tay về một góc
phòng. Các cô chắc đã say giấc ngủ,
màn buông kín mít. Cách đó
không xa là ông phó Cường và hai
ông bầu Sài Gòn. Cuối cùng, tôi
nói với Mừng:
- Tôi
đến ngủ với anh em cho vui.
Cả trung
đội không ai hay Hương Mai đêm ấy
đã nằm trong giường của tôi và
chuyện gì đã xảy ra giữa hai người.
Sáu
tháng sau, Hương Mai đột ngột xin nghỉ
việc, lấy lý do muốn làm ca sĩ toàn
thời gian cho nhà hàng Nha Trang Hôtel. Lúc từ
giã, nàng nói với tôi, có sự hiện
diện của Cường và một số quân
nhân:
- Bây giờ
em không còn là ca sĩ của Trung đội nữa.
Em sẽ nhớ nó lắm!
Chỉ một
mình tôi hiểu câu nói ấy. Từ
đó, nàng không bao giờ trở lại
Đại đội dù để thăm bạn
bè, và cũng chỉ một mình tôi hiểu
vì sao. Rồi cuối năm 1972, tôi phải đổi
về trường Đại Học CTCT Đà Lạt.
Đêm cuối cùng trước khi rời bỏ
Nha Trang, tôi đến vũ trường, tìm
nàng. Trên sân khấu, Hương Mai đang
hát bản Besame Mucho, lời Việt, giọng buồn
não nuột, và dưới sàn nhảy, những
cặp tình nhân đê mê dìu nhau
vào cõi mộng. Xong bài hát, nàng tiến
nhanh đến bàn tôi, cười tươi,
nét mặt rạng rỡ, nhưng đôi mắt
long lanh như có ngấn lệ, hỏi dồn:
- Anh ..
Trên sân khấu, em thấy anh vào. Em chờ anh
từ một thế kỷ rồi. Sao đêm nay anh mới
đến? Anh đã quên em rồi sao?
Khi biết
tôi đến từ biệt nàng đi xa,
nàng nói sẽ xin nghỉ hát sớm để
"sống với anh cho hết đêm nay".
Lên xe, tôi đề nghị ra biển. Chúng
tôi ngồi trên bãi cát còn ấm nắng
chiều, có bóng thùy dương, hắt xuống
từ những ngọn đèn đường, chở
che, đồng lõa. Sóng vỗ, tràn vào bờ,
xóa hết dấu chân của những tình
nhân chia cách, như lời thơ Prévert
ngày nào. Et la mer
efface sur le sable les pas des amants désunis. Trăng mơ chiếu những
tia lẻ loi, vàng vọt trên biển vắng.
Chân trời tối mờ, xa tắp. Nàng nhắc
lại chuyện cũ, chuyện chai Courvoisier, chuyện
"Trung úy đưa em đi tiểu", và tự
trách "sao bữa đó em .. cà chớn dữ
vậy?" Rồi cả
hai cười vui. Rồi tựa đầu vào ngực
tôi, như trong đêm Dục Mỹ, nàng khẽ
nói, lời nhẹ tơ vương:
- Hãy
hôn em đi, một lần thôi, cho em biết rằng
anh cũng yêu em. Hãy ôm em nhiều, thật nhiều.
Besame mucho, mucho, mucho. Em đâu còn là ca sĩ
trong trung đội của anh nữa mà anh phải sợ?
Rồi
ngước nhìn ánh trăng mờ, nàng hỏi:
- Có bao
giờ anh mơ một ngày anh sẽ đưa em về
nhà .. Nhà của chúng ta, ở một
phương trời khác, khuất xa loài người
độc ác và thế gian vô tình
này, một nơi chỉ còn mình anh với
em và đàn con nhỏ, xinh đẹp của
chúng ta? Có bao giờ anh sẽ nói yêu em
mãi mãi, cho đến sau bên kia đời? Em
sợ lắm, sợ anh sẽ quên em.
Tôi thở
dài, nhẹ nhàng bảo:
- Anh cũng
mơ như em, và anh sẽ không quên em bao giờ.
Nhưng hãy cứ sống với hiện tại
trước đã, như đêm nay có em
và anh bên nhau. Là đủ. Làm sao có
thể biết được ngày mai? Tình
yêu nào cũng mong manh như sương như
khói, cần phải nâng niu, vì bước
đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu,
như trong thơ Xuân Diệu đó em ..
Và rồi
từ đêm đó, tôi không còn gặp
lại nàng. Vì bận bịu công việc
và vài hình bóng khác lướt nhẹ
vào đời, chiếm chỗ của nàng,
tôi không về Nha Trang bao giờ nữa. Thỉnh
thoảng nhớ Hương Mai và những kỷ niệm
có nàng, tôi thở dài, lòng thấy
bùi ngùi và buồn vô tả.
3. Cho đến sau 30/4/75
và tám năm đọa đày. Từ những
trại tù cải tạo, tôi trở lại
quê cũ với mảnh đời vỡ vụn
và tâm hồn trống vắng. Đến Nha Trang
Hôtel tìm Hương Mai và dĩ vãng
nào xanh như mắt em (Đinh Hùng) mới biết
vũ trường đã đổi thành
phòng trà, cà phê, có tên mới, chủ
mới. Người ta không biết "ca sĩ
Hương Mai trước 75, tóc có đường
ngôi rẽ ở giữa" là ai. Một hôm
tình cờ được gặp lại Thiên
Ân bán vải tại chợ Đầm. Trông
cô vẫn còn trẻ đẹp, thách đố
thời gian tàn nhẫn và cuộc đổi
đời bi đát, nhưng trong đôi mắt
cô - cũng như các giai nhân Nha Thành một
thời vang bóng còn kẹt lại - tôi đọc
được, ôi mênh mông là nỗi u
hoài khôn nguôi của những nàng tiên
bị đọa đày. Thiên Ân ôm chầm
lấy tôi, khóc ròng, rồi kể lể:
- Từ
ngày anh đi, bao nhiêu chuyện đã xảy
ra. Em nghỉ làm ở Đại đội, hát
cho Nha Trang Hôtel được một năm thì mất
nước. Sau 75, Phương Hoa lấy một dược
sĩ quân y "ngụy" vừa ra trường,
nghe nói đang ở Mỹ. Đan Tâm vào
Sài Gòn sinh sống. Mấy cô nữ huấn
đạo khác thì mỗi người một ngả.
Đại đội tan tác hết. Đại
úy Tải, Thiếu úy Cường chắc cũng
đi cải tạo, em không biết ở đâu.
Đôi khi có việc đạp xe ngang qua Bình
Tân thấy không còn dấu vết gì của
Đại đội cũ, nhất là căn
phòng ngủ trống trơn của ông "Trung
úy rất độc tài và hắc ám của
lòng em", em buồn muốn rớt nước mắt.
Em lập gia đình với một thiếu úy Lực
Lượng Đặc Biệt, có một đứa
con trai năm nay được mười tuổi. Chồng
em tử trận trên đèo Khánh Dương
hai tháng trước khi Nha Trang mất.
Thiên
Ân kể chuyện huyên thiên, mà không một
lời nhắc đến Hương Mai. Tôi sốt ruột
lắm, nhưng tự chế, không hỏi. Cuối
cùng, cô cũng nói:
-
Hương Mai chết rồi. Trong tay em ..
Tôi hoảng
hốt, ngắt lời:
- Ôi, thật
vậy sao?
- Chuyện
dài lắm. Mời anh tối nay đến nhà em
chơi, ăn cơm, em sẽ kể anh nghe ..
Mấy
tháng sau ngày anh lên Đà Lạt,
Hương Mai cặp bồ với một thương gia
giàu sụ, khách hàng thường trực của
Nha Trang Hôtel, có vợ con, vừa mập vừa
lùn vừa hói, lớn hơn nàng gần hai
mươi tuổi. Bà vợ chằn lắm,
đã mấy lần đến bắt ghen tại vũ
trường. Nhờ em và nhân viên an ninh can thiệp,
Mai không việc gì, nhưng mang tai tiếng phải
bỏ hát và bỏ luôn lão ta. Sau 75,
nàng giấu kỹ lý lịch, đổi tên,
đổi họ, được đi hát lại,
và xin học lớp kịch nghệ, và trở
thành một diễn viên sân khấu có hạng,
rất được ái mộ. Thời gian này
nàng chung sống với một nhà văn soạn
kịch trẻ, đang lên, tên Lân, nghe nói
là một Thiếu úy trường Đại Học
CTCT của anh vừa mãn khóa, chưa kịp đeo
lon, nên trốn cải tạo, từ nơi khác
đến Nha Trang mua được hộ khẩu ở
Xóm Mới, khai là cựu sinh viên đại học
Đà Lạt, ban báo chí, và như thế
tưởng qua mặt được bọn Công an
địa phương. Lân và Hương Mai
không hề biết là họ bị theo dõi
và canh chừng gắt gao. Nàng cũng không hay
rằng Lân lén viết gửi ra ngoại quốc
bài vở có nội dung chống Cộng, cho đến
một hôm ở phố về tình cờ nàng
bắt gặp anh ta đang loay hoay giấu một lô giấy
tờ trên trần nhà. Lân biết bị lộ,
nhưng rất tin tưởng nàng, nên ỷ y.
Lúc này nàng ghiền ma túy nặng,
và vì say mê danh vọng và mong được
đãi ngộ thêm, đã một lần phải
trao thân cho tên Trưởng Ty Văn Hóa tỉnh
cứ đeo đuổi, sách nhiễu nàng. Thấy
tình thế đã chín muồi, Công an bắt
đầu ra tay.
Đầu
tiên, chúng gài bắt nàng về tội
mua và xử dụng ma túy. Dùng lời ngon ngọt,
chúng dụ dỗ nàng khai ra chỗ Lân giấu
tài liệu, để đổi lại những
ưu đãi dành cho các ca sĩ, diễn
viên thượng thặng. Rồi đe dọa, nếu
ngoan cố, nàng sẽ bị đuổi khỏi
đoàn kịch và bị tù về tội
tàng trữ ma túy. Cuối cùng, nàng chấp
thuận làm cộng tác viên, khai hết,
và lập tức được thả ra. Trưa
đó, trở về, nàng thấy công an đứng
chật nhà hai người, và một ô
vuông gỗ trên trần bị tháo xuống,
và Lân đang bị còng tay, mặt mũi
sưng vù, ngước lên nhìn nàng, vẻ
khinh bạc, không nói một lời. Nàng hiểu,
và chạy bay ra khỏi nhà, lao vào chiếc
xe vận tải đang phóng ngược chiều ..
Trong cơn hấp
hối, lúc tỉnh lúc mê, tại bệnh viện,
Hương Mai nhờ em xin Lân tha thứ, nếu sau
này còn gặp anh ta. Nàng thầm gọi
tên anh, khóc nức nở, lo sợ một
ngày anh biết được những chuyện tồi
tệ nàng đã làm và sẽ hết
yêu nàng. Vì, nàng nói, anh vẫn
là tình yêu duy nhất của nàng. Trước
đó lâu lắm, khi tụi em trở thành bạn
thân, Hương Mai có kể em nghe chuyện
đã xảy ra trong đêm công tác ở
Dục Mỹ giữa anh và nàng. Nếu anh ở
lại với nàng tối hôm ấy, thì mặc
dù nàng tự dâng hiến, em tin rằng
Hương Mai đã quên anh ngay, như một
trong nhiều người đàn ông khác
đi qua đời nàng sau này, mà nàng rất
ghê tởm. Cũng như em, phải sau một thời
gian dài xa anh, sau bao giông tố và cạm bẫy
trong cuộc đời, mới hiểu con người
trung hậu của anh, qua vẻ ngoài mà anh cố
tình làm ra nghiêm khắc và hiểu rằng
tận đáy hồn em, nói ghét anh không
có nghĩa là ghét anh. Phụ nữ tụi em
bị quyến rũ ở người đàn ông
bởi nhiều cái khác hơn, cao quý hơn
thể xác, tiền tài, địa vị.
Đó là sức mạnh tinh thần, tâm hồn
cao thượng, đối xử tế nhị, phong
thái trượng phu, không xu nịnh hèn mạt,
lưng thẳng như thân cây trúc, đồng
thời đó còn là sự khổ đau, dằn
vặt, và nhất là dũng cảm, trước
những chọn lựa khó khăn. Đối với
Hương Mai và em, tình yêu như
đóa hoa, hái xuống sẽ úa tàn
đi, nhưng nếu được giữ lại
trên cành, nó sẽ vĩnh viễn sống
trong tim, dù qua bao nhiêu gió mưa tơi tả.
Anh đã giữ đóa hoa tình yêu của
nàng còn mãi trinh nguyên. Nàng nói hẹn
gặp lại anh để cùng anh sống nốt những
ngày hạnh phúc dở dang trong căn nhà
nàng nói đã một lần mơ ước,
ở cõi khác, chắc chắn tốt đẹp
hơn cuộc đời này. Hôm sau, nàng chết
trong tay em, vẻ mặt rất thanh thản, không
còn thấy đớn đau nữa. Bấy giờ
là giữa mùa thu 1982, chắc anh còn đang bị
lưu đày cải tạo ở nơi nào
trên miền Bắc ..
Thiên
Ân ngừng kể, đưa mắt buồn rầu
nhìn qua song cửa. Mưa rơi tự khi nào,
giăng kín khung trời mờ tím. Đêm xuống
càng thêm lạnh trong hồn người quả phụ
- một cựu ca sĩ chính huấn tài sắc vẹn
toàn một thời. Tôi đứng lên từ
biệt, hôn lên má Thiên Ân, ôm đứa
nhỏ vào lòng, và ngậm ngùi nói:
- Cám
ơn em thật nhiều đã kể cho anh nghe
câu chuyện thương tâm này. Giống
như Anna Karenine, nhân vật của văn hào Nga
Tolstoï, chắc em còn nhớ, Hương Mai
đã chọn lấy cái chết để chuộc
những lỗi lầm. Chắc nàng đã
tìm được sự cứu rỗi, tha thứ
và bình an ở bên kia thế giới, nơi
không còn bất hạnh, hận thù, gian dối.
Hôm nào, em hãy dẫn anh đến thăm mộ
nàng, và xin lỗi nàng. Anh mới là
người cần được nàng tha thứ.
KIM THANH
Portland, 1/2014
tặng cựu đồng đội 204 CTCT Trần Ngọc Dưỡng
tức nhà báo Vương Trùng Dương (Nam Cali)
(MaiVuong sưu tầm, CongHuynh và
Liêng Hương chuyển)