From: Thuy Pham
KHÔNG ĐƯỢC
NHẬP CẢNH VÀO VIỆT NAM !
(Nguyễn Hưng Quốc)
"Anh đi với em sang bên kia
có chút việc."
Viên công an cửa khẩu mang
bảng tên Nguyễn Anh Tuấn vừa nói vừa
đứng dậy, trên tay cầm tờ hộ chiếu
của tôi, đi về phía văn pḥng chỉ huy của
trạm công an xuất nhập cảnh ở phi
trường Tân Sơn Nhất, Sài G̣n. Trước khi
đi theo Tuấn, tôi dặn các sinh viên trong phái đoàn du khảo
(study tour) do tôi hướng dẫn: "Các em cứ
tiếp tục tŕnh hộ chiếu và đợi tôi ở
phía bên kia. Tôi sẽ về ngay."
Lúc ấy là 4:15 phút chiều
Thứ Bảy, 19 tháng 11. Phái đoàn gồm có tôi và 11 sinh
viên Úc từ trường đại học Victoria, Melbourne
về Việt Nam tham quan và học tập. Đúng ra, phái
đoàn có đến 14 sinh viên, nhưng một người
trong họ đă đến Việt Nam mấy ngày
trước đó và hai người khác sẽ bay thẳng
từ Bangkok đến Hà Nội. Điểm hẹn
của chúng tôi là ở phi trường Nội Bài vào
khoảng 8 giờ tối, khởi đầu cho cuộc du
khảo kéo dài 4 tuần, trong đó, 18 ngày đầu ở
Hà Nội và 10 ngày cuối cùng du hành từ Hà Nội vào Sài G̣n
bằng xe lửa và xe buưt, với các điểm ghé chính là
Huế, Đà Nẵng - Hội An và Nha Trang.
Xin lưu ư: du khảo là h́nh
thức giáo dục được áp dụng rộng răi
ở hầu hết các đại học Âu Mỹ. Các nhà
giáo dục khuyên, khuyến khích và tạo điều
kiện để sinh viên có thể tham gia các chuyến du
khảo ở nước ngoài ít nhất là một lần
trong suốt chương tŕnh Cử nhân của họ.
Đi đến bất cứ nước nào cũng được.
Miễn là có đi. Đi để trực tiếp kinh
nghiệm tính chất đa dạng và khác biệt giữa
các nền văn hoá. Đi để cảm nhận, từ
đó, thông cảm và khoan dung trước những cái
mới và những cái lạ. Đi để phát triển
khả năng giao tiếp liên văn hóa với những
người đến từ những xă hội khác
với ḿnh.
Riêng trường Victoria University,
nơi tôi giảng dạy, đă từng tổ chức các
chuyến du khảo tại Việt Nam trong nhiều năm.
Phải thành thật thừa nhận Việt Nam chưa
phải là một địa chỉ hấp dẫn
để tham quan cũng như để nghiên cứu đối
với sinh viên Úc. Có năm chuyến du khảo chỉ
tập hợp được khoảng 7,8 sinh viên. Con
số quá ít, nhưng đại học vẫn sẵn sàng
tài trợ để chuyến đi được tổ
chức thật chu đáo: họ coi trọng mục
đích giáo dục lâu dài hơn là các lợi nhuận về
kinh tế trước mắt. Tuy nhiên, kể từ khi tôi
chính thức tiếp nhận vai tṛ chủ nhiệm Khoa
Việt học, do quá bận bịu với nhiều
đề tài nghiên cứu cũng như việc cải
tổ chương tŕnh giảng dạy, đến năm
nay tôi mới đứng ra tổ chức được
chuyến du khảo đầu tiên sang Việt Nam. Có 14 người
tham dự. Không phải nhiều lắm nhưng mọi
người trong Khoa đều cho đó là một sự
thành công lớn: những tin tức về dịch cúm gia
cầm càng ngày càng làm cho nhiều người lo lắng nên
ngay cả chuyến du khảo sang Trung Quốc do
trường Victoria University tổ chức vốn
thường thu hút khá nhiều thành viên, năm nay, chỉ
có 11 người. Lên máy bay, tôi cảm nhận ngay áp lực
của dịch cúm gia cầm: vào giữa tháng 11 mà
lượng hành khách trên chuyến bay VN780 vào sáng Thứ
Bảy ngày 19 tháng 11 khá vắng. Có rất nhiều ghế
trống. Dăy ghế của tôi chỉ có một ḿnh tôi. Khi mệt
hoặc mỏi, tôi có thể nằm dài trên đó. Tuy
vậy, các sinh viên tham gia chuyến du khảo sang Việt
Nam th́ rất vui, nhất là các sinh viên trẻ. Họ túm
lại với nhau chuyện tṛ và hát ḥ inh ỏi suốt
cả tám tiếng đồng hồ bay. Có người
kể là suốt cả buổi tối trước đó
họ không hề chợp mắt. Có người lại
kể là, để chuẩn bị cho chuyến đi, trong
nhiều tuần lễ, họ thường xuyên
đến các tiệm ăn Việt Nam ở Footscray
để tập .. cầm đũa! Với không ít
người, đây là chuyến xuất ngoại đầu
tiên trong đời. Náo nức và háo hức kể cũng
phải.
Mà chắc không phải chỉ có
các sinh viên của tôi. Trên máy bay, tôi đọc
được một bài viết ngắn đăng trên
nhật báo Thanh Niên về kết quả đáng mừng
của ngành du lịch Việt Nam: mỗi năm số
người đến Việt Nam một tăng. Vài
năm gần đây, trung b́nh mỗi năm tăng
đến hơn nửa triệu người: năm 2003
có hơn 2 triệu lượt du khách; năm 2004 gần 3
triệu; năm 2005 này, chỉ mới 10 tháng đầu,
đă hơn 3 triệu. Số lượt du khách
đến Việt Nam cho cả năm 2005 được
dự đoán là khoảng trên 3 triệu 4. Trong số
gần 3 triệu rưỡi này, chắc chắn là có khá
đông người Việt ở nước ngoài. Nhớ,
cách đó mấy ngày, tôi đọc được đâu
đó, cũng trên báo chí trong nước, người ta
dự đoán sẽ có khoảng trên 100,000 Việt kiều
về quê ăn Tết. Người ta cũng dự
định tổ chức các cuộc đón rước
long trọng dành cho Việt kiều, chẳng hạn, treo
băng rôn chào đón Việt kiều ở các sân bay
quốc tế ở Sài G̣n và Hà Nội; đưa
người giúp các cụ già không rành rẽ các thủ
tục khai báo hải quan; tổ chức các buổi
tiệc tất niên hay tân niên với sự tham dự các
nhiều cán bộ lănh đạo quốc gia hoặc
địa phương, v.v...
Tôi chẳng bao giờ "mơ
tưởng" đến những cảnh chào đón
như vậy. Nhưng tôi hy vọng khi chính sách đối
với cộng đồng người Việt ở
nước ngoài thay đổi, những rắc rối
không đáng có mà tôi và rất đông Việt kiều khác
gặp phải ở Việt Nam sẽ giảm bớt
đi. Để các chuyến về thăm quê vui hơn;
những kỷ niệm cũ mau phai nhạt hơn và
những ấn tượng mới c̣n lại sẽ
ngọt ngào hơn.
Máy bay đáp xuống phi
trường Tân Sơn Nhất vào lúc 4 giờ kém 5 phút
chiều. Trong lúc sắp hàng chờ tŕnh hộ chiếu
để chuyển máy bay đi Hà Nội, một sinh viên
cho biết em rất hồi hộp khi lần đầu
tiên đặt chân đến Việt Nam. Em hỏi cảm
giác của tôi. Tôi đáp: "Cũng hồi hộp." Em
nh́n tôi có vẻ ngạc nhiên. Tôi giải thích: mặc dù tôi
đă về Việt Nam khá nhiều lần nhưng lần
nào tôi cũng có chút hồi hộp. Hồi hộp v́ sắp
được gặp lại thân nhân và bạn bè cả
cũ lẫn mới. Hồi hộp v́, thú thực, tôi không
hoàn toàn an tâm về cách thức nhà cầm quyền Việt
Nam đối xử với tôi hay với giới viết
văn ở hải ngoại nói chung. Lần này, tôi lại
càng hồi hộp hơn v́ cùng đi với tôi là 14
người. Em sinh viên ấy trấn an tôi: "Chuyến
đi này nhất định là vui!" Tôi đáp: "Vâng,
chắc chắn là rất nhộn. Những ǵ tôi
được nh́n thấy trong chuyến bay kéo dài suốt
8 tiếng đồng hồ báo cho tôi biết điều
đó."
Khi báo với các sinh viên là hăy
chờ tôi bên ngoài khu vực nhập cảnh, tôi nghĩ là
ḿnh chỉ "làm việc" khoảng 10, 15, 20 hay 30 phút
là cùng. Tôi nhớ lại là cách đây hai năm, bạn tôi,
Hoàng Ngọc-Tuấn, cũng bị mời "làm
việc" như thế khi mới bước chân
xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi cho những
cuộc "nắn gân" như thế chắc không kéo
dài quá lâu. Vả lại, tôi thầm nhủ, người ta
thừa biết là tôi không phải đi một ḿnh. C̣n bao
nhiêu người khác đang chờ đợi tôi.
Nhưng tôi lầm. Khi đến
văn pḥng chỉ huy của trạm công an cửa khẩu
Tân Sơn Nhất, tôi được bảo ngồi
chờ. Khoảng 10 phút sau mới có người gọi tôi
đến quầỵ Tôi nh́n vào bảng tên người
ấy đeo trước ngực: Vũ Xuân Ái. Ông Ái
cầm tờ hộ chiếu của tôi trên tay, hỏi:
"Anh tên Nguyễn Ngọc
Tuấn hay Nguyễn Tuấn Ngọc ?"
"Nguyễn Ngọc
Tuấn."
"Anh sinh ở đâu ?"
"Quảng Nam."
"Anh dạy đại học
ở Úc, phải không ?"
"Vâng."
"Anh đến Việt Nam có
chuyện ǵ không ?"
"Tôi dẫn một đoàn sinh
viên Úc về Việt Nam tham quan và học tiếng
Việt."
"Đoàn sinh viên Úc có bao nhiêu
ngườỉ"
"14 người, nhưng ở
đây với tôi chỉ có 11 người. Một
người đă đến Hà Nội và hai người
sẽ bay từ Bangkok đến Hà Nội tối nay."
"Xin anh chờ một lát."
Nói xong, ông Ái vào căn pḥng phía sau
quầy, đọc ǵ đó trên màn ảnh computer rồi
cầm điện thoại lên nói chuyện với ai
đó. Tôi ngồi chờ. Nh́n sang góc bên kia, ở khu vực
tŕnh hộ chiếu nhập cảnh, tôi không thấy bóng
dáng của một sinh viên nào cả. Tôi đoán mọi
người đă bị đẩy xuống khu vực
nhận hành lư, sau đó, sang khu vực nội địa
để chờ chuyến bay đi Hà Nội. Tôi không lo
lắng lắm.
Chuyến bay đi Hà Nội
sẽ cất cánh vào khoảng 6 giờ rưỡi: tôi có
thừa thời gian để sang gặp họ.
Đến hơn 5 giờ, ông Ái mới xuất hiện
ở quầy công an hải quan. Ông cho gọi tôi
đến, trịnh trọng tuyên bố:
"Tôi xin thông báo cho anh biết là
chúng tôi được lệnh không cho anh nhập cảnh
vào Việt Nam."
Tôi sửng sốt: "Cái ǵ ? Tôi
không được vào Việt Nam ?"
Ông Ái nh́n tôi và gật đầu
xác nhận. Tôi lại hỏi: "Anh biết là tôi đang
dẫn cả phái đoàn sinh viên sang Việt Nam du khảo
?"
"Tôi biết. Nhưng đây là
lệnh từ trên."
"Nhưng tại sao tôi không
được nhập cảnh vào Việt Nam?"
Ông Ái đáp:
"Tôi cũng không
được biết. Chúng tôi chỉ làm theo lệnh
từ Bộ Công An."
"Nhưng ít ra Bộ Công An
phải cho biết lư do chứ ?"
"Chúng tôi không được
quyền biết. Chúng tôi chỉ là cấp thừa hành."
Nói xong, ông Ái cúi xuống lúi húi
viết vào tờ biên bản theo mẫu đơn in
sẵn; sau đó, yêu cầu tôi kư. Nội dung tờ biên
bản như sau:
BỘ CÔNG AN, CỤC QUẢN LƯ
XNC, TRẠM CACK-TSN
** *
Số 1087/BB
CỘNG HOÀ XĂ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do -
Hạnh phúc
Tp. HCM, ngày 19 tháng 11 năm 2005
BIÊN BẢN
Về việc: Từ chối
nhập cảnh
Hôm nay, ngày 19 tháng 11 năm 2005,
hồi 17 giờ 05 phút.
Tại cửa khẩu sân bay
quốc tế Tân Sơn Nhất.
Chúng tôi gồm:
1/ Ông Đinh Thế Công, Chức
vụ: Phó Trưởng trạm CACK Tân Sơn Nhất.
2/ Ông Vũ Xuân Ái, Cán bộ Tham
mưu CACK Tân Sơn Nhất.
3/ Ông Nguyễn Trung Hải, Cán
bộ Đội xuất nhập cảnh 2.
Tiến hành lập biên bản vi
phạm quy chế xuất nhập cảnh đối
với:
Người vi phạm là: Ông
Nguyễn Ngọc Tuấn
Sinh ngày 29/10/1957. Quốc tịch:
Úc (Người VN định cư tại Úc)
Hộ chiếu số: M 32 465.48
Thị thực số B0008922 giá
trị 1 lần đến 19/2/2006 do ĐSQ VN tại
Canberra cấp ngày 8/11/2005.
Địa chỉ thường
trú/tạm trú tại: Đại học Khoa Học Xă
Hội và Nhân Văn Hà Nội.
Nhân chứng gồm: Đại
diện Hàng không VN: Đỗ Ngọc Anh, nhân viên.
Nội dung vi phạm: Chuyến
bay VN 780 của hăng HKVN từ Melbourne Úc nhập cảnh TSN
lúc 15h30 - CACKTSN lập biên bản từ chối nhập
cảnh đối với ông Nguyễn Ngọc Tuấn (chi
tiết nhân sự như trên). Lư do: theo yêu cầu của
Bộ Công An.
Tang vật gồm có: Hộ
chiếu M32 46548
Thị thực: E0008922 (foto)
Căn cứ:
- Pháp lệnh xuất nhập
cảnh nước Cộng hoà xă hội chủ nghĩa
Việt Nam.
- Nghị định
05/2000/NĐ-CP ngày 3/3/2003 của Chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam
Chúng tôi quyết định:
- Lập biên bản từ
chối nhập cảnh đối với đương
sự, hủy bỏ thị thực số E0008922.
- Yêu cầu HKVN chịu trách
nhiệm chuyên chở đương sự về lại
nơi xuất phát trên chuyến bay gần nhất: dự
kiến chuyến bay VN783 HKVN xuất cảnh lúc 20h55.
Biên bản được lập
thành 02 bản, kết thúc lúc 17 giờ 40 ngày 19/11/2005, đă
được đọc lại cho đương sự
nghe và công nhận những điều ghi trong biên bản là
đúng. Biên bản được giao cho đương
sự 01 bản.
Tôi theo dơi từ đầu
đến cuối quá tŕnh lập biên bản nhưng tôi
vẫn không hết bàng hoàng. Từ lâu, tôi biết ḿnh không
được ḷng của nhà cầm quyền Việt Nam,
nhất là từ phía công an văn hoá. Trong các lần về
Việt Nam, thỉnh thoảng tôi vẫn bị công an
văn hoá thuộc Cục Xuất Nhập Cảnh ở
số 254 đường Nguyễn Trăi, quận 1, thành
phố HCM mời lên "làm việc". "Làm
việc" ở đây là chuyện tṛ và chất vấn
về chuyện viết lách của tôi
ở hải ngoạị Phần lớn tập trung vào
cuốn Văn học Việt Nam dưới chế
độ cộng sản xuất bản lần
đầu vào năm 1991 của tôi. Lần nào, với ai,
tôi cũng đều khẳng định: tôi không hề
làm chính trị. Tôi chỉ viết về văn học và
văn hoá; và luôn luôn viết với tư cách một nhà phê
b́nh. Mọi ư nghĩ của tôi đều được
tŕnh bày một cách thẳng thắn, công khai, chả có ǵ
phải giấu giếm cả. Rất khó biết
được là người ta có tin tôi hay không.
Lần "làm việc"
cuối cùng là vào ngày 25 tháng 12 năm 2002. Sau đó, yên.
Chuyến đi mới nhất của tôi vào tháng 12 năm 2004
diễn ra tốt đẹp. Không có chuyện ǵ phiền
phức. Tôi thoải mái gặp gỡ, nhậu nhẹt và
tán dóc với bạn bè trong giới văn nghệ từ Hà
Nội vào đến Sài G̣n, dù, dĩ nhiên, tôi luôn luôn tự
kiểm soát ḿnh, không bao giờ sa đà vào những
đề tài chính trị. Ra phi trường Tân Sơn
Nhất, không có ai chận lại khám xét hành lư, lục
từng cuốn sách và từng bức tranh tôi mang về Úc
như cái điều thỉnh thoảng vẫn xảy ra
mấy năm trước đó.
Tôi ngẫm lại: từ cuối
năm 2004 đến nay, chưa đầy một năm,
do bận bịu với công việc ở đại
học, tôi viết rất ít; và tuyệt đối không
viết về bất cứ đề tài ǵ có tính
"nhạy cảm" về chính trị. Vậy, tại
sao người ta lại cấm tôi vào Việt Nam sau khi
đă cấp visa cho tôỉ Tôi đặt câu hỏi với
các công an hải quan. Không ai trả lời được.
Lần nào, người ta cũng chỉ lặp đi
lặp lại: "Đây là quyết định của
"trên". Chúng tôi chỉ là những người
thừa hành." Tôi biết tôi không thể đối
thoại với những người "thừa hành"
câm điếc như thế. Đành im.
Tôi kư tên vào biên bản và yêu
cầu được gặp các sinh viên trong đoàn du
khảo do tôi hướng dẫn để đưa cho
họ chi phiếu trả tiền học và tham quan cho
Đại Học Khoa Học Xă Hội và Nhân Văn Hà
Nội; đưa họ một số tiền để
họ ăn uống trong những ngày ở Hà Nội và
dặn ḍ họ một số việc cần thiết.
Nhưng các công an hải quan từ chối. Họ bảo
tôi không được phép rời khỏi khu vực
nhập cảnh. Tôi yêu cầu họ, nếu không cho tôi sang
gặp các sinh viên th́ cho một sinh viên trong đoàn sang
gặp tôi. Cuối cùng, sau khá nhiều căi cọ căng
thẳng, lời yêu cầu ấy cũng được
thực hiện. Một sinh viên đến gặp tôi. Tôi
kể sơ lược cho em ấy nghe quyết
định của Bộ Công An không cho tôi nhập cảnh.
Em ấy há hốc v́ kinh ngạc rồi gào lên: "Bọn
họ có điên không ?" Rồi em nhào đến các công
an đang đứng canh tôi: "Ai là người chỉ
huy ở đây ? Tại sao các ông lại làm như vậy
đối với thầy của tôi ? Các ông có biết là
ông ấy đă giảng bao nhiêu điều hay đẹp
về văn hoá và xă hội Việt Nam, làm cho chúng tôi yêu mến
Việt Nam và muốn học tiếng Việt, học
về văn hoá và xă hội Việt Nam không ?" Một
công an biết tiếng Anh trả lời "Chúng tôi
chỉ làm theo lệnh trên mà thôi !" Tôi khuyên em sinh viên nên
b́nh tĩnh, rồi đưa cho em tiền và các giấy
tờ liên quan đến chuyến đi. Hai nhân viên hải
quan áp tải em qua khu vực nội địa để
đi Hà Nội.
May, trước khi đi, tôi mang
theo một cái Sim card cũ mua từ Việt Nam mấy tháng
trước đó để dùng cho điện thoại di
động. Tôi dùng điện thoại di động liên
lạc với Khoa Tiếng Việt và Văn Hoá Việt Nam
ở Hà Nội để cho họ biết là tôi bị
buộc phải quay lại Úc và bàn với họ cách
thức ra phi trường Nội Bài đón các sinh viên trong
đoàn về nhà khách của đại học. Đă quá
giờ hành chính, tôi không thể liên lạc được
với Toà Đại Sứ Úc ở Việt Nam, cho nên tôi
liên lạc với thân nhân và bạn bè ḿnh ở Việt Nam
cũng như ở Úc để họ biết t́nh h́nh.
Một vài người bạn ở Việt Nam hứa
sẽ nhờ người này người nọ trong
Bộ Công An để nhờ giúp cho tôi được
nhập cảnh vào Việt Nam. Có người, rất
tự tin và nhiệt t́nh, hứa sẽ đến ngay phi
trường để gặp tôi và trực tiếp
giải quyết vấn đề. Thế nhưng,
cuối cùng, tôi không được gặp ai cả. Một
người bạn có quan hệ khá rộng với giới
lănh đạo Việt Nam cho tôi biết: t́nh h́nh hoàn toàn
tuyệt vọng.
Một nhân viên của hăng Hàng Không
Việt Nam và hai công an dẫn tôi xuống khu vực bán vé
máy bay để thu xếp chuyến đi sang Úc. Tối hôm
đó chỉ có chuyến bay sang Sydney. Hành tŕnh ghi trên vé máy
bay của tôi là từ Melbourne đi Hà Nội và từ Sài
G̣n trở về Melbourne, do đó, tôi bị buộc
phải mua vé máy bay khác đi Sydney. Tôi phản đối
với lư do là vé của tôi cũng mua từ Vietnam Airlines;
nếu phải trở về Sydney, tôi chỉ bù thêm
tiền chứ không đồng ư bỏ hẳn cái vé cũ
để mua một cái vé khác. Cô bán vé cứ khăng
khăng đ̣i tôi phải mua vé mới. Tôi cương quyết
từ chối. Người ta dẫn tôi lên lại khu
vực Nhập cảnh. Khu vực này là nơi hành khách
quốc tế chờ tŕnh hộ chiếu vào Việt Nam.
Ngoài các quầy hải quan, cả khu vực rộng mênh
mông này chỉ có ba dăy ghế nhựa cũ kỹ và một
pḥng vệ sinh. Lần nào tôi đi vệ sinh cũng
đều có hai công an đi kèm. Đến khoảng 7
giờ rưỡi, viên thượng tá công an Đinh
Thế Công nói với tôi, giọng nghiêm và lạnh:
"Quyết định của Bộ Công An không thể
nào thay đổi được. Bởi vậy, anh nên t́m
cách quay về Úc càng sớm càng tốt. Như vậy khoẻ
cho anh và cho cả chúng tôi nữa. Anh thấy đấy,
đây không phải là nơi có thể ở vài ba ngày
để chờ chuyến bay về Melbourne."
Cuối cùng, khoảng 8 giờ,
tôi quyết định trả tiền vé máy bay để
về Sydney. Trước đây, tôi đă mua vé khứ
hồi Melbourne - Hà Nội và thành phố HCM - Melbourne với
giá 1450 đô Úc. Bây giờ phải ch́a credit card ra để
trả thêm 713 đô Mỹ cho chuyến bay một chiều
về lại Sydney; sau đó, lại phải mua vé bay
từ Sydney về Melbourne. Tôi có cảm giác như bị
ăn cướp trấn lột. Nhưng dù sao tôi cũng
phải đi. Ít nhất, khi đến Sydney, tôi có thể
liên lạc được với các sinh viên của tôi
ở Hà Nội và nhờ đại học của tôi can
thiệp để t́m cách giúp đỡ các sinh viên ấy
trong thời gian họ theo học ở Việt Nam. Ở
đây, tôi hoàn toàn vô vọng. Cái Sim card cũ của tôi có
thể hết hiệu lực bất cứ lúc nào. Sau khi
lấy vé, hai công an "áp tải" tôi lên máy bay. Ở
cửa nào, tôi cũng được "ưu tiên"
đi trước. Thiên hạ sắp hàng, mặc; tôi đi
qua, với hai công an: một phía trước và một phía
sau. Sau khi tôi vào hẳn máy bay, hai người công an mới
đi ra.
Chuyến bay bay suốt đêm. Đến 9
giờ 30 sáng Chủ nhật tôi mới đến Sydney.
Hoàng Ngọc-Tuấn ra phi trường đón. Trước
đó, khi liên lạc với Tuấn, tôi đă nhờ
Tuấn đặt giùm một vé máy bay từ Sydney đi
Melbourne, nơi tôi ở và làm việc. Không có chuyến bay
nào vào ngày Chủ nhật c̣n vé. Tuấn đành phải mua
vé chuyến bay đầu tiên của ngày Thứ Hai, 21 tháng 11.
Tôi có được gần một ngày và một đêm
ở Sydney. 4 giờ sáng Thứ Hai, tôi đă thức
dậy để ra phi trường về Melbourne.
Chuyến bay hạ cánh xuống phi trường Avalon ở
Melbourne vào lúc 7:30. Đây là phi trường mới, cách trung
tâm thành phố Melbourne đến hơn 50 cây số. Tôi
đă quá mệt mỏi với chuyện ngồi bó chân trên
máy bay nên chọn đi taxi thay v́ xe buưt về nhà. Tôi nghĩ
đi taxi sẽ nhanh hơn nhiều. Nhưng khi chiếc xe
buưt đă lăn bánh, tôi mới phát hiện việc chờ
đợi một chiếc taxi trống ở đây có khi
mất khá nhiều th́ giờ.
Tôi về nhà lúc gần 9 giờ
sáng. Trước đó hai ngày, tôi cũng rời nhà lấy
taxi đến phi trường Melbourne vào lúc 9 giờ sáng.
Như vậy, tổng cộng thời gian kể từ lúc
tôi rời nhà vào ngày Thứ Bảy 19 đến khi quay
về nhà vào Thứ Hai, 21 là đúng 48 tiếng. 48 tiếng
đồng hồ, trong đó có khoảng 18 tiếng
đồng hồ ê ẩm trên máy bay, chỉ để
đi từ nhà ḿnh đến nhà ḿnh. Thật lăng nhách.
Tin tức về việc tôi
bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam lan đi khá
nhanh. Vừa về đến nhà, mở computer lên, tôi
đă thấy có đến mấy chục emails hỏi
thăm. Một trong những emails mới nhất, từ
một người bạn văn nghệ, hỏi:
"Thằng mất dạy nào chận anh lại, không cho
anh vào thế ?"
Ờ nhỉ, hỏi vậy mà hay
!
Melbourne 22.11.2005
NGUYỄN HƯNG QUỐC
********
Đọc qua bài
viết mà không nén được sự căm phẫn :
Luật Đảng : Luật Rừng !
(cảm đề)
Luật Đảng
đưa ra vốn luật rừng
Từ ngày thống
trị Bắc Nam Trung
"Giam cầm,
bắt bớ" nào kiêng nể,
"Bắn giết,
thủ tiêu" há ngại ngùng !
"Chẳng viết
theo khuôn" yên chớ tưởng, (*)
"Không phê đúng
rập" khoẻ đừng ḥng ! (*)
Trông gương
Hưng Quốc mà suy gẫm
Thủ đoạn
đối Kiều (**) lũ bất lương !
Vntvnd
(01/12/2005)
(*) xin xem những hàng chữ đỏ
trong bài viết
(**) Kiều bào, Việt Kiều