Cũng Một
Đời Người
(Mimosa PHƯƠNG VINH)
"Một
ngày tôi đi qua trại lính ngang nhà, thấy một lá cờ
với một ṿng hoa. Hỏi ra mới biết anh là lính trẻ
xa nhà chết trận đêm qua. Xung quanh đây có ai đâu
đưa tiễn anh về, đưa tiễn anh về với
ḷng đất sâu. Hỏi ra anh có mẹ già ở tận
phương xa. Tôi thấy tôi buồn, tôi thấy tôi buồn."
Ôi! Một
bài hát với lời lẽ dung dị, mộc mạc qua giọng
ca Thanh Lan đă tạo cho tôi cảm giác ngậm ngùi, xót xa
suốt chuỗi ngày xa xưa mấy chục năm trước
khi quê hương miền Nam đang sôi sục, điêu tàn
v́ khói lửa chiến tranh.Tôi không thuộc hết lời
ca, không biết tác giả là ai, nhưng đó là bản nhạc
tôi ưa thích v́ nó rất gần gũi, chân t́nh. Bởi v́
tôi thấy chính ḿnh trong đó như tôi đă đi qua một
đồn lính nào đó, tôi thấy một lá cờ một
ṿng hoa, có một người lính trẻ xa nhà đă nằm
xuống!
Rồi
thời gian trôi qua với bao vật đổi sao dời,
bài hát cũng theo thời gian phôi pha, mờ nhạt trong kư ức,
tôi đă quên nó như đă quên đi quá nhiều điều
trong cuộc đời quá ư bận rộn. Vậy mà có
một buổi chiều bài hát xưa bỗng trở về
với một niềm xót xa quen thuộc, tôi thấy ḿnh
đang sống lại trong khoảnh khắc xa xôi với
biết bao kỷ niệm thời trẻ dại cùng những
hệ lụy, mất mát của chiến tranh, hận thù và
nước mắt.
Đó
là một buổi chiều mùa đông tuyết phủ trên
đất khách quê người, tôi không đi qua một trại
lính nào đó trên quê hương mà đến một nhà quàn
trên đất Mỹ để viếng thăm một
"đồng bào" đă qua đời. Tôi cũng thấy
một ṿng hoa trơ trọi, tôi cũng thấy một lá cờ
quen thuộc và chiếc quan tài đơn sơ. Hỏi ra mới
biết anh là người lính già chết v́ bệnh ung
thư, hỏi ra anh có người chị già c̣n ở lại
quê hương. Nơi đây cũng chẳng có ai là người
thân thiết, anh không có gia đ́nh vợ con chi cả, anh ra
đi trong cô đơn xung quanh chỉ có mấy người
quen, vài ba người lính năm xưa đă hom hem, bạc
đầu sương gió.
Bài
hát ngày nào bỗng vang lên đâu đó, vẫn bằng cái giọng
hát như ngậm đầy nước mắt của
người ca sĩ năm xưa. Tôi thấy tôi buồn,
tôi thấy tôi buồn đến chảy nước mắt.
Sống mấy chục năm trên đất Mỹ, đi
dự nhiều đám tang nhưng h́nh như chưa đám
tang nào gây cho tôi nhiều xúc động như buổi chiều
đi thăm viếng anh. Sự cô đơn, quạnh quẽ
như loài rong rêu ma quái bám chặt từng khoảng không
gian lạnh lẽo trong nhà quàn, anh nằm đó cũng c̣n
phảng phất đâu đây cái dáng hiên ngang cao lớn của
một người lính. Ngày anh c̣n sống tôi chưa có hân hạnh
được tṛ chuyện cùng anh, mấy chục năm sống
cùng thành phố không đông người Việt này h́nh
như tôi chỉ gặp anh một vài lần. Tôi không để
ư đến anh như anh cũng chẳng bao giờ để
ư đến ai.
Người
ta nói anh đă tự vẽ cho cuộc sống ḿnh một
các ṿng tṛn ngăn cách mọi người và anh sống một
ḿnh trong đó. Anh không làm phiền ḷng ai và cũng chẳng
muốn ai làm phiền đến ḿnh. Dĩ nhiên anh có quyền
như thế, như mọi người đều có quyền
với đời sống của chính họ mà không ai có thể
phê b́nh hay chê khen này nọ. Nhưng sao buổi chiều
đến viếng thăm anh lần cuối trong nỗi
buồn vời vợi không thể dấu được
trong mỗi người bởi cuộc biệt ly không ai
tránh khỏi, ḷng tôi bỗng nặng trĩu u hoài.
Tôi chắp
vá những mẩu chuyện đời anh với lời
qua, tiếng lại của thiên hạ, trong âm điệu
muộn phiền của bài ca năm xưa. Nơi đây có
ai đâu đưa tiễn anh về, đưa tiễn anh
về với ḷng đất sâu!
Tên
anh là Khoa, anh mang họ Nguyễn như một số rất
đông người Việt Nam. Anh sinh trưởng ở
Saig̣n, đến trường và sau đó vào lính như những
thanh niên thời chiến, anh có vài ba mối t́nh nhỏ và một
mối t́nh lớn. Người yêu anh không phải là một
nàng hoa hậu nhan sắc tuyệt trần nhưng cũng rất
xinh, anh chưa tính chuyện cưới vợ v́ nghĩ rằng
ḿnh lính tráng rày đây mai đó, chết sống lúc nào chẳng
hay và nhất là không muốn người yêu ḿnh thành góa phụ.
Sau
năm 75, anh đi tù ở cái tuổi hăm lăm, mẹ
anh đă qua đời nên đi thăm nuôi chỉ nhờ cậy
vào bà chị nghèo chồng chết với bầy con năm
đứa. Đời sống khốn khổ quá, đói
rách quá nên người yêu anh phải bỏ đi vượt
biên cùng một người đàn ông khác. Nghe tin anh chua xót,
đau đớn nhiều nhưng không trách móc người
yêu, mọi người đều phải t́m cho ḿnh một
lối thoát.
Ở
trong tù thỉnh thoảng nhận những gói quà thăm nuôi
nghèo nàn, nhỏ bé của chị anh ứa nước mắt
thương cảm. Anh biết chị rất nghèo, anh biết
ḿnh đă ăn tranh với đàn cháu đói nhưng không
c̣n sự lựa chọn nào cả, anh nuốt thức
ăn trộn chung nước mắt. Anh phải sống với
một chút hy vọng vu vơ nào đó, người ta
đă dùng miếng ăn để giết dần dần,
để kềm chế và để sỉ nhục đồng
bào của ḿnh. Ḷng dạ lang sói đó đáng cho trời tru
đất diệt. Anh phải sống và tự hứa sẽ
không bao giờ quên đi ân t́nh của chị và các cháu.
Rồi
anh ra tù sống lây lất bữa đói, bữa no cho đến
một ngày lên máy bay qua Mỹ. Đi Mỹ lúc đó là một
phép lạ đối với những người tù vừa
được phóng thích từ một nhà tù nhỏ ra nhà tù
có tầm cỡ lớn hơn, nhất là đối với
anh một người tù khốn khổ, cơ cực
hơn mọi người khác trên cuộc đời này. Hy
vọng bắt đầu nảy nở trong mái nhà dột
nát của bà chị nghèo góa chồng và đàn cháu nhếch
nhác, ốm o không lúc nào có một bộ quần áo lành lặn.
Mặc dầu bảy tám năm trời được học
tập lao động trong một trường cải tạo
khe khắt, độc ác nhất của thế kỷ hai
mươi sức lao động anh cũng không đem lại
cho gia đ́nh bà chị một cuộc sống sung túc
hơn. Vẫn đói rách triền miên, khốn khổ triền
miên.
Đến
nước Mỹ, ở nhà chưa được một
tuần anh theo người Việt Nam vào làm trong một
hăng sản xuất thực phẩm đóng hộp. Việc
của anh là chuyển những thùng hàng ra xe, xếp đặt
nhà kho và ghi chép một số giấy tờ, chung quanh anh phần
đông là những người Mỹ da đen to lớn,
nghèo nàn. Cái nghèo bên Mỹ khác xa cái nghèo ở Việt Nam,
nghèo có nghĩa là không có nhà đẹp, xe đẹp chứ
nghèo không có nghĩa là đói ăn, đói mặc. Người
Mỹ nghèo vẫn mập ú v́ thức ăn dư thừa,
áo quần vẫn bảnh bao mỗi ngày mỗi bộ, giàu
th́ xài đồ hiệu, đồ mới, ăn cơm tiệm,
nghèo th́ vào tiệm đồ cũ hay đến cơ quan
từ thiện mà xin ăn, xin mặc. Người Mỹ
xem thức ăn, cái mặc là những ân huệ thượng
đế ban cho con người nên con người có bổn
phận phải chia xẻ với đồng loại. Chỉ
nội cái quan niệm đó xă hội Mỹ đă ăn
đứt cái thiên đàng Xă Hội Chủ Nghĩa luôn dùng
vật chất, miếng ăn để điều khiển,
đày đọa con người.
Một
ngày ra khu chợ gần nhà anh gặp một người
đàn bà đứng rung chuông xin tiền người qua lại,
bà ta mập mạp ăn mặc sạch sẽ, khuôn mặt
trang điểm hẳn hoi với mười ngón tay sơn
đỏ chói. Người đi chợ bỏ tiền vào
cái hộp cho bà, anh tự nhủ: đi ăn xin diện
như vậy sao vẫn có người cho. Sau này anh rút ra
được một kinh nghiệm khá thú vị là đi
xin mà có bộ vó dễ coi sẽ được tiền nhiều
hơn mấy anh chàng nghiện ngập say sưa, đầu
bù tóc rối, ăn mặc nhếch nhác.
Công
việc lao động đầu tiên của anh trên nước
Mỹ được lănh 320 dollars một tuần, trừ
thuế má, ăn uống xong mỗi tháng anh c̣n dư hơn
500 dollars, anh vội gởi về cứu đói gia đ́nh
bà chị 300 dollars, một số tiền mà dù nằm mơ
chị anh cũng không dám nghĩ đến. Mấy tháng sau
anh thi lấy bằng lái, mua xe và t́m cho ḿnh một căn
pḥng trong khu cư xá nghèo với giá 300 dollars một tháng. Nhà
gồm pḥng ngủ, pḥng khách và bếp, những người
Mỹ đen hàng xóm vẫn làm anh thấy bằng ḷng
hơn là ở chung với những người bạn Việt
Nam cùng sở v́ bản tính anh không thích ồn ào, không thích
làm phiền ai và ngược lại.
V́ làm
việc chăm chỉ, biết đôi chút tiếng Anh nên
Khoa được lên lương rất sớm, việc
này làm phiền ḷng không ít những người Việt chung
sở v́ họ làm trước anh khá lâu và cũng chăm chỉ
như anh. Họ nghĩ anh nịnh chủ, hay dèm pha này kia
để lấy ḷng cấp trên mà sự thật không phải
như thế. Họ không bao giờ hiểu rằng dù Khoa
cũng như họ, cũng tóc đen, da vàng, cũng gầy
g̣ mang tấm thân tha phương cầu thực, cũng
mang sức lao động để kiếm miếng ăn
nhưng anh khác họ đôi chút v́ anh có kiến thức
hơn, lại chịu khó học hỏi nên dễ gây thiện
cảm với cấp trên. Thật khó giải thích điều
đó với những đồng bào của ḿnh, họ c̣n
cho Khoa là kẻ phản phúc, ngày nào mới qua Mỹ mặt
mày lơ láo nhờ họ giới thiệu vô sở làm, giờ
biết lái xe, lên lương được tụi Mỹ
tin dùng coi đồng hương chẳng ra chi .. vân vân và
vân vân ..
Họ
nào biết rằng những ngày cuối tuần trong khi họ
lo ăn nhậu, đi Casino, hay ngồi luyện phim diễm
t́nh nhiều tập Trung Hoa, Đại Hàn th́ Khoa lại miệt
mài đọc sách truyện bằng Anh Ngữ với quyển
tự điển dày cộm bên cạnh. Khoa không có ước
vọng trở lại trường Đại Học tiếp
tục việc học dở dang mấy chục năm
trước mà anh chỉ học để biết, để
dễ dàng tiếp xúc với người Mỹ xung quanh,
anh cần kiếm nhiều tiền để giúp đỡ
chị và đàn cháu bên Việt Nam. Anh mua cái tivi nhỏ
để xem tin tức, phim ảnh và cũng để trau
dồi thêm vốn liếng tiếng Anh nghèo nàn của ḿnh.
Khổ nỗi, nội cái việc không tiếp xúc nhiều
với người Việt xung quanh càng làm cho họ ghét
Khoa nhiều hơn. Bản tính Khoa lại ít nói, cứng
đầu cứng cổ không thích phân bua với ai, anh quan
niệm họ nói sao th́ nói, việc ḿnh làm cứ làm. Anh c̣n
có nhiều điều để lo th́ hơi sức đâu
lấy ḷng những người Việt lắm điều,
ưa đố kỵ.
Khoa
làm người Mỹ trả tiền cho anh chứ đâu
phải người Việt trả, gặp nhau họ chào
th́ anh chào lại, mà nếu cứ ganh tị, mỉa mai này
nọ th́ anh coi như không có họ. Tan sở anh leo lên xe chạy
như bay chứ không có th́ giờ cà kê, dê ngỗng như phần
đông người ḿnh tụm ba, tụm bảy trong băi
đậu xe cho mất th́ giờ vàng ngọc. Thật ra
tṛ chuyện tán gẩu đôi ba phút khi tan sở cũng là một
cái thú của mọi người chứ không phải chỉ
người Việt mới có, thứ nhất để giải
tỏa những phiền muộn trong cả ngày làm việc,
sau đó là những hứa hẹn, toan tính cho ngày mai. Khoa
không có thói quen này v́ anh c̣n nhiều việc đang cần giải
quyết, anh phải đi gởi tiền cho thằng cháu
đầu đang thi vào Đại Học, những đứa
sau cũng cần áo quần để đi học. Dạo
này các trường bắt học sinh phải mặc đồng
phục, chỉ nghĩ đến đám cháu súng sính trong những
bộ áo quần mới đến trường, ḷng Khoa chợt
thấy ấm lại, sự mệt mỏi của hơn
tám giờ lao động chợt tan biến đâu mất.
Và thay v́ về thẳng nhà anh chạy lên hướng Midtown
nơi chị Bảy Hậu cư ngụ, chị là người
chuyên chuyển tiền về Việt Nam mà Khoa là khách hàng rất
quen thuộc. Đôi khi giữa chị Bảy và Khoa cũng
có những mẩu đối thoại ngắn:
- Này
chú Khoa ơi! Đời sống ở Mỹ của chú nay
cũng khá ổn định mà sao vẫn cu ky một ḿnh vậy,
sao không kiếm một cô để đỡ đần
nhau?
Khoa
cười hề hề:
- Thôi
chị Bảy ơi, tôi già rồi ai mà thèm.
- Già
ǵ, đàn ông năm mươi th́ c̣n trẻ chán, nếu chú
muốn tôi sẽ làm mai cho một cô.
- Cô
nào?
- Cô
này góa chồng đă lâu, hai con đă lớn và đi làm rồi.
Cổ có quốc tịch Mỹ, biết lái xe, có nhà riêng,
đẹp th́ không đẹp lắm nhưng cũng dễ
coi lo làm ăn, có job hẳn hoi chú ạ!
Thấy
Khoa im lặng chị Bảy nói tiếp:
- Chú
cũng đừng ngại ǵ mấy đứa con cô ta, tụi
nhỏ bây giờ cũng thông cảm cho cha mẹ lắm,
chúng không c̣n khư khư muốn cha mẹ phải hy sinh suốt
cuộc đời cho ḿnh đâu. Quan niệm đó xưa rồi,
xưa như trái đất.
Khoa
pha tṛ:
- Trái
đất xưa nhưng trái đất vẫn quay như
thời khai thiên lập địa đó chị Bảy.
Chị
Bảy xịu mặt:
- Tôi
nói thật đó chứ không đùa đâu, mặc dầu
bây giờ chú c̣n khỏe mạnh, đi làm ra tiền
nhưng biết đâu ngày mai, dù ǵ khi đau ốm cũng
cần người giúp đỡ sớm hôm. Có vợ có chồng
vẫn hơn chú ạ, mà tôi nói thật không dễ ǵ kiếm
được một người đàn bà như cô Diễm
Châu đâu, cô về Việt Nam hiếm ǵ kẻ giàu có,
đẹp trai sẵn sàng xin cưới để qua Mỹ.
Khoa
chợt hỏi:
- Cô
Diễm Châu là ai mới được chứ?
Chị
Bảy nguưt dài:
- Bộ
hồi năy giờ chú không nghe tôi nói à, chú như từ cung
trăng rơi xuống. Cô Diễm Châu là cô góa chồng hai
con mà tôi định làm mai cho chú đó, tuy người ta
nhan sắc không phải chim sa cá lặn nhưng cũng chẳng
phải xấu đâu, xin tuyên bố với chú như vậy
đó.
Khoa
cười:
- Tôi
có chê đẹp xấu ǵ đâu chị Bảy nhưng thật
t́nh tôi chưa nghĩ đến, có lẽ ngày nào đó tôi sẽ
nhờ chị mai mối đó.
Rồi
Khoa bỏ đi, sau lưng anh chị Bảy càm ràm một
ḿnh:
-
Đợi đến ngày đi gặp anh Sáu tấm chắc,
chẳng giống ai cả!
Chị
Bảy ấm ức trong ḷng v́ tấm chân t́nh của chị
không được Khoa đáp ứng, dù ǵ chị cũng
là người đàn bà tốt bụng. Thấy Khoa lo làm
ăn, chẳng bài bạc rượu chè, đàn đúm bè bạn
chị cũng có bụng thương nên muốn làm mai cô Diễm
Châu cho anh. Mặc dầu chuyển tiền về Việt Nam
đă đem cho chị một số lợi nhuận
nhưng thấy Khoa gởi tiền về nhà nhiều quá chị
cũng thấy áy náy, chị đem chuyện này nói với
chồng:
- Chú ấy
cứ gởi tiền về nhà nhiều như vậy mà chẳng
lo ǵ cho bản thân ḿnh, tôi thấy sao sao ấy!
Anh Bảy
nhún vai:
- Bà cứ
lo ḅ trắng răng, đời ai nấy lo bà ạ! Việc
bà chuyển tiền th́ cứ lo chuyển tiền, chú Khoa
hơn năm mươi rồi chứ có phải đôi tám
đâu. Lại c̣n mai với mối, chú ta không chịu lấy
vợ đâu!
- Sao
ông biết?
-
Đâu phải một ḿnh bà muốn ăn đầu heo,
nhiều người giới thiệu cô này, bà nọ chú ta
đều gạt phăng hết, thật là chẳng giống
ai cả. Lầm lầm ĺ ĺ sống như con ốc sống
trong cái vỏ.
Rồi
anh Bảy kể chuyện có ông nào đ̣i giới thiệu
con gái của ông Đại Úy Tâm cho Khoa, cô Thu Thảo đă
hơn bốn lăm tuổi mà chưa có đời chồng
nào. Cô khá đẹp nhưng sở dĩ không lấy chồng
v́ phải giúp mẹ nuôi các em khi cha đi tù Cộng Sản,
khi cha về đi diện H.O. cô lớn tuổi nên bị gạt
khỏi danh sách. Cô phải chờ cha bảo lănh lại nên
quyết định không lấy chồng, khi Thu Thảo qua
Mỹ tuổi đă lớn. Như thế thật xứng
đôi vừa lứa với Khoa bởi hai kiếp đời
dang dở như nhau, ai cũng thấy là được mà
Khoa lại thấy không được. Có người nói
Khoa c̣n thương người yêu cũ mà qua lời Khoa
th́ rất xinh đẹp và họ kết luận:
-
Người đẹp mà không ở cùng ḿnh th́ cũng chẳng
nghĩa lư ǵ, hơi sức đâu mà nhớ người
đă ra đi. Với lại đă già rồi xấu đẹp
cũng như nhau thôi, da ai chẳng nhăn tóc ai chẳng bạc,
mà chưa chắc ǵ bây giờ người yêu xưa của
Khoa so sánh bằng cô Thu Thảo.
Mới
đầu ông bà Đại Úy Tâm cũng hơi cay cú một
chút v́ Khoa dám chê con gái ḿnh nhưng vài năm sau th́ họ mừng
húm khi cô Thu Thảo kết hôn với ông Mỹ góa vợ 60
tuổi, cô được thừa hưởng một cái
nhà đă trả hết nợ lại được chồng
cưng như trứng mỏng.
Kết
luận Khoa không muốn lấy vợ, vẫn ngày qua ngày
làm lụng chăm chỉ, gởi tiền đều đều
về Việt Nam.
Thật
ra nói tiền gởi đều đều cũng không
đúng v́ càng ngày đám cháu bên nhà càng lớn th́ những nhu
cầu càng cao, hơn nữa bà chị Khoa cũng xây đắp,
sửa sang thêm nhà cửa cho con cái đỡ mất mặt
với bạn bè trang lứa, đó là chưa kể c̣n có
đứa làm đám cưới, đám hỏi. Một bà
chị, năm đứa cháu ăn học do một tay Khoa
lo lắng, những đám hàng hóa chất vào kho, đưa
lên xe truck ngày càng trở nên nặng nề hơn trên vai khi
tuổi đời đă cao, tuy nhiên Khoa lấy niềm vui
của gia đ́nh chị làm niềm vui của ḿnh mà bỏ
quên đi những hạnh phúc cũng có thể t́m thấy
xung quanh.
Khoa
luôn từ chối những lời mời đi tham dự
họp hành của những người lính năm xưa v́
Khoa nghĩ họ chỉ đến đó để khích
bác và căi nhau. Thật ra th́ sự bất đồng ư kiến
ở đâu chẳng có, dù là nơi thờ phượng
như chùa chiền hay nhà thờ nhưng nếu chúng ta cứ
chú ư vào những điều đó để từ chối
hợp tác th́ trên đời này chẳng c̣n một tổ chức
hay một đoàn thể nào cả. Những buổi tiệc
tùng, cưới xin hay văn nghệ chào mừng năm mới,
những nơi cộng đồng Người Việt
ăn Tết cũng chẳng thấy sự xuất hiện
của Khoa. Ngày cuối năm Khoa gọi điện thoại
về Việt Nam ăn Tết hàm thụ cùng gia đ́nh chị,
nghe kể chuyện mua sắm của các cháu, đón gia thừa
cúng kiến với chị và thả hồn vào những mùa
Xuân năm xưa. Trong căn pḥng nhỏ giữa khu cư
xá lạnh lùng không hề có bóng dáng của nàng xuân, không hề
có một tiếng pháo đón giao thừa. Trong nhà không một
gói mứt, không một cành hoa th́ nói nói chi đến một
chiếc bàn thờ, một b́nh hoa hay một mùi trầm
hương ấm cúng!
Nếu
lái xe ra khỏi khu cư xá độ nửa giờ, nếu
sẳn sàng nhập cuộc Khoa sẽ thấy không khí Tết
trong một đám đông nào đó, cũng khói hương
nghi ngút trên bàn thờ, những khuôn mặt hớn hở, nụ
cười vui tươi trong ánh mắt đồng bào, họ
dựng lại mùa Xuân trên đất khách, những lời
chúc tụng, những hy vọng, hân hoan chờ mùa Xuân thực
sự trên quê hương đất nước. Có những
đứa bé gái, trai trong áo dài khăn đóng ê a bài hát bằng
ngôn ngữ Việt, những người tuổi trẻ
lăng xăng qua lại tiếp đón, tṛ chuyện với
người lớnvà cũng có rất nhiều người
ngoại quốc, người Mỹ đến chung vui với
dân tộc Việt Nam.
C̣n
Khoa, anh không tốn một đồng bạc cho những
đồng bào ḿnh ở đây dù là mua một đ̣n bánh tét
nhỏ trong một cửa tiệm tạp hóa Việt Nam hay
tặng cho một hội đoàn nào vài chục đồng.
Tuy nhiên lại chi một số tiền quá lớn cho cái Tết
ở quê nhà mà Khoa chỉ tham dự qua h́nh ảnh, qua
Internet và điện thoại. Khoa không đi chùa, không đi
nhà thờ, không tham dự những ngày kỷ niệm của
Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa mà có thời Khoa đă là một
thành viên, có thời Khoa đă từng bị trả thù và
đầy đọa. Khoa càng xa lánh mọi người th́
người ta cũng không c̣n để ư đến Khoa nữa,
với anh điều đó thật là một nỗi cô
đơn dễ chịu vô cùng và anh tận hưởng hạnh
phúc trong sự cô độc tuyệt vời này.
Một
ngày kia Khoa nhận được tin vui bên nhà đứa
cháu trai đă ra bác sĩ, anh hớn hở chạy xuống
chị Bảy gởi mừng cháu một số tiền khá
lớn, vừa nh́n Khoa chị Bảy vụt nói:
- Chú
Khoa sao dạo này xuống sắc vậy, coi bộ đau ốm
ǵ đó, liệu mà đi bác sĩ đi!
Khoa cười
vui vẻ:
- Tôi
có đau ốm ǵ đâu, hồi hôm vui quá khi nghe thằng
cháu mới ra Bác Sĩ nên chẳng ngủ được
chút nào cả.
Chị
Bảy chặc lưỡi:
- À ra
vậy, chung vui với chú đó nhưng mà chú Khoa ơi! Dù
có thương gia đ́nh cách mấy th́ cũng lo cho ḿnh một
chút, nên nghĩ ngơi đi chơi đây đó để
giải trí chứ nếu chú bệnh hoạn nằm xuống
th́ chẳng có ai chăm lo đâu. Chị và các cháu th́ quá xa
xôi, phải chi ..
Chị
Bảy định nói chuyện cô Diễm Châu, rồi nghĩ
đến cô Thu Thảo mà tiếc giùm cho Khoa nhưng sực
nhớ lời anh Bảy khuyên th́ chị im lặng.
Trên
đường lái xe về Khoa bỗng chú ư đến lời
khuyên của chị Bảy là nên đi chơi đây đó.
A! Phải rồi, nay cháu đă học hành thành tài sao ḿnh
không về Việt Nam chơi một chuyến, mười
mấy năm ra đi chưa một lần trở lại,
bà chị nay cũng đă già lắm rồi về thăm
là đúng.
Vậy
là Khoa quyết định mua vé máy bay về Việt Nam, những
ngày sau đó Khoa bận rộn việc quà cáp cho gia đ́nh,
xin phép ở hăng, Khoa thấy vui vẻ, hạnh phúc như mở
hội trong ḷng khiến những người xung quanh ngạc
nhiên và kháo nhau: chắc hắn ta có cô nào rồi nên mặt
mày mới rạng rỡ như thế, để chờ
xem sao?
Một
buổi sáng ngủ dậy Khoa cảm thấy trong người
có những triệu chứng bất thường nhưng cũng
ráng lái xe đi làm, đến nửa buổi th́ Khoa gượng
không nổi nữa nên phải nhờ người chở về
nhà. Mọi người đoán là anh bị bồ đá hay
sao đó, đời khổ là vậy: không đàn bà cũng
khổ mà có đàn bà lại càng khổ hơn. Rồi Khoa
không trở lại sở từ ngày đó, anh đi Bác Sĩ
khám bệnh và nằm liệt giường.
Một
ngày kia ông Lê là người giúp đỡ Khoa nhiều nhất
trong những ngày đầu tiên anh mới đến đất
Mỹ nhận được cú điện thoại từ
ông Trần Lâm làm trong dịch vụ bán vé máy bay về Việt
Nam:
- Ông
Nguyễn Khoa bạn thân của ông đă mua vé máy bay về
Việt Nam nhưng nay ổng đau nặng quá nên xin trả
vé lại. Ông ta gọi tôi nhờ ông đại diện
để nhận tiền hoàn trả v́ ông ta chẳng có ai ở
đây!
Ông Lê
như trên trời rơi xuống, một hồi lâu mới
nhớ ḿnh có người bạn thân tên Nguyễn Khoa. Thật
ra hồi trước ông Lê có giúp Khoa lái xe, mua xe và vô số
việc trên trời dưới đất cần thiết
cho một người mới lớ ngớ lần đầu
đến Mỹ. Ông giúp Khoa cũng như đă giúp mọi
người từ việc nhỏ đến việc lớn,
ai ai cũng cho là ông tốt bụng, hào hiệp nhưng vợ
con ông th́ nói ông là người ăn cơm nhà đi vác ngà
voi, chuyên lo chuyện bao đồng, chuyện tào lao.
Ở
đám đông nào cũng có mặt ông Lê, ai ông cũng quen biết.
Ông theo đạo Phật nhưng khi nhà thờ có việc
th́ ông cũng lăn xả vào mà giúp, ông từng là một
người lính nên việc lính là ông tính liền, ở
đâu có lính là ở đó có ông cho nên anh Thiếu Úy Nguyễn
Khoa đi diện H.O. vừa đến thành phố này th́
làm sao tránh được sự ân cần giúp đỡ của
ông Lê. Ông chưa bao giờ nghĩ ḿnh là một người
bạn thân của Khoa cả v́ sau khi đời sống
trên đất Mỹ khá ổn định th́ hơn ai hết
Khoa đă lánh mặt ông. Không phải anh ghét ǵ ông Lê mà chỉ
v́ khi giao thiệp, qua lại th́ ông hay rủ rê Khoa đi
tham gia hội này hội nọ. Ông Lê là người quá hăng say việc xă hội nên
không thích hợp với bản tính trầm lặng, sống
âm thầm xa cách mọi người của Khoa.
Nghe
tin chẳng lành của Khoa ông Lê vội xách xe chạy
đi, dạo này ông về hưu nên càng làm việc thiên hạ
nhiều hơn, vợ con càm ràm riết cũng chán để
mặc ông muốn làm ǵ th́ làm. Cũng may là con cái học
hành thành đạt, công việc làm ăn đàng hoàng nên ông
hay tuyên bố:
- Nhờ
ba làm việc thiện nên tụi bây mới hưởng
được phước, cho nên tụi bây không nên cản
trở mà phải khuyến khích tao nghe chưa?
Tụi
nhỏ la ó:
- Ai
mà cản ba nổi, mẹ cũng đành bó tay huống chi
tụi con. Thôi th́ ba muốn làm ǵ th́ làm miễn rằng ba hạnh
phúc là được rồi!
Vậy
là những ngày cuối cùng của Khoa chỉ có ông Lê bên cạnh,
ông bỏ việc nhà việc cửa lo săn sóc, giặt giũ,
cơm nước cho Khoa. Ông không từ chối dù những
việc dơ dáy, phóng uế của một người bị
ung thư ruột, khi bệnh Khoa trở nên quá nặng phải
chở vào bệnh viện th́ ông phải chạy đi chạy
về để lo chuyện tiền bạc, giấy tờ.
Rồi Khoa qua đời ông phải đi quyên góp để
lo đám tang.
Ông
than thở:
- Ngày
c̣n sống chú ấy sống khép kín quá, không biết đến
ai nên khi qua đời cũng chẳng ai biết đến
chú ấy. Tôi gặp khó khăn trong việc quyên góp, bao nhiêu
tiền bạc làm được chú gởi cả về
Việt Nam khi nằm xuống chẳng có đồng nào. Thật
là tội cái thân đơn chiếc, tứ cố vô thân!
Ông Lê
kêu điện thoại cho gia đ́nh bên Việt Nam báo tin
th́ nghe bà chị và lũ cháu khóc như ri.
Người
cháu Bác Sĩ nói:
- Cậu
con thật tội nghiệp, cứ lo cho gia đ́nh bên này mà
quên cả thân ḿnh. Cậu có ước nguyện được
đem tro cốt về Việt Nam nên xin bác lo giùm, tốn
kém bao nhiêu chúng con xin hoàn trả sau.
Ông Lê
phải chạy về năn nỉ bà vợ cho mượn
một số tiền, khi cầm tiền chắc trong tay rồi
ông mới nói với vợ:
- Nghĩa
tử nghĩa tận, số tiền này ḿnh cho họ
mượn nếu họ không trả lại th́ kể
như ḿnh làm phước nghe bà!
Bà vợ
làm thinh, im lặng là chấp nhận vậy là ông ba chân bốn
cẳng chạy đi liên lạc với nhà quàn để
lo thủ tục thiêu hài cốt của Khoa.
Bây giờ
th́ Khoa nằm đó, một chiếc quan tài đơn
sơ chờ vào ḷ thiêu xác. Không vợ con, không họ hàng
thân thuộc, người thăm viếng cũng thưa thớt
đếm được trên đầu ngón tay. Một lá
cờ vàng ba sọc đỏ vắt ngang trên ṿng hoa tang
độc nhất, ông Lê thở dài:
- Tôi
mang lá cờ đến cho chú ấy, dù ǵ chú cũng có thời
chiến đấu dưới màu cờ này. Huynh đệ
chi binh mà, chú ra đi có vài anh em như vầy cũng
được!
Thôi
th́ cũng được, thôi th́ cũng một kiếp
người nhưng sao tôi nghe có ǵ nghẹn ngào trong cổ
họng. Anh sống đúng hay sai tôi không dám bàn tới
nhưng có một điều không thể chối căi
được là chưa bao giờ anh được sống
cho chính ḿnh, tuổi trẻ của anh mịt mù trong khói lửa
chiến tranh, rồi bị vùi dập trong thù hận, trong
những trại tù. Qua đến xứ tự do, chưa
bao giờ tận hưởng được những hạnh
phúc cho riêng ḿnh mà sức lực lại tiêu hao trong bổn
phận, trong những ân nghĩa mà anh tự nguyện trang
trải. T́nh yêu không có nơi để mọc cánh, để
đơm hoa kết trái bởi những kỷ niệm
đau buồn trong quá khứ. Bây giờ anh nằm đó,
người lính già cô đơn tội nghiệp, người
lính không chết trên chiến trường mà chết trong âm
thầm với những roi vọt, những vết hằn
thù của đời sống. Cũng có thể tôi đă
đi quá xa, đă tưởng tượng quá nhiều và
đâu đó dư âm bài hát năm xưa bỗng vang vọng
đâu đây. Nơi đây có ai đâu đưa tiễn
anh về, đưa tin anh về với ḷng đất sâu.
Chiếc
ḥm của anh quá đơn sơ đến tội nghiệp,
đó chỉ là những tấm cạc-tông cứng màu xám xịt
ghép vào nhau. Dù vẫn biết chiếc ḥm nào cũng bị
vùi lấp trong đất, cũng bị đẩy vào ḷ
thiêu nhưng tôi vẫn thấy bất nhẫn quá. Tôi quay
đi để dấu những giọt nước mắt
thương cảm và nói với chị bạn bên cạnh:
- Sao
thảm quá chị à!
Chị
bạn im lặng thở dài, ông Lê phân trần:
-
Chúng tôi chỉ lo được như thế. Ngày c̣n sống
chú không giao thiệp với ai nên khi nằm xuống cũng
khó có người biết đến, chẳng qua chỉ có
anh em lính tráng kẻ ít người nhiều thôi cô ạ! Cũng
may mà bà xă tôi không cằn nhằn khi tôi giúp chú ấy. Khi tôi
đi quyên góp c̣n có người nói: Ăn rồi cứ lo gởi
tiền về Việt Nam đến khi nằm xuống sao
không kêu người bên Việt Nam giúp cho!
Ông Lê
thở dài:
- Họ
nói cũng có cái lư của họ, nhưng biết sao đây.
Bán anh em xa mua láng giềng gần nhưng nói th́ nói chứ
có ai dám làm như thế đâu cô nhỉ!
Rồi
mọi người cũng quên người lính già Nguyễn
Khoa cho đến một hôm trong một buổi văn nghệ
giúp các anh Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Ḥa
người xướng lên tên những vị Mạnh
Thường Quân bỗng tôi nghe người ta nhắc
đến tên anh:
- Ông
Nguyễn Khoa Cựu Quân Nhân Việt Nam Cộng Ḥa ủng hộ
300 Dollars.
Có tiếng
x́ xào dưới khán đài:
- Ông
Nguyễn Khoa chết rồi mà, ổng chết mấy tháng
nay rồi! Biết có phải ông ta không?
- Chứ
c̣n ai nữa, ở thành phố này có ai tên Khoa nữa
đâu!
Thấy
ông Lê đang lăng xăng chạy tới chạy lui trong
hội trường tôi bước đến hỏi
thăm:
- Này
anh Lê ơi, có phải anh Khoa gởi tiền cho
Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Ḥa không?
Ông Lê
cười buồn:
-
Trong những ngày cuối cùng chú bị dằn vặt nhiều
và muốn đến với các anh em nhưng đă quá muộn
rồi. Tôi nói người ta sắp tổ chức văn
nghệ để giúp các anh em Thương Phế Binh
đang sống khốn khổ tại quê nhà, chú nói nếu
lành bệnh sẽ đi tham dự và lặp lại lời
hứa cho đến những giây phút ra đi và đó cũng
là số tiền cuối cùng của chú gởi đến
giúp các anh em ḿnh. Nói ǵ nói chứ cũng tội nghiệp
quá, chú mang vết thương ḷng khi nằm trong tù nghe
người yêu bỏ đi vượt biên. Chú nhớ hoài
ngày bà chị nghèo đi bới xách và đùm bọc khi ra tù
nên lúc nào cũng mong được đền đáp.
Tôi
nói:
-
Nhưng c̣n cuộc đời của anh ấy, nhưng c̣n
hạnh phúc của anh ấy th́ sao?
Ông Lê
nhún vai:
- Có
những vết thương không bao giờ lành được
đâu cô. Khi nỗi khốn khổ đă đi quá cái giới
hạn th́ nó sẽ trở thành sự ám ảnh không thể
nào nguôi ngoai, Khoa lại thuộc tưp người sống trầm
lặng, thà rằng cứ nói ra mà nó dễ chịu cô ạ.
Cho nên người ta nói chú ấy chẳng giống ai,
chưa điên khùng là may rồi, thế cũng xong một
đời.
Ông Lê
chào tôi rồi bước tới một đám đông nào
đó, ông cười cười nói nói không phút nào ngơi.
Tôi tự hỏi đời sống này sẽ ra sao nếu
thiếu những người như ông. Cuộc sống
ông Lê và cuộc sống của Khoa hoàn toàn trái ngược
nhau như mặt trăng với mặt trời, như sao
Hôm với sao Mai, như Nam cực với Bắc cực. Vậy
mà trong những phút cuối đời Khoa đă sống
trong ṿng tay đùm bọc, đỡ đần của ông,
cho nên đôi khi người ta vẫn thấy mặt
trăng giữa ban ngày. Sao Hôm và Sao Mai chỉ là một. Nam
Cực và Bắc Cực cũng đều lạnh giá
như nhau.
Thế
cũng xong một kiếp người, người lính
năm xưa đă trở về với đất. Xin cầu
nguyện cho anh bắt đầu một đời sống
khác hạnh phúc hơn cuộc đời anh đă đi
qua./
MIMOSA
PHƯƠNG VINH
(Trịnh Cuối Huôn sưu tầm và chuyển)