Một hạt
đậu hai người khiêng
- BS PHÙNG VĂN HẠNH -
(Hồi ký "Tình yêu hiện sinh")
Trong trại
tù Tiên Lãnh, khu nhà Ri thật đặc
biệt. Tường là những tấm vỉ sắt
(grille) xưa kia dùng lót phi đạo cho những
phi trường dã chiến. Mái lợp tôn. Bởi
thế, mặc dù tường có nhiều lỗ
thông hơi tròn nhỏ, không khí trong
phòng lúc nào cũng hâm hấp nóng về
mùa hè. Mùa đông thì gió bấc
luồn vào lạnh thấu xương. Giường
ngủ hai tầng là những sạp gỗ. Trên sạp
tù nhân nằm sát nhau. Căn phòng 4mX12m chứa
trên 70 người. Tù nhân phần lớn
là thanh niên và trung niên, phạm tội
vượt biên.
Một
đêm hè oi bức. 6 giờ chiều thì cửa
phòng đã khóa lại. Đèn điện
vẫn sáng cho đến 10 giờ. Đứng
ngoài đêm tối nhìn vào, nhà Ri giống
như một lồng sắt to lớn nhốt thú vật.
Anh em tù
đều ở trần, tay phe phẩy quạt, ngồi tụm
nhau để nói chuyện. Nhưng hoạt náo nhất
là nhóm những người nghe chuyện kiếm
hiệp Kim Dung do giáo sư Lộc kể. Anh ta nhớ
từng chi tiết gay cấn, từng cá tính
hài hước nhân vật, và gây cho
người nghe sự háo hức say mê, và thỉnh
thoảng một trận cười khoái trá. Tiểu
thuyết Kim Dung hàng chục quyển, mà truyện
nào cũng tràng giang đại hải, bởi thế
tháng nầy qua tháng nọ, Lộc có thể
mang lại niềm vui cho anh em trại viên, nhất
là làm cho họ quên đi phần nào nỗi
đau buồn xa gia đình và thời gian
dài dặc "nhất nhật tại tù, thiên
thu tại ngoại". Ngoài chuyện
kiếm hiêp dài hàng tháng, Lộc còn
kể cho anh em nghe nhiều giai thoại hài hước
Trạng Quỳnh, chuyện cổ tích Anderson, truyện
Tàu từ Phong Thần, Đông Chu liệt quốc
đến Thanh triều cận đại. Trí nhớ
của anh thật phi thường, nhất là những
nhận xét tinh tế của anh về nhân vật.
Anh đọc được cả chữ Hán. Một
hôm có trại viên gốc Tàu, tội
vượt biên được thăm nuôi, mang
vào nhiều gói quà bọc trong giấy
báo cũ in toàn chữ Tàu. Lộc chú
ý đọc và nhận ra đó là tờ
Hồng Kông báo. Tối ấy anh kể cho anh em một
giai thoại văn học lý thú mà anh
đã đọc trong tờ báo ấy:
"Một
học trò nghèo tên Trúc nguyệt Ba
lên Bắc kinh dự thi. Song đến thủ phủ
Giang Nam thì hết tiền độ nhật. Anh phải
vào chùa thí phát để ăn nhờ cửa
Phật. Một hôm ngồi tụng kinh ở chính
điện, anh thấy một thiếu nữ đẹp
tuyệt trần độ 16 tuổi vào lễ Phật
có người hầu hạ đi theo. Anh muốn ghẹo
cô.
Thấy
cô thanh tân, yểu điệu như cành liễu
trước sân chùa, bèn vừa gõ
mõ, vừa tụng bài thơ sau đây:
"Giang nam liễu,
nộn lục bất thành âm.
Chi nhuyễn bất
kham khinh chiết thủ
Huỳnh ly phi thượng
lực năng cam.
Lưu thủ
đãi xuân thâm".
(Tạm dịch:
liễu Giang Nam, xanh non như thể không có
bóng. Cành mong manh không chịu nổi tay
người bẽ phủ phàng, cũng như
không chịu nổi sức nặng chim huỳnh ly
bé bỏng. Thôi thì rụt tay lại đợi
vài xuân nữa).
Rủi cho
chú tiểu, cô tiểu thư tên là Liễu
Nộn Nộn, con quan tổng đốc Giang nam.
Nghe bài
thơ cô hiểu ý, khóc lóc ra về kể
cho cha nghe sự vô lễ của chú tiểu. Tổng
đốc cho lính bắt ngay chàng thanh niên
xúc phạm đến tôn quý, nhất là
tội thầy chùa phạm sắc giới, xử phải
chết trầm mình dưới sông. Ông họa
lại bài thơ ghẹo gái để minh chứng
ông không xử oan. Biết anh họ Trúc,
ông đọc bài họa như sau:
"Giang Nam
trúc, xảo tượng tác vi đồng.
Phó giữ
pháp sư tàng pháp thể.
Giang ba thâm xứ,
bạn ngư long.
Tất tri sắc sắc
không không".
(Tạm dịch:
với trúc Giang Nam, tay khéo đan một chiếc
lồng, để cho pháp sư ẩn tàng
thân thể, dưới thâm sâu sóng
gió dòng sông làm bạn với cá rồng.
Tất cảm nhận sắc đó rồi không
đó).
Trúc nguyệt
Ba trước khi chết xin quan cho họa thơ lần
chót. Vì tên lót là Nguyệt anh ta
đọc:
"Giang nam nguyệt.
Như cảnh diệc như câu.
Như cảnh bất
lâm hồng phấn diện
Như câu bất
thượng thủy liêm đồng.
Không tự chiếu
đông lưu".
(Tạm dịch:
Trăng Giang Nam. Khi như gương tròn, khi như
móc câu. Như gương tròn cũng
không soi được mặt người đẹp
hồng phấn. Như móc câu cũng không treo
được bức tranh thủy liêm nơi
phòng khách sang trọng. Chỉ chiếu suông
dòng nước chảy về đông.) Ý anh
ta nói anh chẳng bao giờ có ý trèo cao,
mà chỉ là trăng suông lạnh lẽo.
Quan tổng
đốc thấy anh là ngưới có tài
bèn bỏ tiền cho anh làm lộ phí
vào Kinh thi. Quả nhiên Trúc nguyệt Ba đậu
trạng nguyên và trở về cưới Liễu
Nộn Nộn làm vợ".
Đời sống
hàng ngày trong tù cũng là đầu
đề cho Lộc kể những chuyện hóm hỉnh.
Anh kể là khi xưa đồng quê Việt Nam
hưởng thanh bình thực sự. Chứng cớ
là chuyện bài thơ Con cóc. Một buổi
chiều thơ mộng có nắng vàng, có
đàn chim sẻ ríu rít trên mái
nhà, ba chàng thư sinh đang nấu sử, sôi
kinh chờ ngày ra kinh ứng thí, họp nhau trong
sân nhà. Họ đang tìm đề tài
để nhả ngọc, phun châu. Họ tư lự
nhìn cảnh vật chung quanh. May thay có chú
cóc, nghe gió chiều mát rợi thổi
vào hang nằm dưới bậc cấp hàng
hiên, liền nhảy ra. Thư sinh thứ nhất ứng
khẩu đọc ngay:
Con cóc trong hang./
Con cóc nhảy ra
Con cóc
ngồi ở miệng hang một lát để ngắm
trời xanh biếc, phong cảnh quen thuộc chung quanh.
Thư sinh thứ hai xuất tứ, nối tiếp:
Con cóc nhảy
ra./Con cóc ngồi đó.
Ngắm cảnh
chán, cóc phải nhảy đi để tìm
mồi. Thư sinh thứ ba tức cảnh sinh tình,
đọc hai câu thơ chót:
Con cóc ngồi
đó./ Con cóc nhảy đi.
Ba chàng
vỗ tay khi hoàn thành bài thơ tuyệt hảo,
và bài thơ đã đi vào lịch sử!
Dĩ nhiên trong cảnh thanh bình đó,
bài thơ Con cóc có thể kéo dài
vô tận, như là: Con cóc nhảy đi, nhảy
vào bụi cỏ v.v.. Nhưng trong trại tù của
chúng ta bài thơ ấy chấm dứt rất
nhanh:
Con cóc trong
hang./Con cóc nhảy ra/Con cóc nhảy ra./ Con
cóc chết!
Tại sao
con cóc chết tức tưởi như vậy?
Vì nó sẽ bị trại viên tóm ngay, chặt
đầu, lột da, bỏ vào gô cải thiện.
(Gô là lon nhôm guigoz trong trại tù Cộng
sản dùng để nấu nướng. Cải thiện
tức là kiếm thêm chất thịt để bồi
dưỡng, vì trong tù chỉ ăn cơm độn
sắn với nước muối. Ăn uống trong trại
tù Cộng sản kém cả chất lẫn lượng.)
Đây cũng là cách Lộc mỉa mai chế
độ một cách sâu sắc - Lộc
nguyên là giáo sư Anh văn trường Trung
học Phan chu Trinh, Đà-nẵng. Tốt nghiệp
Đại học Sư phạm Saì-gòn môn Anh
ngữ. Vì cận thị nặng anh được miễn
quân dịch.
Anh dạy học
được 5 năm thì ngày 29-03-75, Cộng
quân chiếm Đà-nẵng. Anh được
lưu dụng, dạy Anh Ngữ. Song bấy giờ Nga ngữ
thịnh hành hơn. Sự phân biệt đối
xử với người chế độ cũ, chế
độ đàn áp, độc tôn tư
tưởng cùng sự dốt nát của cán
bộ giáo dục và nhân viên chính quyền
các cấp, làm anh thối chí, và nảy
ý định vượt biên. Lộc cùng một
số bạn bè vất vả kiếm tiền mua hải
bàn, xăng nhớt, thuyền máy v.v. trong 5
tháng trời mới xong. Riêng Lộc đã phải
vay mượn một số tiền lớn. Chuyến
đi tuy tổ chức chu đáo, xuất phát từ
trại cùi Hải Vân, song định mệnh vẫn
mạnh hơn tính toán của con người. Sau
khi mọi người đã xuống tàu, một
tàu đánh cá nhỏ, vào lúc nửa
khuya, thuyền trực chỉ ra khơi. Nhưng mới rời
bờ đá độ 100m thì thuyền máy
Công an phục kích từ lâu đón bắt.
Trọn 40 thanh niên,thiếu nữ bị áp tải
về trại giam Chợ Cồn để thẩm vấn
rồi sau một tháng tất cả đi cải tạo
lao động tại Tiên Lãnh. Lộc và
các bạn nhập vào nhà Ri. Thấm thoát
mà đã 5 năm tù tội.
Gia
đình sa sút từ ngày mất miền Nam, Lộc
ít được thăm nuôi, mỗi năm nhiều
lắm hai lần. Đồ thăm nuôi nghèo
nàn, lèo tèo một thẫu thịt heo kho mặn,
vài kí- lô đường đen và
ít đồ lặt vặt. Phần ăn trại cấp
thì sắn là chính, gạo chỉ độ
100gr mỗi bữa. Thức ăn thì độc một
món, nước muối hoặc nước mắm
cái nấu loãng. Ăn không no và không
đủ chất lượng nên tù nhân chết
vì suy dinh dưỡng rất nhiều. Muốn sinh tồn,
phải cải thiện, nghĩa là mọi sinh vật
dù nhỏ bé và gớm ghiếc đến
đâu cũng bị trại viên chộp lấy nấu
ăn. Bởi thế bài thơ con cóc kết
thúc rất nhanh. Lộc cũng là một tay
lão luyện trong nghề cải thiện. Nhưng
như anh đã từng than phiền:"caution is not
stronger than fate" (định mệnh mạnh hơn
phòng bị), anh là nạn nhân mà định
mệnh đã chọn trong cuộc sinh tồn. Câu
chuyện thương tâm sau đây đã hằn
lên đời anh một vết thương chí mạng.
Số
là về mùa trồng đậu phụng, mỗi
tối, trại viên phải làm thêm giờ gọi
là tranh thủ. Ăn cơm tối xong, trại
viên được nhà trưởng tập họp
dẫn lên sân rộng trước nhà kho của
trại để lột đậu. Cứ mỗi tốp
năm người ngồi vòng tròn dưới một
gốc cây tàng lá sum sê, dưới
ánh sáng một ngọn đèn điện 40W
mắc trên cành cây. Giống như một tiệm
cà-phê ngoài trời ở Sài-gòn, song
ở đây ngồi bệt dưới đất. Với
mùa lột đậu, phải chuẩn bị một
cái ghế nhỏ cầm tay hoặc một miếng gỗ
dày để lót mông ngồi trong suốt 3 giờ.
Giữa vòng tròn 5 người là hai
thúng đầy đậu vỏ, và một
thúng trống để đựng đậu hột.
Mỗi trại viên được phát một rổ
nhỏ. Lấy đậu vỏ vào rổ, rồi trở
về chỗ ngồi, bóp từng trái đậu
vỏ vỡ ra, mà không làm nát hạt
đậu ở trong. Vỏ đậu quăng ra dưới
đất, còn hột đậu thì bỏ
vào rổ. Khi lột hết rổ đậu thì
mang đậu hột đổ vào thúng trống,
rồi xúc đậu hột về chỗ, làm tiếp.
Vừa lột đậu vừa chuyện vãn với
nhau, hoặc nghe Lộc kể tiếp kiếm hiệp Kim
Dung cũng là những phút thư giãn trong cuộc
sống ở trại, nhất là được
hưởng gió mát và nhiều khi trăng
thanh, giữa vùng rừng núi. Một cái
thú nữa là thỉnh thoảng nhót một hạt
đậu vừa béo vừa ngọt, mà cơ thể
đang cần. Ai cũng ăn lén song rất thận
trọng kẻo bọn cán bộ canh chừng, đi lảng
vảng trong sân kho bắt gặp. Nhưng rủi cho Lộc.
một sự rủi ro hi hữu, vì chỉ có
mình anh bị bắt trong suốt mùa lột đậu
năm ấy. Vừa lột đậu anh thong thả kể
chuyện vui cười để che lấp mình
đang nhai đậu sống. Bỗng từ bóng tối
góc sân, tên cán bộ bước ra, đi
thẳng đến chỗ Lộc ngồi và ra lệnh:
- "Anh
hãy mở miệng cho tôi xem". Tái mặt,
anh chưa biết phản ứng ra sao, thì tên
cán bộ đã quát lớn:
- "Anh nghe
rõ chưa, tôi bảo anh mở miệng ra xem".
Lộc mở miệng song không thấy hạt đậu
nào. Tên cán bộ lại bảo:
- "Anh
lè lưỡi ra xem".
Lộc
lè lưỡi ra, Lưỡi anh trắng nhờ nhờ,
tố cáo rằng anh đã ăn đậu phụng.
Tên cán bộ kéo anh ra giữa sân. Bốn
tên cán bộ khác đã đến
vây quanh anh. Năm tên đều mang bốt mà
quân đội miền Nam trước kia dùng
đi hành quân, loại bốt da cứng
(chúng tịch thu khi lục soát tù sĩ quan
quân đội miền Nam trại Kỳ Sơn lên
Tiên Lãnh). Lúc đầu thì chúng
đấm vào mặt, bụng, ngực anh. Anh ngã
xuống vài lần. Song chúng kéo anh đứng
dậy. Một tên tuyên bố lớn tội trạng
anh;
- "Lâu
nay chúng tôi biết đậu phụng lột thất
thoát nhiều. Chúng tôi nghi các anh ăn
lén. Nay bắt được, chúng tôi trừng
trị nặng để các anh chừa thói
ăn cắp tài sản Xã hội Chủ
nghĩa".
Tên
cán bộ quản giáo nhà Ri biết lý lịch
của Lộc, sẵn dịp lại phun ra những lời
phỉ báng theo lối giáo dục Cộng sản:
- "Anh Lộc
là một giáo sư ở chế độ thối
nát miền Nam. Bởi thế mang danh là nhà
mô phạm dạy con em Cần, Kiệm, Liêm, Chính
theo gương bác Hồ, anh là người
ăn cắp, nêu gương xấu. Đã biết
các anh xấu xa từ bản chất, nên
chúng tôi tập trung các anh lại để cải
tạo. Song các anh vẫn thói nào tật nấy,
không chịu sửa đổi, Nếu chúng
tôi có tàn ác cũng chỉ để
giáo dục các anh".
Lâu nay
cán bộ trẻ trong trại có phong trào học
võ. Họ bắt các trại viên giỏi
võ, dạy họ học nào công phu,
karaté v.v. Họ thường đem ứng dụng
các thế võ học được trên
thân thể trại viên phạm lỗi. Những trận
đánh bề hội đồng thường xảy
ra trên hiện trường lao động. Lộc bị
rơi vào trừờng hợp nầy. Năm tên
cán bộ thay phiên nhau nhảy lên đá
song phi vào người anh. Anh ngã xuống,
chúng lại nâng anh đứng dậy. Mặt anh
đã sưng phù, máu đã ứa ra
khoé miệng. Cuối cùng, Lộc nằm bất
động trên nền đất, thở thoi
thóp. Thế mà bọn cán bộ vẫn
chưa tha. Chúng còn đá thêm vào
người anh.
Tên
giám thị trại sợ anh chết nên ra lịnh
ngưng đánh và bắt hai trại viên
nhà Ri khiêng anh không phải về bệnh
xá, mà về nhà Ri. Anh em xúm xít lại
quanh anh, trong ấy có cả một Bác sĩ tội
vượt biên, săn sóc cho anh hồi tỉnh.
May mà không có xương nào gảy, chỉ
rách môi và vài răng lung lay. Vết bầm
thì khắp người. Anh phải nằm tịnh
dưỡng suốt 15 ngày mới đi lại
được. Nhân câu chuyện thương
tâm trên kia, mới có truyền miệng giai thoại:
"một
hạt đậu, hai người khiêng".
Không phải là hạt đậu to nặng đến
hai người khiêng, mà phải khiêng người
ăn hạt đậu. Một câu chuyện cười
ra nước mắt, mà chỉ chế độ
vô nhân Xã hội chủ nghĩa mới
có. Riêng với Lộc, đó là một
biến cố ảnh hưởng sâu xa đến nội
tâm anh. Mặc cảm một nhà sư phạm
ăn lén vẫn là hình ảnh không đẹp,
mặc dù những bức bách của tình thế.
Bài thơ sau đây anh làm lúc nằm
dưỡng bệnh ở nhà Ri:
"Ông Trời
sao quá bất công
Riêng tôi
gánh chịu đau thương quá nhiều
Quyết tâm phấn
đấu bao nhiêu
Bấy nhiêu
tù tội, đói nghèo, đau thương
Mẹ già một
nắng hai sương
Chắt chiu dành
dụm trăm đường lo toan
Nào là
món nợ của con
Vượt biên
vay mượn lãi dồn càng cao
Thăm nuôi mẹ
phải lao đao
Thân già
nuôi trẻ biết bao đoạn trường
Sao con không
nghĩ mẹ thương.
Thèm chi hạt
đậu, mà vương trận đòn.
Yếu đau,
thân thể hao mòn
Để mẹ lo lắng,
để con hận đời."
Từ
ngày bị trận đòn, Lộc trở nên
lầm lì, ít nói. Bạn bè không
còn được anh kể chuyện kiếm hiệp
Kim Dung. Anh gầy đi, thỉnh thoảng lên cơn
đau bụng. Nước da tái dần. Anh phải
đi nằm bệnh xá và ít lâu sau
được phóng thích vì lý do sức
khoẻ. Nỗi mừng được sum họp với mẹ
làm anh phấn khởi và tiếp tục phấn
đãu để kiến tạo tương lai.
Nhưng một tháng sau, mẹ anh đã vĩnh viễn
ra đi sau hai ngày nằm cấp cứu ở bệnh
viện Đa khoa Đà-Nẵng vì nhồi
máu cơ tim. Nỗi buồn mất mẹ làm anh
nằm rũ liệt trên giường mất cả tuần.
Song anh chổi dậy, mặc dù sức khỏe
kém, mở các lớp Anh văn dạy, để
lấy tiền. Trong một năm, công việc
làm ăn của anh rất hanh thông. Lớp học
anh đông vì thiên hạ đang chuẩn bị
vốn Anh ngữ để được nhận đi Mỹ
theo chương trình ODP. Chính anh cũng ráo
riết nộp đơn để chớp lấy cơ hội
ngàn năm một thuở .. Với khả năng Anh
văn lưu loát, anh thuyết phục phái
đoàn phỏng vấn Hoa-Kỳ dễ dàng để
được nhận đi qua Mỹ đợt đầu.
Cùng đi với anh có người vợ mới
cưới, chị Hoa. Chị là học trò
cũ của anh, đã mến phục anh từ
lâu. Chính chị đã bỏ tiền ra
săn sóc cho anh. Sức khỏe anh có khôi phục
đôi phần, Nước da bớt tái. Song anh biết
bệnh anh trầm trọng mà chỉ ở Mỹ mới
đủ phương tiện cứu anh thoát tay tử
thần. Chính vì lý do đó mà anh phấn
đấu hết mình để được ra
đi sớm, Nhưng số mệnh khắc nghiệt vẫn
không tha cho anh. Anh được phái đoàn
Mỹ cấp vé máy bay từ Đà-nẵng
vào Saigòn ngày Chúa nhật tháng 9-89.
Sáng thứ hai anh đến cơ quan Mỹ nhận
giấy tờ để lên máy bay đi Mỹ
ngày thứ ba.
Song tối
thứ hai ấy anh lên cơn đau bụng cứu cấp.
Được chở vào Bệnh viện Chợ Rẫy,
anh chết vào lúc nửa khuya, chỉ một
mình chị Hoa đứng ở đầu giường.
Sau nầy bệnh viện cho hay là anh chết vì
xuất huyết nội trầm trọng. Có một
Bác sĩ, bạn Lộc ở Đà nẵng quả
quyết có nghe tiếng xì (souffle) vùng gan,
mà anh nghi là có anévrysme trong gan của Lộc,
hậu quả của cuộc bề hội đồng
trong trại tù. Xuất huyết nội của Lộc
chắc là do vỡ Anévrysme trong gan.
Chị Hoa
sau tang lễ chồng, ngậm ngùi lên máy bay
định cư ở tiểu bang Chicago. Chị vẫn ở
vậy thờ chồng và thường năm về
viếng mộ anh ở nghĩa địa gia đình
họ Võ, làng Xuyên Trà, Duy Xuyên.
Cách đây ít năm chị có khoe
tôi là đã xây cất cho Lộc một
nhà mồ khang trang. Trên mộ chí có ghi
bài thơ Đường anh làm:
"Tôi cố sống
sao đúng kiếp người
Kiếp người
bi thảm lắm ai ơi
Hỏi tra triết học
thêm nghi hoặc
Tìm kiếm
văn chương lại rối bời
Vật chất
văn minh nhiều kẻ chuộng
Tinh thần tôn
giáo ít người noi
Đâu là
chân lý đi tìm mãi
Bí mật huyền
cơ tận cuối đời."
Nếu Lộc
được cái may đến bến bờ tự
do, chắc anh sẽ có nhiều đóng góp với
văn học hải ngoại. Cũng có thể anh sẽ
sống yên lành, chỉ chia xẻ tâm tình
với vài bạn hữu. Anh là người ham học
hỏi, tìm ý nghĩa cuộc sống. Đau khổ
cho anh cảm nhận sâu sắc cuộc sống phù
du và anh trân quý những biểu tượng
đẹp. Hành động đẹp, tư tưởng
đẹp mà không cần một hệ qui chiếu
nào. Nói như Lâm ngữ Đuờng, sau một
thời theo những qui tắc luân lý Thiên
chúa giáo, đã trở về với cội
nguồn triết lý Khổng Mạnh: Tại sao
chúng ta không làm một cử chỉ đẹp
chỉ vì nó đẹp?. Anh sống hòa hợp
với mọi người và thấy khía cạnh
tốt đẹp của họ hơn là chê bai,
đả kích Anh thấy chung quanh mình bao
nhiêu người, tài hoa đa dạng, đang cố
làm đẹp cuộc đời, chứ không phải
đi tìm bất tử. Biết bao nhiêu tài
hoa trong quá khứ, chết đi mà không để
lại cho loài người dấu vết gì, mặc
dù họ sống rất đẹp. Anh cũng có
cái nhìn bao dung cho những bài thơ con
cóc, và chỉ thấy ở đó sự
chơn chất của những người bình dị.
Tuy cuộc đời anh xui tận mạng, song anh vẫn
phấn đấu làm đẹp cuộc đời.
Anh chống đối đến cùng những thế
lực làm xấu cuộc đời, như chế
độ Cộng sản, bằng những vũ khí
mình có được, là những hiểu biết
uyên bác và đôi khi với mỉa mai, chế
riễu.
Bác sĩ Phùng Văn
Hạnh
(Peter Thai sưu tầm, LiH Coco chuyển)