SU'U TÂ`M (tt)

Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | THO* | THO* (tt) | THO* 1 | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BA`I VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13

BÀI VIÊ'T 3

0_0_0hoa3_1bupthangdung_red_dep_thunho.jpg
(QUÓ'I NHO'N su'u tâ`m)

Tiếng Mẹ Quê Người


TIẾNG MẸ QUÊ NGƯỜI

 

Học giả Phạm Quỳnh có một nhận xét khá độc đáo về ngôn ngữ trong bối cảnh văn học và xă hội Việt Nam: "Truyện Kiều c̣n, tiếng Việt c̣n".  Có thể nói Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm thi ca tiêu biểu cho vẻ đẹp của Tiếng Việt.  Sự mỹ lệ của ngôn ngữ thi ca mang nét đẹp không tàn phai của ngôn ngữ và khơi động được sự thống khoái của người thưởng ngọan nghệ thuật. Cũng trong ư đó, John Keats đăghi thành một câu thơ bất hủ: "A thing of Beauty is a Joy Forever." (Mỗi cái Đẹp là một Niềm Vui vĩnh cửu.). Yêu tiếng Việt, thử nh́n lại sự chuyển ḿnh của tiếng Việt trong thế hệ Trẻ Việt Nam (Thế hệ thứ hai) tại nước ngoài. Sự chuyển ḿnh đang quy về hai hướng: Tiếng Việt sống c̣n bên cạnh tiếng Anh hay tiếng Việt sẽ bị tiếng Anh chôn vùi vĩnh viễn ở quê người.

Sau đây là một bài viết tham gia ư kiến về vấn đề Tiếng Việt ở Quê Người  của TS Trần Kiêm Đoàn

 

 

*
Quê Ta Tiếng Người (The Fatherland, The Foreign Tongue. N.Y. 1995). Đây là tác phẩm viết về tâm sự của một cô gái Mỹ gốc Nhật, Susan Kumagai, thuộc về thế hệ thứ ba sinh ra và lớn lên trên đất Mỹ. Cô gái Phù Tang đă thành tài và từng ấp ủ ước mơ về phục vụ quê hương. Tâm lư Á châu là một khuynh hướng tâm lư chuộng chính danh và định phận.  Người nào tiếng ấy rạch ṛi.  Nhưng đến đâu trên quê cha đất tổ, cô ta cũng bị đồng bào cô nhạo báng, châm chọc và đối xử một cách đầy xa lạ chỉ v́ cô không nói đuợc tiếng Nhật, mà chỉ nói được tiếng Mỹ. Ngay tại ngôi làng tổ tiên Hukaido xa xôi của cô, nguời dân Nhật b́nh thường vẫn kính trọng người Mỹ nói tiếng Mỹ, nhưng lại xa lánh và kỳ thị cô gái Nhật mà lại chỉ có nói tiếng Mỹ. Sau cùng cô gái phải nghẹn ngào, vội vàng từ giă quê cha với lời than thở: Đâu phải lỗi tại tôi! (It's not my fault!).

 
Thế th́ lỗi tại ai ?  Susan cũng như hầu hết các em bé Việt Nam lớn lên trên đất Mỹ đang quên hẳn hay quên dần tiếng mẹ đẻ đâu phải tại lỗi các em. Các em đều lớn lên như một tờ giấy trắng mà những gịng chữ đầu tiên do cha mẹ và xă hội thay phiên nhau viết những gịng kế tiếp. Các em đă quên tiếng Việt rồi sao? Sao các em lại không biết cất tiếng chào "Thưa Cô, thưa Bác, thưa Chị, thưa Anh?".  Sao các em không có được niềm vui ngày Tết và h́nh ảnh con trâu trên đồng lúa, con sông xanh ở đầu làng, tiếng ru của mẹ .. có gợi cho em thương nhớ ǵ không? Tất cả những ǵ đẹp và thiêng liêng trên quê hương giờ đă xa khuất bên kia trời trái đất. Suốt ngày ở trường, ba mẹ đi làm quần quật, có ai giúp cho em gợi nhớ ǵ đâu ?

 

Lỗi tại ai ?

Thưa, tại tôi, tại chị, tại anh, tại chú, tại bác, tại tất cả chúng ta là những người phụ huynh có trách nhiệm đang quay cuồng vật lộn với cuộc sống hàng ngày nơi quê người với biết bao mặc cảm tự hào lẫn chua xót. Rất đông người Việt lớn rất nhanh với kiến thức, bằng cấp, thương măi, nghề nghiệp, trương mục ở ngân hàng nhưng rất ít người "lớn" theo kịp với đà phát triển của con cháu chúng ta trong cái xă hội Hoa Kỳ phức tạp và đa dạng này.

Để góp một phần rất nhỏ trong việc tŕnh bày, phân tích và nhận định về sự khó khăn của con em chúng ta trong việc duy tŕ và sử dụng tiếng mẹ đẻ, tôi chỉ xin phép  bàn đến một vài khía cạnh rất nhỏ và tiêu biểu trong lănh vực bao la của ngôn ngữ.     

 

Mặc Cảm Về Ngôn Ngữ

Nếu đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn th́ ngôn ngữ là cửa ngỏ tư tưởng và t́nh cảm của mỗi con người.  Qua tiếng nói, người ta có thể gây cảm t́nh, thuyết phục hay chinh phục;  hoặc biểu lộ tŕnh độ hiểu biết và thân thế một cách dễ dàng.

Xuất thân từ một đất nước chuộng chữ nghĩa và lời nói, người Việt Nam chúng ta thường mang mặc cảm về ngôn ngữ nặng nề như một cái "khẩu nghiệp".

Tiếng mẹ đẻ bị phân vùng Trung, Nam, Bắc, cọng thêm mặc cảm nhà quê hay thành thị đến nỗi "Chưởi cha không bằng pha tiếng". Thêm vào đó, tác dụng của tiếng nói c̣n bị phụ thuộc nặng nề vào đẳng cấp xă hội như "Miệng nhà quan có gang có thép" và người dân thường th́ phải chịu "thấp cổ bé miệng".

Tự bản chất, tiếng nói là một phương tiện truyền thông như chiếc bè để qua sông. Nhưng với mặc cảm khá nặng nề về ngôn ngữ, tiếng Việt thường xuyên bị thử thách trải qua hàng ngh́n năm lịch sử, với bao nhiêu cuộc bể dâu của đất nước, hết bị Tàu đô hộ, đến Tây xâm lăng, chiến tranh trường kỳ băo liệt. Không ít người Việt đă vội vàng quay lưng với tiếng nói thân yêu của ḿnh để vội vàng chạy theo những ngôn ngữ mới chân ướt chân ráo tiếp thu được khi hoàn cảnh thay đổi.      

Thời cận đại, khi tiếp xúc với văn hóa Tây phương, tiếng Tây đă trở thành một thứ ngôn ngữ "cao quư" đến nỗi cứ hễ nói tiếng Việt mà chêm vào đuợc tiếng Tây, bất luận là loại tiếng Tây nào, kể cả tiếng Tây bồi bếp, bâng quơ .. cũng được liệt vào hạng "văn minh" và "thông thái"!

Trong giai đoạn này, đă có rất nhiều người Việt Nam theo "Tây học" đă công khai chối bỏ tiếng nói thân yêu của tổ quốc, để chế nhạo, khinh miệt và vùi dập ngôn ngữ Việt Nam như là một thứ tiếng thấp hèn, nghèo nàn, lạc hậu, vay mượn và thiếu sức sống (!).

Khi qua Mỹ, mặc cảm ngôn ngữ tuy không c̣n gay gắt trong một xă hội đa chủng v́ tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ tiêu chuẩn (official language), tiếng Việt chỉ c̣n là phương tiện riêng tư giữa người Việt với nhau.  Thế nhưng cái mặc cảm đó vẫn cứng đầu, ló mặt thường xuyên trong cuộc sống Việt-Mỹ hàng ngày.  Tôi đă từng gặp trong lớp học, nơi hội hè ở nhiều nơi những t́nh huống buồn cười một cách xót xa khi một người Việt mới đến xứ nầy nhưng đă nói được tiếng Anh một cách lưu loát th́ người ta cho đó như một điều đương nhiên chẳng ai để ư. Nhưng ngược lại, một người Mỹ học tiếng Việt lâu ngày mà nói được một câu tiếng Việt trọ trẹ th́ mọi người lấy làm cảm kích và vỗ tay bôm bốp.  Tiếng Việt như một con bệnh nằm liệt giường lâu ngày, nay có người tốt bụng vực dậy làm mọi người hồ hởi.

Thái độ tiêu cực v́ mặc cảm tự ti về ngôn ngữ Việt Nam đă bị thực tế hùng hồn đánh bạt. Với sức sống tự cường của hàng ngh́n năm lịch sử, tiếng Việt Nam, qua những người con ưu tú, đă chững chạc vươn lên bằng một h́nh thức văn tự mới với những phong trào chữ Nôm và Quốc ngữ. Những công tŕnh sáng tác và biên khảo bằng tiếng Việt thuần túy đă phôi thai, khôn lớn và trưởng thành theo sự lớn mạnh và trường tồn của lịch sử dân tộc. Nh́n về lịch sử và văn hóa dân tộc, so với tất cả các nước lân bang ở Á Châu, chúng ta có quyền tự hào về sự phong phú của gia tài ngôn ngữ Việt Nam.

Từng bước một, tiếng Việt đă chiến thắng những loại "chuyển ngữ" Tàu, Tây để đi vào ḷng dân tộc. Tùy theo sự phát triển cùng yêu cầu của từng giai đoạn, tiếng Việt đă tự chứng tỏ khả năng mềm dẻo, bao la, phong phú và da dạng trong mọi lănh vực văn chương, khoa học xă hội và khoa học thực nghiệm.

Trở lại với hiện thực tiếng Việt trên đất Mỹ, chúng ta không thể chối căi rằng, bên cạnh tiếng Anh, mặc cảm tự ti (cũng có thể là tự tôn nhưng rất hiếm) về tiếng Việt vẫn c̣n ám ảnh một cách nặng nề trong cộng đồng người Việt như hồn ma Đạm Tiên cứ đeo đẳng măi Thúy Kiều. Xuất phát từ mặc cảm tự ti về tiếng Việt trước thế mạnh của tiếng Anh, kết hợp với kinh nghiệm xót xa về sự bất đồng ngôn ngữ trên bước đường tỵ nạn, phụ huynh chúng ta ai cũng muốn con em ḿnh cần phải học tiếng Anh càng nhiều, càng nhanh, càng tốt. Đồng thời cũng đă có rất nhiều phụ huynh đă dùng sai "đơn vị đo lường" khi căn cứ trên khối lượng và tốc độ nói tiếng Anh của con em ḿnh nói với nhau hàng ngày (không kể là nói ǵ và nói thế nào) để đánh giá khả năng và tŕnh dộ học tập của con em ở trường học. Tiếng Việt do đó đă trở thành một người bạn lỗi thời "Vắng mợ th́ chợ cũng đông, mợ đi trong Quảng ai trông mợ về".

Thái độ và phản ứng của phụ huynh đối với vấn đề tiếng Việt của con em tuy có khác nhau về hiện tượng nhưng bản chất cũng chỉ là một. Ai cũng nóng ḷng mong muốn, dù phải hy sinh nhiều giá trị quư báu, cho con em ḿnh khôn lớn, được học tập thành tài, và tạo đuợc một thế đứng vững vàng trong xă hội Mỹ. Nếu chúng ta tạm đồng ư với nhau trên quan điểm "tất cả v́ thế hệ trẻ con em của chúng ta" đó, hăy thử tiến xa thêm một bước nữa để bàn về mối quan hệ giữa tiếng Việt và khả năng học tập của con em chúng ta. Vấn đề không c̣n nằm ở mức độ chủ quan và cảm tính v́ "cha thích, mẹ thích, con thích, hay dân tộc Việt Nam thích" nữa, mà cần phải căn cứ vào những dữ liệu khách quan của các cuộc kiểm nghiệm và nghiên cứu về ngôn ngữ gần đây để tŕnh bày và thảo luận.

 

Tiếng Việt và Trí Thông Minh.

Dù muốn hay không, người Việt trên đất Mỹ vẫn đương nhiên được xem là nhóm dân tộc thiểu số và tiếng nói vẫn thuộc về lănh vực Song Ngữ Việt-Mỹ. Nếu chúng ta chỉ dùng tiếng Mỹ để thay thế hẳn cho tiếng Việt th́ ở vào trường hợp Song Ngữ Loại Trừ (Subtractive Bilingualism), nghĩa là cái gốc vẫn là song ngữ nhưng khả năng đă mất đi tiếng mẹ đẻ; hoặc dùng song song tiếng Việt và tiếng Mỹ th́ ở trường hợp Song Ngữ Cộng Hưởng (Additive Bilingualism).

Thật ra, Mỹ là quê hương của dân di cư, cho nên vấn đề Song Ngữ (Bilingual) và Đa Ngữ (Multi-lingual) đă được đặt ra gần một thế kỷ này. Rất nhiều nhà chính trị và giáo dục Mỹ từ những năm đầu của thập niên 1900 đă băn khoăn trước vấn đề: "Một đứa trẻ học cùng lúc hai thứ tiếng sẽ có kết quả tốt hơn hay dở hơn so với đứa trẻ chỉ học độc nhất tiếng Anh?". Trong lúc thực tế đă có đến 46.5 triệu người (chiếm 17.5% toàn dân số Mỹ) có tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng Anh hiện diện trên đất Mỹ (Wagoner 1996). Đă có tới hàng trăm cuộc nghiên cứu và qua nhiều cuộc hội nghị, thảo luận, tranh luận .. ở nhiều tầm mức địa phương, quốc gia và quốc tế để t́m câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này. Bên cạnh những dư luận chống đối về sự hiện diện của chương tŕnh song ngữ v́ đặt nặng tính chất chính trị và kinh tế hơn là tính chất văn hóa hay giáo dục của vấn đề, các nhà nghiên cứu ngôn ngữ và giáo dục trên khắp thế giới đă mở ra nhiều chương tŕnh giáo dục thí nghiệm khác nhau để xác định một cách khoa học và thực tiễn tác dụng của hai thứ tiếng cùng một lúc đi vào trí óc của các em. Những công tŕnh nghiên cứu nổi tiếng và gần đây nhất được kể đến là: Tại Ontario và nhiều nơi ở Canada (do Liedtke và Nelson thực hiện năm 1968; Bain 1974; Cummins va Gulustan năm 1974). Tại Thụy Sĩ (Balkan 1970) , Do Thái (Ben-Zeev 1977), Nam Phi (Janco-Worrall 1972), Mỹ (Ben-Zeev 1977; Duncan và De Avila 1979). California (O'Malley, J.M. 1992; National Society for the Study of Education 1994, 1996, 1997). National Clearinghouse for Bilingual Education 1984, 1992, 1997) .. kết quả những công tŕnh thăm ḍ và nghiên cứu này đă rất thống nhất trên luận điểm cơ bản rằng: "Khả năng song ngữ hoàn toàn không có tác hại ǵ trong khả năng nhận thức và học tập của học sinh trong nhà trường và ngoài xă hội; ngược lại, khả năng song ngữ giúp học sinh trở thành đa dạngphong phú hơn trong hầu hết các môn học."

Giáo sư Kenji Hakuta của đại học Yale đă đi vào cụ thể hon bằng cách chọn nhiều h́nh thức trắc nghiệm cho học sinh hai nhóm Song Ngữ và Đơn Ngữ trong nhiều năm đă đi đến kết luận rằng: "Chọn một nhóm học sinh biết nói hai thứ tiếng để thi đua với một nhóm học sinh khác chỉ biết một thứ tiếng, cùng lứa tuổi, cùng tŕnh độ, cùng hoàn cảnh xă hội, cùng điều kiện sinh hoạt như nhóm kia. Xong rồi, chọn một biện pháp để đo khả năng nhận thức áp dụng chung cho cả hai nhóm. Kết quả: nhóm song ngữ đạt được luôn luôn sẽ tốt hơn." (Hakuta. Mirror of Language 1986. Tr. 35).

Cùng nhận xét như trên, hai nhà nghiên cứu về sự quan hệ giữa khả năng song ngữ và trí thông minh, tại Canada là Elizabeth Pearl và Wallace Lambert (1982) sau nhiều công tŕnh t́m ṭi đă phấn khởi nhận xét: "Một đứa trẻ có sự hiểu biết về cả hai ngôn ngữ và hai nền văn hóa có được nhiều thuận lợi hơn là một đứa trẻ chỉ biết một ngôn ngữ và một cách sống. Về phương diện trí thức, sự hiểu biết cả hai hệ thống ngôn ngữ dường như đă lưu lại cho nó một sự phóng khoáng về trí óc, một sự ưu tú về tư tưởng và khả năng phong phú đa dạng của lư trí. Trái lại, đứa trẻ chỉ biết một ngôn ngữ th́ những yếu tố cấu tạo trí thông minh của nó đơn thuần và hạn hẹp hơn" (Lambert, W.E. và E. Anisfield. 1969. A Note On the Relationship of Bilingualism and Intelligence).

 

Sự Quan Hệ Mật Thiết Giữa Tiếng Việt và Tiếng Mỹ.

Phụ huynh vẫn thường suy nghĩ đơn giản là cho dù con em ḿnh có giỏi tiếng Việt cũng chẳng có lợi ǵ cho việc học tiếng Mỹ tại trường. Thực tế khoa ngôn ngữ học đă chứng minh ngược lại. James Cummins khi bàn về sự liên hệ giữa tiếng mẹ đẻ (tạm ghi kư hiệu là L1: Tiếng Việt và ngôn ngữ thứ hai, L2: Tiếng Mỹ)  đă hoàn toàn bênh vực cho khuynh hướng hiện đại và thực tiễn của các nhà ngôn ngữ học khi chứng minh rằng: Có những điểm chung nhất nằm giữa L1 và L2. Những kiến thức đă học trong L1 có thể đương nhiên được chuyển qua cho L2 mà khỏi cần bắt đầu học lại. Ví dụ: trường hợp một học sinh vốn đă thông thạo tiếngViệt khi học tiếng Anh sẽ rất nhanh so với một người bạn Việt Nam khác vốn rất kém cỏi tiếng Việt cùng bắt đầu học Anh văn và ngược lại. Nói một cách cụ thể hơn, ví như khi một học sinh Việt Nam đă hiểu được khái niệm của từ "Dân chủ" trong tiếng Việt chẳng hạn, nếu khi học tiếng Mỹ th́ chỉ cần chuyển thành "Democracy" mà khỏi cần phải học lại từ đầu toàn bộ ư nghĩa và khái niệm của từ nầy. Tương tự như thế, tất cả kiến thức, nghệ thuật, khái niệm học được trong tiếng Việt hoặc tiếng Anh đều có sự tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau. Quan điểm "Sự thông thạo nằm riêng giữa hai ngôn ngữ" (The Separate Underlying Proficiency Model of Bilingual Proficiency)  (Xem H1)  đă không thể đứng vững trước thực tế: Có "Sự thông thạo nằm chung giữa hai ngôn ngữ" (The Common Underlying Proficiency Model of Bilingual Proficiency) (Xem H2 và H3. - Cummings: Schooling and Language Minority Student: A theoretical Framework. Tr. 23 và 24).

Thêm những bằng chứng rất thực tiễn đă diễn ra trong tập thể người Việt tại Mỹ trong những năm gần đây, đó là trường hợp thành công của đại đa số các con em "H.O" trong nhà trường của Mỹ. Rơ ràng là các em qua Mỹ vào độ tuổi trưởng thành, nên không có sự chọn lựa nào khác hơn là phải sử dụng song ngữ, nói cùng lúc hai thứ tiếng Việt và Mỹ song song. Thế nhưng trong học vấn, phần đông các em đă tận dụng được kiến thức đă học được từ trong tiếng Việt, chuyển sang tiếng Mỹ một cách vô thức hay hữu thức. Những học sinh, sinh viên Việt Nam mới qua không những "sống c̣n" mà sống mạnh, sống hùng trong môi trường tiếng Mỹ.

 

Đưa ra một vài dẫn chứng nhỏ để nói lên sự suy nghĩ của chúng tôi rằng, việc khuyến khích các em học tiếng Việt không phải là v́ "thể diện" gia đ́nh hay danh dự hăo huyền hoặc muốn làm vui ḷng bà con Việt Nam với nhau mà chính là v́ quyền lợi lâu dài của con em chúng ta.

Bất cứ xă hội nào, cha mẹ và người thân luôn luôn là những người thầy đầu đời để giáo dục không ngừng về phong cách sống mà c̣n giáo dục cả một khối lượng kiến thức khổng lồ về mọi mặt. Từ một bài hát, câu ḥ đến những câu chuyện cổ tích, một lời nói khôi hài, một vài nhận xét khen chê trong cuộc sống sẽ là những bài học có giá trị cho con em sau này. Nếu con em chúng ta không có khả năng về tiếng Việt tức là phụ huynh đă vô t́nh từ khước cái vai tṛ thầy giáo trong buổi b́nh minh làm người của các em rồi đó.

Trong các công tŕnh nghiên cứu xuất bản năm 1986, 1994 đề cập đến sự thành công và thất bại trong trường học của nhóm học sinh thiểu số, giáo sư John U. Ogbu của trường Đại Học Berkely và giáo sư Maria Eugenia Matute-Bianchi của đại học Santa Cruz đă phân tích và nhận định về nhóm thiểu số thất bại thê thảm nhất trong trường học đó là nhóm học sinh người Mễ và nhóm thiểu số thành công trong trường học đó là nhóm học sinh người Trung Hoa. Giải thích về nguyên nhân thành công của nhóm học sinh Trung Hoa trên đất Mỹ, tác giả đă đưa ra những nét tiêu biểu như sau:

1. Người Tàu đă mang theo truyền thống văn hóa sang đất Mỹ: Hiếu học, tôn trọng sự học vấn, tự hào về nền văn hóa dân tộc của ḿnh.

 2. Sự ảnh hưởng sâu đậm của gia đ́nh: Cha mẹ hy sinh tất cả cho con cái được ăn học và ngược lại con cái biết vâng lời, kính trọng và cố sống xứng đáng với t́nh thương của cha mẹ khi c̣n đi học cũng như khi đă ra đời.

3. Ảnh hưởng nền giáo dục gia đ́nh, học sinh Trung Hoa vào trường biết vâng lời, kính trọng thầy giáo và người lớn tuổi, có tinh thần trách nhiệm nên phần đông được thầy giáo và nhân viên nhà trường quư mến và tận tâm giúp đỡ.

4. Mặc dầu chữ Tàu và chữ Anh hoàn toàn khác biệt, ngôn ngữ gia đ́nh thường là tiếng Tàu, cách học ở Mỹ khác hẳn ở Trung Hoa nhưng với sự thông minh, nhạy bén, và cần cù, học sinh Tàu đă làm hết sức ḿnh để vượt qua những khó khăn để đạt những thành tựu xuất sắc trong trường học. (Beyond Language: Schooling Language Minority Student. 1986. Tr. 73-134).

Chúng ta thấy những yếu tố căn bản giúp học sinh Tàu thành công th́ cũng là những nét quen thuộc của phụ huynh và học sinh Việt Nam.  Chúng ta sẽ khỏi lấy làm tiếc về sau nếu phụ huynh tăng cường nền giáo dục gia đ́nh và giúp cho con em biết tự hào về truyền thống văn hóa Việt Nam qua việc học và duy tŕ tiếng Việt.

 

Từ "Melting Pot" và "Salad Bowl" đến kết luận.

Có nhiều học sinh và sinh viên Việt Nam chỉ thích làm người Mỹ. Vâng, điều này rất đơn giản v́ chỉ cần năm năm thường trú không phạm pháp trên đất Mỹ là các em đă trở thành "người Mỹ" được rồi. Nhưng nếu các em muốn từ "Vietnamese-American" biến thành "Anglo-American" th́ đó chỉ là ư nghĩ viễn mơ không biết ta mà cũng chẳng hiểu người. Lịch sử xă hội đă cho thấy rằng, cách đây hơn một nửa thế kỷ, các nhà xă hội học Hoa Kỳ đă đồng ư với thuyết "Melting Pot" nghĩa là nền văn hóa ưu việt của người Mỹ-Anglo sẽ đồng hóa tất cả nền văn hóa của người di dân vào đất nước này trong "cái nồi xúp nóng chảy" đó. Nhưng qua thực tế, tượng Nữ Thần Tự Do vẫn đứng song song với Vạn Lư Trường Thành. Rặng núi Rocky Mountains không cao hơn nổi Hy Mă Lạp Sơn và những gịng sông Mississippi, Hoàng Hà, Cửu Long vẫn cứ theo gịng riêng tư chảy hoài ra biển, nên dân tộc nào vẫn giữ nguyên nền văn hóa của dân tộc đó trong cái đất nước tự do và hiệp sĩ này. Bởi vậy, v́ thấy thuyết "Melting Pot" không có tác dụng nên một thuyết khác ra đời, đó là thuyết "Salad Bowl".

Thuyết này mô tả và chấp nhận xă hội Hoa Kỳ như dĩa xà lách: Có rau có trứng, có tiêu, muối, tỏi, ớt, hành, vị tinh, nước xốt .. Mỗi thứ mang một tính chất độc đáo riêng biệt. Đây là h́nh ảnh biểu trưng của một xă hội Hoa kỳ gồm nhiều dân tộc khác nhau, có riêng nền văn hóa, sống chung ḥa b́nh để góp phần xây dựng xă hội. Tôi không hiểu trong dĩa xà lách này, dân Việt Nam đóng vai ǵ trong đó ? Là rau ? Là muối ? Là tiêu ? Là hành ? Nhưng chắc chắn chúng ta không thể nào biến thành một thứ "siêu nhân" bay vù vù một ḿnh trên đầu các dân tộc khác như trong phim Superman được. Nếu chúng ta là muối ? Th́ tất nhiên chúng ta phải mặn. Nếu chúng ta là người Việt Nam ? Th́ phải biết nói tiếng Việt Nam. Muối không mặn: Là muối giả ! Người Việt Nam không biết nói tiếng Việt: Chỉ c̣n là mảnh h́nh hài Việt Nam ngoài vỏ. Nếu chúng ta không thể xác định ḿnh là chất ǵ trong dĩa xà lách Hoa Kỳ, không lẽ ta là con ruồi hay cọng rác cần phải vất đi sao ?

 

Câu trả lời đă hiện rơ nét ngay trong câu hỏi.

 

TRẦN KIÊM ĐOÀN

(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển )

0_0_0lamphuong_xelan.jpg

Đọc tin trên Web www

 

LAM PHƯƠNG và NHỮNG KHÚC NHẠC ĐỒNG QUÊ

[Giao Chỉ - San Jose 2005]

 

* Viết tặng quê ngoại các cháu

 

 

Nếu quư vị đọc báo ở San Francisco cách đây 4 năm có thể c̣n nhớ một câu chuyện cười ra nước mắt.

 

Một anh chàng về Việt Nam cưới vợ. Tốn bao nhiêu là công sức và tiền bạc. Sau cùng đưa được tân giai nhân qua Hoa Kỳ. Dù rằng đă làm đám cưới tại Việt Nam nhưng trên thực tế vẫn chỉ mới là vị hôn thê. Qua Mỹ chưa kịp cho nàng đi thăm cầu Golden Gate th́ cô em đă mất tích để lại một lá thư từ biệt đầy thương cảm.

Chàng trai rất uất hận đưa nội vụ ra ṭa. Quan ṭa hỏi chuyện và chàng khai là anh đă cảm thấy cô nàng có những chỉ dấu bất thường từ Việt Nam. Vị chánh thẩm lại hỏi thêm rằng sao biết như vậy mà vẫn c̣n làm giấy tờ đưa qua ?

Chàng trai 27 tuổi, thợ điện xuất sắc từ Sài G̣n cho đến San Francisco đă thở dài mà nói rằng: "I am in love, I am wrong." (Thưa ngài, khi tôi yêu, tôi đă lầm.) Rồi anh nói ra cả một tràng lời ca bất hủ của Lam Phương "Anh đă lầm đem em qua đây .."

Sau này chàng lại c̣n thêm một cái lầm lớn lao nữa là vợ của anh bỏ nhà đi theo một cô t́nh nhân Việt Nam khác đă dan díu từ Việt Nam. (Dù sao đây cũng là một điều an ủi). Bây giờ chuyện cũ đă bỏ qua, cả hai cô t́nh nhân "đồng tính" Việt Nam lâu lâu vẫn đến thăm và mua quà cho chú rể "lầm".

 

Và như vậy th́ nhạc sĩ Lam Phương với bao nhiêu bài ca đồng quê bất hủ, bao nhiêu nhạc t́nh nhân bản, bao nhiêu nhạc lính thơ mộng, lời ca của ông cũng được ghi nhận đă theo chân một người mộ điệu Việt Nam ra ṭa với bản nhạc "Lầm".

 

Trải qua bao nhiêu là dâu bể chiến chinh. Biết bao nhầm lẫn được ghi lại vào lúc cuối đời của người dân di tản. "Anh đă lầm khi anh không đi. Em đă lầm khi em ở lại. Anh đă lầm đưa em sang đây hay là tôi đă lầm theo ông sang đây."

 

Dù sao những nỗi đau thương lầm lẫn của chúng ta vẫn không làm cho người yêu nhạc quên được biết bao nhiêu tựa đề của một thời kỳ rất Lam Phương với Chiều Hành Quân, hay Chuyến Đ̣ Vĩ Tuyến.

 

Qua t́nh yêu, nhạc sĩ đă có các bản rất nổi tiếng như Duyên Kiếp, Ngày Tạm Biệt, Thu Sầu, Trăm Nhớ Ngàn Thương. Với kỷ niệm một thời thơ ấu ở miền quê Kiên Giang, Lam Phương đem đến cho chúng ta Khúc Ca Ngày Mùa kéo măi niềm vui thôn dă dài hơn nửa thế kỷ.

 

Nhạc của Lam Phương đôn hậu, nhẹ nhàng, vui tươi và gần gũi với thính giả miền Nam lại mang vẻ thân thuộc rất gia đ́nh. Tất cả ca sĩ đều cất tiếng dễ dàng với bài ca của ông dù hát đơn ca, song ca hay đồng ca.

Hai trăm ca khúc của Lam Phương bất cứ lúc nào cũng được các ca sĩ lựa chọn và tŕnh bày một cách nhẹ nhàng và dễ dàng chinh phục thính giả.

Nhiều lúc người nghe không thuộc tựa bài ca nhưng khi ca sĩ cất tiếng là lời nhạc tiếp tục tuôn tràn trong kư ức v́ chúng ta đă từng nghe quá nhiều như ca dao của mẹ ru con.

 

Hăy xin nghe lại một lần những câu như sau: "Mất em rồi, xa em rồi, hoa đă tàn, nhụy đă phai .." Đó là lời thở than của Lam Phương. Bây giờ nghe thêm lời than thở nữa: "Đêm nay trăng sáng quá anh ơi, sao ta ĺa cách bởi ḍng sông bạc hai màu .."

 

Chúng ta thấy ḍng nhạc nhẹ nhàng dễ dăi và lời ca đơn sơ mộc mạc. Đó chính là lư do Lam Phương đă chinh phục lớp khán giả rất đa dạng tại miền Nam Việt Nam suốt bao nhiêu năm qua và tiếp tục cho đến nay. Đó là lư do Thúy Nga Paris đă nhiều lần làm chương tŕnh riêng cho nhạc sĩ Lam Phương.

 

Bây giờ chúng ta cần biết thêm một chút về con người của Lam Phương.

 

Lâm Đ́nh Phùng sinh năm 1937 ở làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá.

Năm 10 tuổi từ giă mẹ lên trọ học nhà ông bác ở Tân Định. Định mệnh đưa đứa bé Kiên Giang gặp các ông thầy nhạc sĩ Hoàng Lan, Lê Thương nên có dịp đi vào con đường sáng tác từ lúc 13 tuổi, 14 tuổi. Trong thời kỳ chiến tranh ông có dịp đi từ Bến Hải đến Hà Tiên để cảm nhận hoàn cảnh của quê hương qua một thời để yêu và một thời ly loạn chia tay.

Năm 1975, gia đ́nh Lam Phương là hành khách bất đắc dĩ của con tàu Trường Xuân rồi qua định cư tại Hoa Kỳ. Năm 1981, nhạc sĩ Lam Phương chia tay với kịch sĩ Túy Hồng để lại tâm sự qua nhạc phẩm Một Đời Tan Vỡ.

Sau đó ông qua Pháp làm ăn rồi trở lại California. Năm 1999, ông bị tai biến mạch máu năo liệt nửa thân người và tiếp tục sống c̣n để vượt qua nghịch cảnh.

Giờ đây ông ngồi trên xe lăn, cố sáng tác bằng cây đàn trên tay trái:

 

Với 200 bài ca, bài nào cũng được phổ biến rộng răi trong quần chúng, Lam Phương trở thành nhạc sĩ miền Nam có nhiều tác phẩm nhất.

Hầu như tất cả các ca sĩ đều thành công với nhạc Lam Phương. Nhiều ca sĩ có thể không quen hát nhạc Trịnh Công Sơn nhưng rất dễ dàng đi vào ḍng nhạc Lam Phương. Trong khi đó ca sĩ chuyên nhạc Trịnh Công Sơn như Khánh Ly cũng bước vào nhịp điệu và lời ca của Lam Phương như là các bài hát dành riêng cho cô.

 

Nhạc Lam Phương là Chiếc Áo Bà Ba Hậu Giang may cho tất cả mọi người, mặc được trong mọi trường hợp. Đàn ông, đàn bà, lớn hay nhỏ, vui hay buồn.

Bất cứ ai và bất cứ lúc nào cũng có thể véo von: "Em ơi nếu mộng không thành th́ sao?"

Và bất cứ chỗ nào cũng là "Thôn Quê dưới trăng vàng bát ngát."

 

Nếu biết rằng nhạc sĩ đă tập viết bài ca từ năm 13 hay 14 tuổi th́ có thể coi như hồn nhạc thiên phú đă nẩy mầm từ con người cậu bé làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá từ thuở c̣n thơ ấu. Cái hồn nhạc Kiên Giang của ông đă theo chân giang hồ khắp các nơi ở miền Nam Việt Nam và sau này trên các tiểu bang Hoa Kỳ cũng như các nước Âu Châu.

 

Lam Phương là hiện thân của một nhạc sĩ xuất xứ từ miền quê hương tận cùng của đất nước về phía Tây Nam.

Từ bờ biển Rạch Giá đứng ngó ra Phú Quốc, phía bên phải là Hà Tiên, bên trái là Bạc Liêu, Cà Mau. H́nh thể Kiên Giang là một đất nước Việt Nam thu nhỏ. Quê hương của Lam Phương là miền đất có đủ cả sông nước, núi rừng, đồng bằng và biển cả.

 

50 năm về trước, khi tôi ở tuổi 20 đă có dịp hành quân dọc ngang khắp nẻo Hậu Giang và những địa danh của Kiên Giang vẫn c̣n ghi dấu các kỷ niệm của quê ngoại lũ nhỏ.

Đối với những anh thiếu úy, trung úy Bắc Kỳ các làng xóm Giồng Riềng, G̣ Quao, Tân Hiệp, Kiên Lương, Chương Thiện là những nơi xa lạ nhưng cũng tràn đầy kỷ niệm.

 

Chính nhờ cuộc di cư, nhờ hoàn cảnh chiến tranh đời đời nên mới có những anh sĩ quan Nam Kỳ ra lấy vợ Hà Nội và rất nhiều thanh niên Bắc và Trung đă giao duyên với các cô gái miền Lục Tỉnh.

 

Và bao nhiêu cuộc đời cứ bồng bềnh như lục b́nh trôi theo ḍng nhạc Lam Phương. Khi được biết ông nhạc sĩ hiền lành này quê ở Kiên Giang, chúng tôi ṭ ṃ tra cứu trên hệ thống điện toán mới thấy rằng h́nh như dân Rạch Giá đă lưu lạc bốn phương trời với số lượng khá đông đảo.

 

Trên khắp thế giới, các đô thị tại các vùng đông dân Việt nơi nào cũng có tiệm ăn Kiên Giang, chợ Kiên Giang hay quán cơm Rạch Giá. Ngoài ra c̣n có một số các công ty hải sản mang tên miền quê hương của Lam Phương. Và t́nh cờ cũng là quê của nhà tôi, một thời cũng là nữ sinh Nguyễn Trung Trực vào lúc ngôi trường này mới mở các lớp trung học đầu tiên.

V́ vậy khi viết về Kiên Giang tôi cũng không cần tra cứu nhiều v́ đây là một phần quê hương thứ nh́ và hơn nữa dân Rạch Giá cũng khá đông đảo và vẫn c̣n quyến luyến với làng xưa xóm cũ nên trên báo chí sẵn có nhiều tài liệu.

 

Trong suốt 15 năm từ 1980 đến 1995, người Việt vượt biên từ tất cả các xóm làng ven biển nhưng Rạch Giá là một trong các vùng có nhiều băi đáp nhất. Dân Rạch Giá đă có nhiều cơ hội ra đi dù bằng cách này hay cách khác. Trong những tài sản văn hóa của người sông Kiên đem theo có thể đă bao gồm cả nhạc Lam Phương.

 

Chắc chắn rằng chúng tôi không phải là nhà phê b́nh của thế giới âm nhạc. Khả năng của năng chỉ vừa đủ sức đóng vai một thính giả nhiều khi không đủ duyên nợ để nghe trọn một bài ca. Nhưng giang hồ đó đây trên các nẻo đường đất nước vẫn bất chợt gặp Lam Phương từ trong các thư pḥng đến ngoài công lộ.

 

Ngày xưa gần một năm dài tham dự các chiến dịch Hậu Giang tôi đă có dịp ở gần một pḥng thông tin thị xă Cần Thơ. Từ loa phóng thanh mỗi buổi sáng nhạc Lam Phương đánh thức cả dăy phố. Mở đầu bài "Khúc ca ngày mùa" như một thông lệ mà các sĩ quan trẻ gọi là quốc ca Tây Đô.

 

Với những lời ca theo đuổi anh em nhiều như thế, Lam Phương trở thành một thứ B́nh Nguyên Lộc trong lănh vực âm nhạc miền Nam. Nhạc của ông không phải là dân ca mà theo thiển ư, một thứ nhạc đồng quê, Country Music. Dù ông viết về t́nh yêu th́ cũng tràn đầy t́nh quê. Dù ông viết về binh đoàn th́ cũng vẫn là phảng phất tấm ḷng đôn hậu miền Nam. Dù ông viết về chia ly th́ cũng không bao giờ có nỗi đau tử biệt.

 

Nhạc và lời của Lam Phương phản ảnh cuộc sống hiền ḥa Hậu Giang mà trong đó tấm ḷng người viết nhạc và người nghe nhạc mênh mông như sông nước.

Những đêm ngồi xe đ̣, có anh sĩ quan ba gai trốn trại phải đi qua hai bến phà về Rạch Giá hay qua Châu Đốc thăm người vợ trẻ.

Trăng sáng trên Bắc Mỹ Thuận, trăng theo chân đến Bắc Vàm Cống. Những chiếc radio của bộ hành chuyển từ cải lương qua nhạc Lam Phương thể hiện h́nh ảnh của Chuyến đ̣ vĩ tuyến.

Những ngày đó vẫn c̣n trong kỷ niệm mà không ngờ lời ca Chuyến đ̣ vĩ tuyến c̣n theo chân chúng ta đến tận Thung Lũng Điện Tử ở Hoa Kỳ.

 

Khi viết những hàng chữ, khi nói đôi lời về nhạc Lam Phương không phải chỉ để quảng cáo cho một đêm văn nghệ hay là giúp tác giả bán băng nhạc.

 

Đối với nghệ sĩ tiêu biểu của Hậu Giang vào lớp tuổi 70 th́ nhạc của ông bây giờ đă trở thành một di sản đặc biệt mà sự xuất hiện sẽ mang tính cách lịch sử. Bất cứ lúc nào trong đời sống bấp bênh của chúng ta cũng có thể là lần cuối cùng.

 

Mong rằng mọi người chúng ta khi có dịp là đến với nhạc của Lam Phương, đặc biệt là những người của sông Kiên đang lưu lạc định cư ở lưu vực con sông Sacramento miền Vịnh Cựu Kim Sơn.

Và thêm một lần nữa San Jose chào đón Lam Phương, cậu bé 70 năm trước sinh ở làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá. Ngày nay ngược xuôi t́m giấc mộng xưa. "Nhưng non cao đất rộng biết đâu mà t́m".

Ở vùng đất điện tử Santa Clara, chúng ta cùng với Lam Phương đi t́m tiếng ḥ khoan, tiếng chày khua với những ruộng lúa hai mùa thơm ngát.

 

Với những âm thanh đầy kỷ niệm thời thơ ấu, chúng ta sẽ cùng t́m thấy lại quê hương.

 

 

GIAO CHỈ

[San Jose 2005]

 

(TRAI NAM KỲ sưu tầm, Vntvnd chuyển)

 

website counter