SU'U TÂ`M (tt)

Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | THO* | THO* (tt) | THO* 1 | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BA`I VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13

VA(N

CHỜ


CHỜ

 

Tháng Sáu, những bông hoa của tháng Năm, và mùa xuân rực rỡ trên đường phố đă tàn. Tàn như dự định của anh, dự định qua Paris, về nơi này thăm tôi. Anh đă từng nói nhiều lần về chuyện này. Dặm trường ! Nghe th́ biết vậy. Thật sự tôi không chờ đợi, mong mỏi nên cũng không buồn. Nhưng tôi cảm động khi anh nói là anh muốn làm tôi ngạc nhiên. Vé máy bay đă sẵn. Anh sẽ gọi điện thoại cho tôi, ngay khi anh đến Paris. Anh than thở, vậy mà hỏng. Hỏng hết ! C̣n  tôi, rơ là không chờ, cũng không nghe anh dự trù hay hứa hẹn một chuyến đi nào khác nữa. Sao ḷng  bỗng nao nức bồn chồn. Tưởng như tuần tới hay tuần sau nữa anh sẽ có mặt nơi này. Sau khi cúp điện thoại với anh. Tôi đi ra đi vào, lúc ngồi thừ người trên ghế. Lúc đứng ngó mông ra cửa sổ, thái độ của một kẻ vô tích sự. Tôi muốn ǵ ? Tôi, buồn vui không rơ.

 

Tôi nhớ đă từng nói với anh về ngôi nhà tôi đang ở.

 

"Nhà, ch́m khuất trong một ngơ cụt. Muốn vào nhà phải đi qua hai cánh cửa của một hành lang, qua một vuông sân mà các cửa sổ của những nhà lân cận đều nh́n ra mảnh sân gạch ấy. Không một bóng cây, chỉ toàn một màu ngói đỏ và những ống khói lố nhố chiếc thấp chiếc cao dựng trên những mái nhà. Có những đêm nh́n ra cái bóng lờ mờ của chúng tưởng tượng như đang ở trong một đền đài thuở xa xưa. Tôi nghĩ, cách kiến trúc của tám căn nhà liền lạc, giao tiếp bởi một vuông sân biết đâu ngày xưa, đây chẳng là một toà nhà lớn của một đại gia đ́nh mà theo thời gian, nó đă được chia cắt từng mảng diện tích khiêm nhường và bây giờ đến đời tôi và bảy người khác được sở hữu  một phần của nó. Nhưng tôi nào biết ai là ai, những ông hay bà hàng xóm của tôi. Gần khu đại học nên những căn hộ bé nhỏ này đă trở thành nhà trọ, phố trọ. Rặt một đám sinh viên ở xa đến thuê nhà trọ học. Nay cô này, mốt cậu nọ, nườm nượp đến rồi đi. Chưa bao giờ  tôi nhận diện rơ một khuôn mặt nào. Ai mới đến và ai đă bỏ đi ? Chỉ là những chiếc bóng đi về thấp thoáng ở hành lang. Chỉ là những ánh đèn loé lên trong đêm tối. Và tôi thấy ǵ nữa nơi này vào những chu kỳ nghỉ học, sau cái hành lang kia khi cánh cửa xám xỉn đóng lại ? Đó là một khoảng im lặng, tịch mịch. Thỉnh thoảng có những tiếng chuông ngân lên từ chiếc khánh treo trên cửa sổ để tôi biết gió về. Chiếc khánh có đến tám âm thanh. Nhưng tôi chỉ nghe được hai điệu. Giống như tiếng chuông ngân. Lúc thánh thót thả từng giọt như chuông đồng hồ. Lúc dồn dập như chuông nhà thờ sau giờ tan lễ. Nhanh và chậm, tùy theo tốc độ của gió. Không xa phố là bao. Mỗi tối, buồn t́nh có thể thả bộ chừng mười phút. Sẽ đi qua đường Pasteur, qua đường Hoà B́nh là gặp ngay  phố chính. Ngay góc Hoà B́nh cũng có một quán cà phê. Mùa hè, người ta đặt bàn ghế cho khách trên vỉa hè, dưới những tàng cây phong. Tôi chưa có dịp ngồi  ở đấy. Nhưng tôi cảm thấy thích quán này hơn những quán ngoài phố chính"

 

Khu Hoà B́nh được tôi dịch từ chữ "Rue De La Paix". Tôi thích dịch như vậy v́ nó cạnh đường Pasteur. V́ chữ Pasteur làm tôi nhớ Sài G̣n. Tả tỉ mỉ thế mà anh vẫn không h́nh dung nổi. Trong trí tưởng của anh, nơi tôi ở buồn như một ngoại ô. Nhiều năm rồi tôi chưa gặp lại anh. Nhiều năm rồi  chắc chắn tôi không c̣n là tôi ngày nào. Tôi đă nói nhiều về nơi ăn chốn ở của ḿnh với anh, và chẳng bao giờ tôi kể chút nào về tôi cả.

 

Năm mươi tuổi, chưa phải tiêm vào người kích thích tố để níu xuân th́, mà đôi khi thân thể bị bơm phồng một cách quá độ. Dáng gầy, tôi níu được tuổi trẻ của tôi từ nó. Lừa dối những con mắt nh́n hời hợt. Nhưng có khuôn mặt năm mươi nào rạng rỡ, tươi trẻ trong một sớm mai thức dậy mà chưa đắp lên mặt một lớp kem, một làn phấn. Chưa vẽ đường ch́ đen ṿng theo khoé cho mắt thêm phần linh động.

 

Buổi sáng, tôi nh́n mải miết khuôn mặt ḿnh trong gương. Đôi mắt lâu rồi dường như chỉ c̣n nh́n gần ngắm nghía, quan sát tính toán những thực hư, tốt xấu. Đôi mắt chưa có vết nhăn, nhưng phần dưới của hố mắt bọng lên như thể dưới  làn da ấy có dấu một túi nước. Bọng nước ấy là lệ chảy ngược vào hay lệ đang tích lũy để một lúc nào trào ra. Đó chỉ là ư nghĩ  đẹp, vui. Thế nào th́ nó cũng chẳng khác ǵ vết nhăn, dấu hiệu của tàn phai không cách nào tránh khỏi. Tôi đưa ngón tay chà nhẹ lên lớp da mặt, từng từng phần, từng phần. Những chiếc mụn đỏ, bé xíu như đầu tăm. Làm thế nào cho chúng biến đi. Mặt trời, nắng, cái nóng oi bức của mùa hè. Tôi dị ứng mùa hè. Mùa hè, tôi dấu tôi trong sở. Tôi  làm việc liên miên. Làm nhiều hơn b́nh thường cho đồng nghiệp thảnh thơi đi biển, đi rừng hay đi phố. Vậy mà tôi vẫn không trốn được nắng. Mùa hè, da mặt tôi lúc nào cũng tấy đỏ.

 

Tôi thoa kem chống nắng lên da, thay loại kem giữ nước vẫn dùng hàng ngày. Tự trách ḿnh từ nào lơ là, không chăm sóc cái phần quan trọng nhất trên gương mặt. Tôi vẽ mắt, thoa phấn và lại thêm một lần nữa trách ḿnh lẩn thẩn. Hôm nay không đi làm, nghĩa là không ra đường. Ai nh́n ḿnh mà phải kỹ càng che dấu.

 

Ngày nghỉ, sự nghỉ ngơi với tôi là những phút giây một ḿnh trong khoảng sân khuất, tṛ chuyện cùng đám cây cỏ thưa thớt, nhặt nhạnh từ những nơi chốn lạ, một thuở c̣n thích đi xa. Mỗi chậu cây là một kỷ niệm. Cây Quỳnh mang về từ  San Jose. Năm vừa qua, mùa đông quá lạnh và mùa hè quá nóng. Cũng có thể v́ dọn nhà. Bứng ra bứng vào nên nó mệt mỏi tàn tạ. Mỗi ngày mỗi héo, không nhú nổi một nhánh lá non. Vậy mà từ cái cành thật thấp, thiếu diệp lục tố, nâu sẫm khô cứng như một lưỡi dao kia lại trổ ra đến bốn nụ hoa. Hoa nở từ hai hôm trước và đă tàn từ hôm qua. Những cánh hồng pha tía, thứ màu rượu nhạt, dài và mỏng, xoè rộng như những ngọn pháo bông bây giờ rũ xuống khép kín, chẳng khác nào những bó rau héo dập trong buổi chợ chiều.  Tôi biết anh có nhiều đam mê. Một lần tôi hỏi anh. Anh có thích cây cỏ không ? Có phải khi người ta bắt đầu thích cây cỏ điền viên là kể như đă về già ? Anh nói, anh yêu tất cả những cái đẹp. Một cuốn sách đẹp, một cử chỉ đẹp, một h́nh ảnh đẹp, một cuộc sống đẹp, một t́nh yêu đẹp, và ngay cả một cái chết đẹp. Anh cũng yêu cây cỏ nhưng anh lướt trên chúng. Tôi nghĩ, anh có nhiều thứ để mê, để sống. Lẩn và lướt.

 

Tôi không lướt được như anh. Thời để mơ, để yêu, để muốn ôm hết cả cuộc đời không c̣n nữa. Tôi đang sống như một chị đàn bà nhà quê, lỡ thời và an phận.

 

Chị đàn bà tôi bây giờ đang ở trong sân, đang nhặt những chân cỏ dại mọc lên từ những kẽ nứt của các tàu gạch đỏ, đang cắt bỏ những cánh lá khô. Quỳnh mới rũ chết đêm qua. Hồng, Forsythia và Jonquille đă tàn từ lâu lắm. Cho đến đầu đông, Hồng có thể cho thêm vài nụ nhưng Forsythia và Jonquille th́ phải đợi mùa sau. C̣n Trúc, trúc xanh mướt thế kia mà biết đến bao giờ cao lớn để tôi được nh́n tóc lá múa may, tắm gội bóng trăng. Bóng trăng lênh láng từng vũng sáng trên sân tôi chợt gặp một đêm nào thức giấc. Đêm trăng ướt lá dừa, h́nh ảnh chưa bao giờ thấy, chỉ nghe qua một bài hát, bỗng nhớ lại ngay phút giây đó làm tôi xúc động thẫn thờ và những cây cành đă có mặt trong sân từ buổi ấy.

 

Nắng mỗi ngày đang dần thổi bay lớp nhựa từ những thân củi xếp dọc ở một góc sân. Tôi mê những thân gỗ. Đó là những đám cây gẫy trong rừng từ trận băo năm nào. Món quà mà những người bạn tốt bụng có dịp đi chơi ngang rừng, góp nhặt mang về cho tôi đốt ḷ sưởi. Đốt ḷ sưởi để sưởi ấm là chuyện phụ, chính là để vui. Tôi bận bịu khá nhiều với cái vui này. Tháng Bảy trời hay mưa. Những ngày mưa tôi phải dời chúng vào một góc hiên có mái che thay v́ phủ lên  đó một tấm bạt nylon. Tấm bạt sẽ làm mất vẻ thẩm mỹ của những phiến gỗ mà tôi cố t́nh trang trí,  sắp xếp chúng cạnh những chậu hoa. Dời chỗ này chỗ nọ cũng là một tṛ chơi của tôi. Tṛ chơi cực nhọc, vất vả.

 

Tôi ngồi xuống vuốt ve mặt cắt nham nhám đường cưa, từng sớ gỗ uốn lượn khắn khít những đường vân tṛn như vẽ. Lớp ngoài đă trắng khô nhưng bên trong  c̣n sẫm một màu nhựa ướt, thơm thơm. Tôi thích ngửi thứ mùi thơm này, mùi rừng.

 

Mùa hè chỉ mới bắt đầu. Nắng c̣n đổ dài vài tháng nữa cho củi khô thêm. Và tháng Chín, tháng Mười, khi hoa Cúc nở vàng một góc sân. Khi sương mù bắt đầu đổ xuống phố, tôi sẽ mang hết đám củi ấy xuống cất vào nhà kho. Sẽ chuyển những thước củi đă khô từ năm trước lên xếp trong ngăn chứa bên dưới ḷ sưởi, chờ đợi một ngày đông giá đốt lên. Kho chứa nằm dưới ḷng đất nên lạnh như một căn pḥng gắn máy lạnh. Nhiệt độ lư tưởng để cất những chai rượu. Tôi biết thế, nên cũng tập tành lựa chọn mua những chai rượu đúng ngày mùa, năm tháng chất vào. Có lúc xuống kho t́m một vật ǵ đó, tôi cứ đứng ngắm nghía chúng cùng đám củi khô. Những thước gỗ im, những chai rượu ngoan nằm đấy, chờ để cháy để tràn.

 

Tưởng tượng anh sẽ về mùa đông năm nay. Căn nhà tôi sẽ tràn đầy ánh sáng của những ngọn nến. Anh sẽ ngồi nơi kia, chiếc ghế cạnh ḷ sưởi ngắm những ánh lửa bùng lên. Anh sẽ im lặng lắng nghe những câu chuyện kể của tôi. Tôi sẽ nói ǵ với anh ? Chuyện củi lửa, chuyện cỏ cây .. Ngoài những chuyện vặt vănh ấy, tôi c̣n ǵ khác để kể ?

 

Tưởng tượng thêm một điều khác nữa .. Sau bữa ăn, tôi sẽ pha cho anh một tách trà nóng, từ tốn ngồi xuống bên anh, sẽ nhẹ nhàng đặt tay lên vai anh .. Rồi thế nào nữa ?

 

Tự dưng tôi cảm thấy bần thần. Tôi quay trở vào nhà đặt ḿnh nằm xuống nệm ghế ngó mông lên trần nhà. Thấy ḷng nhẹ tênh. Cảm giác thân thể đang thư giăn, đang ở trong một sự nghỉ ngơi tuyệt đối khiến tôi nh́n ra một điều là lâu rồi tôi đă không được nghỉ ngơi đúng nghĩa. Tôi tất bật làm việc. Việc này chưa xong tôi nghĩ ngay đến việc khác. Tôi không có một chút thời gian để nghĩ về ḿnh.

 

Hai bàn tay, tôi đang nh́n ngắm những ngón tay. Những ngón tay lam lũ với đất cát, củi lửa, tro than. Những ngón tay từ lâu chẳng c̣n được nâng niu ấp ủ bởi đôi bàn tay ai khác. Có lẽ chúng đă tê, bại. Không c̣n cảm xúc. Hay chính đầu óc tôi, tâm trí tôi đă sượng cứng, trơ khấc. Sự tưởng tượng đă dừng lại. Tôi cố gắng, nhưng không tưởng được thêm ǵ khác.

 

Dù thế nào tôi cũng mong anh về. Những chai rượu chờ để tràn, những cành khô chờ để cháy. Và tôi chờ t́m lại tôi. Có thể cũng chẳng c̣n ǵ để mà t́m nữa trong mớ thời gian hỗn độn chất chồng.

 

Anh về, anh đi. Một điều tôi biết chắc không cần phải tưởng tượng là tôi sẽ buồn khi thu dọn, lau chùi bụi bậm, hốt hết những tàn tro trong ḷ sưởi. Nỗi buồn của những ngày đông, rất thầm, rất thân mỗi khi tôi làm cái công việc này. Anh đi, nỗi buồn ấy sẽ dữ dội đến ngần nào ? Tôi sẽ ngồi bệt xuống đất, mở tung cánh cửa kiếng của ḷ sưởi. Nghe tiếng gió hú phía ngoài vọng xuống từ ống khói. Củi lửa chỉ để vui, không hẳn để ấm. Nên chẳng cần một lần nữa cháy lên. Và tôi sẽ không hốt bỏ những tàn tro ấy. Tôi giữ chúng lại để nhớ về một đám cháy hạnh phúc.

 

 

ĐẶNG MAI LAN

Tháng Bảy, 2005

 

(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)



CHỊ HAI, CON BÁC TÔI

(Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích)

 

Tết năm rồi, vợ tôi về Việt Nam thăm gia đ́nh. Ông nhạc tôi tuổi đă ngoài 90, nhớ con gái, con rể hối thúc chúng tôi phải về quê cho ông gặp một lần.

 

Tôi bị kẹt công việc không thể đi cùng với vợ. Nhân dịp nầy, tôi viết thư yêu cầu cháu tôi ở quê nhà thu thập một số h́nh ảnh cũ của những người trong tộc họ c̣n sống hoặc đă chết để in vào cuốn gia phả của ḍng họ tôi.

 

Ngày trở lại Hoa Kỳ, vợ tôi mang về một cuốn album đầy những h́nh ảnh cũ. Nào h́nh của gia đ́nh tôi cách nay đă trên nửa thế kỷ, thuở tôi c̣n là một cậu bé mặc quần short đứng lơ ngơ bên ghế ngồi của cha mẹ. H́nh vợ chồng Bác Cả Th́n chụp trước năm 1940. H́nh của anh tôi chụp nhân chuyến về phép trước ngày anh tử trận.

 

Đến tấm h́nh của một phụ nữ đă khiến tôi xúc động nhiều. Đó là chị Hai con bác tôi. Chị mặc chiếc áo dài theo thời trang áo "Le Mur" do họa sĩ Cát Tường vẽ kiểu vào thập niên 30. Tà áo dài rộng phủ quá đầu gối, thân áo ôm sát ṿng eo. Mái tóc chị chải phồng về phía trước, tay xách chiếc giỏ mây. Dù tấm h́nh có nhiều chỗ bị mờ nhạt, nhưng tôi vẫn nhận ra chị. Kư ức chợt hiện ra như một khúc phim trước mắt đă khiến cho ḷng tôi xót xa vô cùng.

 

Cháu chắt tôi lớn lên ở Mỹ, rồi sẽ không c̣n biết ǵ về tấm h́nh của người phụ nữ mà tôi trịnh trọng đặt lên bàn thờ cùng với cha mẹ và vợ chồng Bác ruột của tôi. Nay tôi ghi lại như một hồi ức của một thời quá văng. Một thời kỳ mà người dân Liên Khu Năm đă trải qua và đă để lại vết nám trong tâm hồn. Bài viết sau đây, là một phần tiểu sử của chị Nguyễn thị Hồng Lưu, con Bác tôi. Người đàn bà Việt Nam có tâm hồn cao thượng đă bị cộng sản xử bắn, để cho con cháu tôi trên xứ người đời đời ghi nhớ.

*

Căn nhà của ông bà Nội tôi để lại nằm ngay khúc quanh của con đường làng. Một con đường đất rộng, ba chiếc xe ḅ có thể tránh nhau một cách dễ dàng. Cái cổng với hai trụ tṛn xây bằng gạch nâng tấm bảng gỗ có viền hoa văn với 3 chữ đại tự : NGUYỄN TỰ ĐƯỜNG màu vàng nhụ. Bên trên là mái cong lợp bằng loại ngói âm dương màu xanh trông như vẩy con rồng. Bên trái đoạn đường từ cổng vào nhà là hồ sen .

 

Đến mùa hoa sen nở hương thơm tỏa ngát cả một vùng. Lối đi xung quanh bờ hồ có lan can sơn màu đỏ, nơi mà bác Cả, cha tôi và cụ Tú Mẫn thường hay dạo chơi và đàm đạo thơ văn vào những buổi chiều hè. Khu nhà xây gồm ba dẫy theo h́nh chữ U. Dẫy giữa làm nơi thờ tự. Dẫy bên trái là nơi vợ chồng bác Cả và người con gái ở. Dẫy bên phải là phần của gia đ́nh cha mẹ tôi. Tiếp giáp ba khu nhà là cái sân lót gạch bát tràng rộng thênh thang.

 

Năm tôi lên ba, chị Hai con bác Cả về nhà chồng. Chồng chị c̣n là một thư sinh, con cụ Bang Hoành ở tận phủ Tư Nghĩa. Anh Thân chồng chị Hai theo Tây học, đang học lấy bằng Thành Chung ở trường Khải Định ngoài Huế. Anh chị chỉ được gần nhau trong ba tháng nghỉ Hè.

 

Tháng Tám năm 1945, Việt Minh khởi nghĩa cướp chính quyền. Bác Cả và cha tôi bị ghép vào thành phần địa chủ, cường hào ác bá . Đội Cảnh vệ đến bao vây nhà và bắt hai người dẫn đi trong đêm. Sau một thời gian, cha tôi được tha về nhưng Người bị phẫn chí nên lâm trọng bịnh mà chết. Về số phận của bác Cả, măi đến sau này cũng chẳng t́m ra tông tích. Ông bố chồng chị Hai là cụ Bang Hoành th́ bị xử chém trong ngày khởi nghĩa.

 

Tháng 12 năm 1946,Việt Minh tuyên cáo "Toàn quốc kháng chiến". Họ phát động phong trào "Tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống". Kêu gọi toàn dân triệt hạ tất cả nhà cửa, vườn tược, bỏ thành thị tản cư đến vùng nông thôn. Quốc lộ Một hoàn toàn bị cắt đứt. Chính quyền sức dân đào đường đắp ụ, cầu cống đều bị giựt sập để chặn bước tiến của quân đội Pháp thường hay đổ bộ từ biển vào mở các trận càn quét dọc vùng duyên hải. Hai bên lề đường người ta đào các loại hầm tṛn có ngách để khách bộ hành ẩn núp, tránh các cuộc oanh tạc của phi cơ địch.

 

Trong thôn xóm, địa phương nào cũng phải thực hiện những hệ thống đường hầm liên lạc nối dài làng này với làng khác, xă này tiếp xă khác có trồng cây ngụy trang để bộ đội di chuyển trong lúc tác chiến. Trong giai đoạn này, bài hát Phá Đường được phổ biến sâu rộng trong quần chúng, kêu gọi mọi người thi đua tham gia phong trào phá đường :

 

".. Nhà em con bế con bồng.
Em cũng theo chồng đi phá đường quan.
Con ơi con ngủ cho ngoan.
Sang canh trăng lặn buổi tan mẹ về ..

 

.. H́ hà h́ hục, lục cục lào cào.
Anh cuốc em đào, đá lở đất nhào .."

 

Anh Thân chồng chị Hai bị kẹt ngoài Huế kể từ ngày tháng đó. Chị trông ngóng tin tức mỏi ṃn. Một năm, hai năm rồi bảy năm chị chờ đợi. Vào đầu năm 1952, chị từ quê chồng về thăm gia đ́nh . Đêm ấy chị th́ thầm với bác Cả và mẹ tôi: - Ba ngày nữa con sẽ đi Huế t́m chồng con.

Mẹ tôi hỏi :

- T́nh h́nh ngăn sông, cấm chợ và lạ cảnh lạ người làm sao con đi ?

- Quyết tâm là đi được. Con sẽ theo chân những người đi buôn, rồi ḍ đường ra Huế. Chị Hai vừa nói vừa nắm chặt tay bác tôi và mẹ tôi như để cho hai người thân được yên ḷng.

- Nhưng con ơi, Bác tôi tiếp - Thân gái dặm trường, từ đây ra Huế xa hàng mấy trăm cây số làm sao con chịu đựng nổi. Thôi th́ ở nhà chờ đợi vài năm nữa rồi hẵng hay. Bác tôi vừa khuyên nhủ vừa vuốt mái tóc cháy nắng của con gái. Những năm tháng lam lũ ngoài đồng thân thể chị Hai trông cằn cỗi, già đi trước tuổi. Từ ngày Việt Minh nắm chính quyền, vùng nông thôn vừa bị thuế nông nghiệp cao lại thêm phong trào giảm tô giảm tức, khiến các điền chủ nhiều ruộng đất kham không nổi đành phải hiến bớt cho chính phủ. Đến khi phong trào "Phóng tay Phát động Quần chúng" "Chính sách Cải Cách Ruộng Đất" ra đời th́ thật là thê thảm.

 

Những gia đ́nh thuộc thành phần "Trí Phú Địa Hào" bị "đào tận gốc, trốc tận rễ" hoàn toàn mất sạch tài sản. Nghe chị Hai đề cập đến những người đi buôn, tôi sực nhớ đến mấy câu thơ truyền miệng trong vùng Liên khu Năm: "Đầu phồng đá lửa. Ruột chửa ka ki. Chửa tại Tam Kỳ. Vô Bồng Sơn đẻ". (Vùng Liên khu Năm gồm 4 tỉnh, Quảng Nam, Quảng Ngăi, B́nh Định, Phú Yên thuộc Việt Minh chiếm giữ được gọi là vùng Tự do. Đời sống của dân chúng cơ cực. Thực phẩm thiếu thốn, hàng tiêu dùng khan hiếm. Các loại vải ngoại hóa như kaki, ba-tít, đầm đen, phin, các loại pin và đá lửa .. đều thuộc hàng quư hiếm. Giai đoạn này, phụ nữ có phong trào kẹp phồng mái tóc lên cao. Con buôn lợi dụng đầu phồng dấu đá lửa vào trong tóc. Các loại vải ngoại th́ bó phía trước bụng giả làm đàn bà chửa để qua mặt công an Việt Minh). Họ đi trót lọt th́ kiếm lời gấp sáu bảy lần tiền vốn.

 

Nếu rủi ro bị công an Việt Minh bắt được, hàng hóa bị tịch thu, c̣n bị phạt tù và ghi vào sổ đen " thành phần bất hảo" để địa phương theo dơi. Hai ngày sau, Bác tôi moi dưới chân giường lấy ra mộtchiếc hộp thiếc đưa cho chị tôi. Trên mặt hộp, có mấy tờ giấy bạc Tín phiếu (tiền của Việt Minh phát hành tiêu dùng trong vùng) c̣n lại là toàn bạc Đông Dương h́nh người gánh dưa. Bác tôi, nước mắt lưng tṛng nắm tay chị Hai dặn ḍ:

- Con cố giữ ḿnh. Mẹ khấn nguyện Phật Trời pḥ hộ cho con ra đi được suông sẻ. Khi gặp được chồng con rồi, có điều kiện thuận lợi th́ tin cho gia đ́nh mừng.

 

Chị Hai ôm bác Cả và mẹ tôi khóc nức nở. Chúng tôi đứa nào cũng sụt sùi trước cảnh chia tay. Chị đến ôm hôn từng đứa em một. Giọt nước mắt của chị rơi trên má tôi khiến cho tim tôi nhói đau tưởng chừng chị ra đi không c̣n trở lại.

 

Ngày đám cưới của chị, lúc từ biệt về nhà chồng, chị cũng nước mắt giọt vắn giọt dài khóc sướt mướt nhưng ḷng tôi lại vui mừng hớn hở. Chúng tôi được nghe pháo nổ rộn ràng, được ngắm xem họ hàng ăn mặc áo quần rực rỡ. Anh rể tôi, mặc bộ vét-tông vải tít-xuy màu trắng, mang đôi giày da màu trắng và chiếc nón cối cũng màu trắng theo thời trang Âu phục bấy giờ. Chị Hai mặc áo cặp lụa hồng, quần lănh trắng, guốc cao gót, tay cầm dù hồng được anh rể tôi đưa lên chiếc xe hơi màu đen lánh có dải lụa đỏ thắt nơ treo trước đầu xe.

Ngày nay, chị Hai từ biệt gia đ́nh đi t́m chồng trên đất lạ quê người với tấm thân gầy g̣, tàn tạ. Bộ áo quần vải ta đen nội địa dăi dầu mưa nắng đă trở màu bạc phếch. Hai h́nh ảnh trái ngược đó như khắc sâu trong kư ức của tôi không bao giờ phai nhạt.

 

Chị Hai ra đi vào lúc trời vừa hừng sáng. Anh em tôi tiễn chân chị đến ngă ba huyện lộ mới quay về. Từ ngày đó gia đ́nh tôi không được tin tức ǵ về chị.

 

Măi đến hai tháng sau, vào một buổi chiều mùa Đông. Một người mặc áo tơi, đội nón lá đi vào nhà tôi dưới cơn mưa tầm tă. Người thanh niên trẻ tuổi nhưng gương mặt rắn rỏi, phong sương đi thẳng vào nhà để nguyên áo tơi ướt dầm dề, đưa cho Bác tôi một gói giấy rồi quày quả ra đi, không nói một lời nào. Bác tôi cầm gói giấy mà cả người run lên. Anh em chúng tôi cũng vô cùng hồi hộïp. Chẳng biết bên trong gói giấy ấy có những ǵ. Tin vui hay tin buồn, niềm hạnh phúc hay nỗi đau thương tang tóc.

 

Dù trong cơn nôn nóng, cả nhà cũng đành chờ đến tối mới dám mở ra. Ngừa cảnh "tai vách mạch rừng", mẹ tôi vội mang gói giấy bỏ vào ống tre nơi chuồng heo để che mắt những cặp mắt cú vọ đang làm công tác theo dơi "kẻ thù của giai cấp công nông".

 

Trời mới chập choạng tối, chúng tôi đă vội vă lên đèn. Dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu leo lét, bác Cả khui gói giấy vừa nhận lúc xế chiều. Dù người khách lạ không nói ǵ nhưng chúng tôi đoán biết đó là tin tức của chị Hai gởi về. Bác tôi vừa mừng vừa lo, khiến đôi tay bà run lẩy bẩy. Khó khăn lắm bác mới mở được những nuột dây cột ṿng quanh gói giấy. Đây, đúng là quà của chị Hai gởi về gồm một lá thư và xấp tiền tín phiếu. Thư chị viết :

 

"Kính thưa Mẹ và thím Ba,

Từ lúc con ra đi đến nay đă trên một tháng. Con theo mấy người đi buôn lậu vừa trốn tránh công an Việt Minh vừa phải đi bộ suốt mấy ngày mới tới khu giáp ranh. Từ quê ḿnh đi bộ đến An Tân khoảng năm mươi cây số, đợi đêm xuống lên chuyến đ̣ dọc. Từ đây đi suốt đêm mới ra đến chợ Được, Quảng Nam. Từ chợ Được đi bộ men theo những con đường làng đầy đụn cát mất trên nửa ngày th́ đến Tiên Đỗ. Tại đây, bên bờ Nam sông Faifoo (Hội An) ban đêm Việt Minh kiểm soát ngăn chặn "Bọn Dinh Tề " *(Danh từ Việt Minh gọi những người trốn sang vùng Quốc Gia). Bờ Bắc trở ra do lực lượng của Pháp và Nghĩa Dũng Đoàn của chính phủ Bảo Đại đóng đồn trấn giữ. Trong lúc chờ đợi để lấy thêm tin tức về đường đi nước bước, con tận dụng số tiền mẹ cho mua hết hàng hóa rồi theo đoàn người trở vào An Tân bán lại cho con buôn đi tuyến đường trong Bồng Sơn thuộc tỉnh B́nh Định. May mắn là những chuyến hàng của con đi trót lọt nên kiếm được một số tiền khấm khá. Nay con gởi lại số tiền mẹ đă cho con để pḥng khi đau yếu. Đồng thời con biếu các em một ít để mua giấy bút đến trường. T́nh h́nh ranh giới hiện nay rất căng thẳng, công an Việt Minh kiểm soát gắt gao lắm. Lư do là những ngày vừa qua có một số người từ Quảng Ngăi trốn qua vùng Tề tại địa điển nầy, như thầy Nguyễn Ngọc Ngư (1), Ông Phạm Văn Diêu (2), ông Hồng Tiêu (3). Riêng bác sĩ Huỳnh Tấn Đối (4) người huyện B́nh Sơn đă bỏ trốn trước đó. Con biên thư nầy cho mẹ và thím Ba trước khi con thực hiện chuyến đi. Hy vọng ơn trên độ tŕ cho con thoát được. Cuối thư, con cầu chúc Mẹ và Thím cùng mấy em luôn được khỏe mạnh. Mong một ngày nào đó chúng ta sẽ đoàn tụ.

Con gái của mẹ ".

 

Nghe chúng tôi đọc xong thư, bác Cả và mẹ tôi nước mắt chảy ṛng. Đêm đó và những đêm kế tiếp, bác tôi không ngủ được cứ trằn trọc măi, hết than vắn thở dài lại ngồi dậy nhai trầu. Bác thắp hương lên bàn thờ rồi bó gối ngồi trên giường lâm râm khấn nguyện.

*

*


Suốt tuần lễ qua, một người đàn bà điên quần áo xốc xếch không biết từ đâu tới, miệng cứ nói lầm bầm không ra lời, đi nghều nghễu qua lại trên quăng đường từ làng Tiên Đơa đến chợ trời Kiến Tân nằm về tả ngạn con sông Hội An. Đêm nay dưới cơn mưa rả rích của những ngày vào Đông, người đàn bà điên lại ra đi trong bóng tối mịt mùng. Cơn mưa dần dần nặng hạt từ lúc xế chiều kéo dài đến khuya và cũng có thể đến ngày mai. Nước đă ngập trắng xóa cánh đồng dọc theo con sông trước mặt. Người đàn bà điên đi trong đêm tối không mấy người để ư đă vượt qua đoạn đường của lực lượng canh pḥng Việt Minh. Bỗng, một loạt súng nổ vang, bà ta phóng người xuống ḍng sông. Đêm đen cùng với ḍng nước đục ngầu đang chảy xiết đă cuốn người đàn bà điên mất dạng trong thoáng chốc.

 

Ba ngày sau, người đàn bà điên xuất hiện trong đoàn người đi nhận cơm của trại Quy-Thuận-Hội-An. Bà ta hoàn toàn tươi tỉnh với bộ áo quần rộng thùng th́nh của trại cấp phát. Trong danh sách tiếp nhận những thường dân bỏ vùng Việt Minh trốn sang vùng Quốc Gia, người đàn bà giả điên ấy khai tên Nguyễn Thị Hồng Lưu, sinh quán tại Quảng Ngăi. Đó là chị Hai con của Bác tôi, Trời Phật ạ. Gia đ́nh tôi biết được tin này nhờ người đi buôn ở chợ trời Kiến Tân bên này sông Hội An thông báo. Cả nhà như trút được gánh nặng suốt hai tháng liền. Bác tôi th́ luôn miệng cảm ơn Trời Phật. Chị Lưu khai với Ủy ban Tiếp nhận chồng chị hiện ở thành phố Huế. Anh ấy bị kẹt bảy năm không về nhà được. Nay chị xin chính phủ cho phép ra Huế thăm chồng.

 

Gần nửa tháng trôi qua, chị Nguyễn Thị Hồng Lưu lơ ngơ, láo ngáo trên thành phố Huế như mang lạc xuống đồng. Ban đêm vào chùa xin nghỉ, ban ngày chị đi khắp hang cùng ngơ hẻm hỏi thăm tên Vơ Hoàng Thân học sinh trường Khải Định nhưng chẳng một ai biết cái tên học tṛ xa lạ cách nay đă sáu, bảy năm, không gốc gác, không địa chỉ. Quả thật chị Lưu như đang làm công việc ṃ kim đáy biển. Chị tỉnh táo lắm nhưng người ta nh́n chị như nh́n kẻ thất chí. Cuối cùng tiền hết, sức khỏe ṃn mỏi , chị Lưu đành phải đi xin việc làm để nuôi sống bản thân và tiếp tục t́m chồng.

 

Một sự may mắn đến với chị là được một gia đ́nh ở gần cửa Đông Ba nhận vào làm việc nhà và trông coi hai đứa bé. Chủ nhà là một thiếu phụ c̣n khá trẻ sinh trưởng tại Huế nên bà luôn giữ nếp sống và cung cách của người phụ nữ chốn kinh thành. Vẻ mặt dịu dàng thuần hậu, một nét đẹp đài các nhưng b́nh dị, lại nói năng từ tốn, điềm đạm khiến cho mọi người người mến phục. Chồng bà là một sĩ quan thuộc lực lượng Việt- Binh- Đoàn của chính phủ Bảo Đại. Hai đứa bé có khuôn mặt bầu bĩnh, hồng hào trông rất khôi ngô. Đứa trai 3 tuổi, đứa gái lên 2. Ngay từ giờ phút đầu, chị Lưu đă cảm thấy quyến luyến với cái gia đ́nh này và đặc biệt là hai đứa nhỏ. Chị âm thầm làm việc, giữ kín tông tích của ḿnh.

 

Lợi dụng những ngày lễ lạc, chị xin phép chủ nhà đến các nơi hội hè trà trộn vào đám đông may ra t́m được manh mối về anh Thân, chồng chị. Đă mấy tháng ở việc mà chị Lưu không hề thấy người chồng nhà binh của bà chủ về nhà một lần nào. H́nh như đây là thói quen của họ nên bà chủ không có chút ǵ vướng bận, lo âu cho chồng. Chị Lưu ṭ ṃ hỏi :

- Ông nhà đi đâu mà lâu lắm chưa thấy về thăm vợ con ? Bà chủ cười bảo :

- Nhà binh mà chị. Anh ấy đi công tác, nhiều khi một vài tháng, có lúc tới nửa năm mới về nhà thăm vợ con là thường.

 

Một buổi sáng, bà chủ đi chợ, chị Lưu tắm cho hai đứa nhỏ. Chị đang mặc áo quần cho bé trai, bất ngờ bé gái chạy lững thững mang cả ḿnh nước vào pḥng ngủ của bố mẹ nó. Chị Lưu vội chạy theo vào buồng. Th́nh ĺnh, chị nh́n thấy một bức ảnh lồng trong khung đặt trên đầu tủ đối diện với cửa ra vào. Một chàng Sinh viên Sĩ quan mặc bộ lễ phục ôm vai bà chủ nhà.

- "Một cặp vợ chồng đẹp như tranh vẽ, thật xứng đôi vừa lứa". Chị Lưu tấm tắc khen và nghĩ thầm trong bụng: "Ông Tơ bà Nguyệt khéo xe". Tấm ảnh như thu hút cả tâm hồn và t́nh cảm của chị.

 

Người chồng trong bộ quân phục uy nghi cùng với nét mặt cương nghị kề bên là khuôn mặt trái soan hiền ḥa của người vợ với ánh mắt sáng rực t́nh yêu. Chị ngắm ảnh say sưa quên cả hai đứa nhỏ bên ngoài. Bất chợt, chị phát giác ở khuôn mặt người đàn ông trong ảnh có nét ǵ rất quen thân. Chị đến sát bức h́nh xem kỹ hơn. Và để nh́n được rơ ràng hơn nữa, chị mở tung cánh cửa sổ cho ánh sáng ùa vào pḥng.

 

Bỗng dưng tim chị nhói đau, đôi mắt mờ dần rồi đôi chân khuỵ xuống. Chị gục đầu trên chiếc giường nệm trước mặt. Không khóc, nhưng ḷng chị đớn đau, tê dại. Chị kêu lên : "Sao con tạo lại trớ trêu thế này, hở trời!"

 

Lồng ngực chị như muốn vỡ toang, những cơn đau dồn dập như bóp nát quả tim chị, như hàng trăm mũi dao thi nhau rạch nát ruột gan. Chị ngất lịm.

 

Chị Lưu đă nhận ra chồng chị trong ảnh, anh Vơ Hoàng Thân ! Người chồng đă xa cách bảy năm. Người mà chị có thể hy sinh mang sốùng của ḿnh để t́m đến. Người đă khiến cho chị mất bao nước mắt nhớ thương đêm ngày. Người mà chị đă dành cả tuổi đời thanh xuân dâng hiến và đợi chờ.

 

Vơ Hoàng Thân, ngày từ biệt vợ lần cuối cùng ra Huế tiếp tục việc học c̣n mang dáng nét thư sinh. Giờ đây khuôn mặt rắn rỏi, đĩnh đạc hơn nhưng làm sao chị quên được chấm nốt ruồi bên dưới đôi môi đầy đặn đó. Làm sao chị quên được chiếc mũi cao và to thể hiện tính kiên cường của đấng nam tử.

 

Bà chủ đi chợ về thấy người làm bị bất tỉnh liền gọi bác sĩ đến cấp cứu kịp thời. Ngày hôm đó chị Lưu cáo bệnh và xin bà chủ được nghỉ vài ngày. Chị nằm trong pḥng không đoái hoài đến ăn uống. Chị để mặc cho nước mắt trào ra, để mặc cho nỗi đau đớn từng đợt đến cào xé trái tim chị. Trái tim của người đàn bà nhân hậu nhưng không tránh được nỗi ghen tức điên cuồng. Mặc dầu bà chủ nhà rất quan tâm đến chị nhưng chị từ chối tất cả những ân cần mà bà dành cho.

 

Ngày hôm sau, với đôi mắt sưng húp v́ khóc, chị Lưu xin nghỉ việc. Bà chủ nhà nh́n đôi mắt chị, ngạc nhiên hỏi :

- Có chuyện ǵ đă xảy ra cho chị vậy?

- Tôi vừa nhận được tin chồng của tôi chết rồi. Bà chủ nhà đến nắm tay chị , với tâm trạng của người bạn, bà chia sẻ nỗi đau mất mát của người vợ. Bà tỏ ư tiếc rẻ một người giúp việc lúc nào cũng làm tṛn bổn phận như chị và một mực thương yêu con trẻ , bà tiếp:

- Rất tiếc là anh Thân chồng tôi không có nhà để giúp đỡ được phần nào cho chị.

 

Nghe nhắc đến tên Thân , chị Lưu ̣a lên khóc rồi ôm mặt chạy vào pḥng tức tưởi.

 

Sáng ngày hôm sau chị Lưu lên đường về lại quê nhà.

*

Ngày xưa, cái sân lót gạch bát tràng trước nhà, gia đ́nh tôi làm nơi đập lúa, phơi bắp, đậu và phơi đường mía chà thành bột vô bao chở đi Hà Nội bán. Nay nhờ cái sân rộng thênh thang ấy mà bác Cả và mẹ tôi biến thành khoảnh vườn tự túc trồng các loại rau quả dư ăn c̣n mang ra chợ bán. Cái hồ sen nay trở thành hồ nuôi cá, nhờ đó mà gia đ́nh tôi không lâm vào cảnh thiếu thốn. Thi hành quốc sách của nhà nước "Tiêu thổ kháng chiến, vườn không nhà trống" căn nhà thờ ba gian cũng được tháo gỡ xuống chỉ c̣n trơ lại nền nhà để rồi chúng tôi cũng tận dụng cuốc lên trồng bắp.

 

Tuổi thơ mất hết niềm vui của ngày Tết. Những món ăn chơi như rượu, bánh, kẹo mứt thuộc hàng xa xỉ phẩm. Tất cả đều bị cấm sản xuất để dành gạo nuôi quân. Những ngày Tết của thời kỳ "Gạo châu củi quế" người dân Liên khu Năm chỉ c̣n mong ước được hưởng ba bữa cơm không độn.

 

Chiều nay, anh em tôi phụ giúp mẹ và bác Cả gánh nước tưới vườn rau vừa mới bón phân. Th́nh ĺnh chị Hai xuất hiện ngoài ngơ. Chị ôm gói quần áo ủ rũ vào nhà. Bác tôi buông chiếc b́nh ṿi sen chạy đến ôm chị Hai vào ḷng. Vốn có thể chất khỏe mạnh, tinh thần cứng cỏi, thế mà nay chị lại mềm nhũn, rũ xuống trong ṿng tay mẹ chị . Chúng tôi đến giúp bác Cả đưa chị vào nhà. Đoán biết là việc t́m chồng của chị bị thất bại nên chẳng ai dám hỏi han điều ǵ.

 

Chị tịnh dưỡng được vài ngày rồi kể lại những ngày tháng mà chị đă trải qua nơi kinh đô Huế. Đến ngày thứ ba, công an địa phương đến nhà áp giải chị đến cơ quan huyện làm việc. Chị khai rơ ràng là chị đă ra Huế t́m chồng, nhưng khi biết được chồng đă chết th́ chị quay về sống với gia đ́nh. Giới chức an ninh của Việt Minh nghi chị làm gián điệp cho Pháp, v́ vậy họ chuyển chị đến nhà giam tỉnh. Từ ngày biết chắc anh Thân đă có vợ và hai đứa con ở Huế, chị Hai xem như chồng chị đă chết. Chị không muốn cảnh hạnh phúc của gia đ́nh đó bị xáo trộn, bởi vợ con anh hoàn toàn vô tội. Ngay cả anh Thân, chị cũng không hề có một lời trách móc. Chị cho đó là hoàn cảnh tạo nên, là định mệnh an bài.

 

Qua mấy tháng bị điều tra, khai thác liên tục, tinh thần chị Hai hoàn toàn bị suy sụp. Những lần chúng tôi vào nhà giam thăm, chị cứ nói lầm bầm trong miệng. Nhiều lúc chị ngồi một ḿnh hướng tầm mắt vô hồn về nơi cơi xa. T́nh trạng nầy khiến cho những người làm công tác điều tra đặt thêm nghi vấn: "Giả điên là nghề của gián điệp địch để qua mắt cán bộ an ninh của ta". Từ nghi vấn đó đă trở thành kết luận trong hồ sơ phúc tŕnh lên thượng cấp : "Nguyễn Thị Hồng Lưu là điệp viên của địch".

 

Ṭa án Nhân dân Liên khu Năm mở phiên xử đặc biệt dành cho một "nữ gián điệp của Pháp" đă xâm nhập từ vùng Tề vào vùng Tự Do. Bản án kết luận như sau : "Nhờ mạng lưới t́nh báo nhân dân của ta chặt chẽ nên đă bắt được tên nữ điệp viên nguy hiểm của địch tại địa đầu ranh giới. Nay, Hội đồng xét xử tuyên án tử h́nh tên phản quốc Nguyễn thị Hồng Lưu đă manh tâm làm gián điệp cho giặc". Mười lăm ngày sau, chị Lưu bị xử bắn tại Rừng Cầy. Hôm ấy, bác tôi nằm liệt giường, chỉ có hai anh em tôi đến chứng kiến. Người ta quấn dây chung quanh thân thể chỉ c̣n da bọc xương của chị vào trụ gỗ . Phía sau lưng là ụ đất cao để ngăn đạn. Ánh mắt vô hồn của chị nh́n về nơi cơi xa. Một vị linh mục già đến làm phép giải tội và ban phép lành cho chị.

 

Người ta bịt mắt chị mà chẳng khác nào bịt cặp mắt người đă chết rồi. Khi viên chỉ huy ra hiệu bằng thủ lệnh, bốn xạ thủ đồng loạt nă đạn vào người chị. Chị Hai khụy xuống kéo theo cả phần dây cột. Một khắc sau, máu từ ngực chị thấm đỏ cả thân trước vạt áo màu lam. Viên thủ trưởng của toán hành quyết đến bắn vào nơi thái dương của chị một phát súng lục khiến toàn thân chị giật mạnh rồi đầu chị gục xuống làm rớt chiếc khăn bịt mắt.

 

Ngay lúc đó, anh em tôi cùng kêu lên "chị Hai ơi," rồi chạy vụt đến ôm xác chị gào khóc. Người ta đẩy chúng tôi ra, rồi bỏ xác chị trong quan tài bằng gỗ đă để sẵn tại địa điểm xử bắn do địa phương cung cấp từ trước. Bác Cả tôi làm đơn xin được mang xác chị về chôn tại nghĩa địa của gia đ́nh.

 

Hiệp định Geneve 1954, chia đôi đất nước.

Tất cả các lực lượng Việt Minh tập kết ra Bắc. Chính phủ Quốc Gia tiếp thu vùng Liên khu Năm. Khi t́nh h́nh đă ổn định, Anh Thân nghe tin vợ trước đă mất, vội vă đưa vợ sau từ Huế về Quảng Ngăi đến nhà Bác tôi để tạ lỗi. Vợ chồng anh chị ấy đến trước bàn thờ chị Hai thắp hương khấn lễ. Bỗng, chị vợ anh Thân thất thanh kêu lên : "Chị Lưu!"

 

Gương mặt thất thần tái mét, hai tay run rẩy như người lên đồng, chị chỉ vào khung ảnh người quá cố trên bàn thờ rồi quỵ xuống. Anh Thân vội vàng đỡ vợ đứng lên mà chẳng biết việc ǵ đă xảy ra. Bà chủ nhà gần cửa Đông Ba ở Huế đă nhận ra người giúp việc cho ḿnh ba năm về trước lại là vợ trước của chồng. Chị quỳ bên bàn thờ khấn vái :

"Chị Lưu ơi, giờ đây em mới vỡ lẽ chị đă liều chết đi t́m chồng. Khi phát giác chồng ḿnh đă yên bề gia thất, chị lại âm thầm quay về mà không hề có một lời trách móc kẻ đă giật hạnh phúc của ḿnh. Ngày ấy chị đă khóc đến sưng húp cả đôi mắt, bỏ luôn ăn uống. Thế mà chị nói dối với em rằng: "Nghe tin chồng chết nên chị phải trở về quê." Ôi, tâm hồn chị cao thượng quá, tấm ḷng chị bao dung quá. Chúng em xin chịu tội trước linh hồn chi.."

 

Chị Thân quỳ mọp trước bàn thờ một hồi lâu đến khi Mẹ tôi đỡ dậy th́ khuôn mặt chị đă đầm đ́a nước mắt. Chị ôm Bác tôi nói trong nghẹn ngào : - " Mẹ ơi, xin mẹ tha lỗi cho con. Từ nay con sẽ thay chị Lưu như là con đẻ của mẹ. Vợ chồng con sẽ lo phần phụng dưỡng mẹ già."

 

Sau đó, vợ chồng anh Thân xin phép Bác tôi được để tang, xây mộ và hàng năm về lo ngày giỗ của chị. Riêng phần đề nghị đưa bác Cả về Huế sống với anh chị và các cháu th́ Bác tôi từ chối bởi Bác c̣n phải lo mồ mả của ông bà.

 

HẠO NHIÊN NGUYỄN TẤN ÍCH

(Thi Đàn Việt Nam chuyển)

 

 

(1) Nguyễn Hữu Ngư sau vào Sài G̣n, bút hiệu Nguyễn Ngư
(2) Phạm Văn Diêu tác giả "Việt Nam Văn Học Giảng B́nh"
(3) Hồng Tiêu em ruột ông Bút Trà (báo Sài G̣n Mới)
(4)    Huỳnh Tấn Đối, Bác sĩ Quân y trưởng viện Quân y Liên khu Năm

 

website counter