*
Quê Ta Tiếng Người (The Fatherland, The Foreign Tongue. N.Y.
1995). Đây là tác phẩm viết về tâm sự của
một cô gái Mỹ gốc Nhật, Susan Kumagai, thuộc
về thế hệ thứ ba sinh ra và lớn lên trên
đất Mỹ. Cô gái Phù Tang đă thành tài và từng
ấp ủ ước mơ về phục vụ quê
hương. Tâm lư Á châu là một khuynh hướng tâm lư
chuộng chính danh và định phận. Người
nào tiếng ấy rạch ṛi. Nhưng đến
đâu trên quê cha đất tổ, cô ta cũng bị
đồng bào cô nhạo báng, châm chọc và đối
xử một cách đầy xa lạ chỉ v́ cô không nói
đuợc tiếng Nhật, mà chỉ nói được
tiếng Mỹ. Ngay tại ngôi làng tổ tiên Hukaido xa xôi
của cô, nguời dân Nhật b́nh thường vẫn kính
trọng người Mỹ nói tiếng Mỹ, nhưng
lại xa lánh và kỳ thị cô gái Nhật mà lại
chỉ có nói tiếng Mỹ. Sau cùng cô gái phải nghẹn
ngào, vội vàng từ giă quê cha với lời than thở:
Đâu phải lỗi tại tôi! (It's not my fault!).
Thế th́
lỗi tại ai ? Susan cũng như hầu hết các
em bé Việt Nam lớn lên trên đất Mỹ đang quên
hẳn hay quên dần tiếng mẹ đẻ đâu
phải tại lỗi các em. Các em đều lớn lên
như một tờ giấy trắng mà những gịng
chữ đầu tiên do cha mẹ và xă hội thay phiên nhau
viết những gịng kế tiếp. Các em đă quên
tiếng Việt rồi sao? Sao các em lại không biết
cất tiếng chào "Thưa Cô, thưa Bác, thưa
Chị, thưa Anh?". Sao các em không có được
niềm vui ngày Tết và h́nh ảnh con trâu trên đồng
lúa, con sông xanh ở đầu làng, tiếng ru của
mẹ .. có gợi cho em thương nhớ ǵ không? Tất
cả những ǵ đẹp và thiêng liêng trên quê hương
giờ đă xa khuất bên kia trời trái đất.
Suốt ngày ở trường, ba mẹ đi làm quần
quật, có ai giúp cho em gợi nhớ ǵ đâu ?
Lỗi tại ai ?
Thưa, tại tôi, tại
chị, tại anh, tại chú, tại bác, tại tất
cả chúng ta là những người phụ huynh có trách
nhiệm đang quay cuồng vật lộn với cuộc
sống hàng ngày nơi quê người với biết bao
mặc cảm tự hào lẫn chua xót. Rất đông
người Việt lớn rất nhanh với kiến
thức, bằng cấp, thương măi, nghề
nghiệp, trương mục ở ngân hàng nhưng rất
ít người "lớn" theo kịp với đà phát
triển của con cháu chúng ta trong cái xă hội Hoa Kỳ
phức tạp và đa dạng này.
Để góp một phần
rất nhỏ trong việc tŕnh bày, phân tích và nhận
định về sự khó khăn của con em chúng ta trong
việc duy tŕ và sử dụng tiếng mẹ đẻ,
tôi chỉ xin phép bàn đến một vài khía cạnh
rất nhỏ và tiêu biểu trong lănh vực bao la của
ngôn ngữ.
Mặc Cảm Về Ngôn Ngữ
Nếu đôi mắt là cửa
sổ của tâm hồn th́ ngôn ngữ là cửa ngỏ
tư tưởng và t́nh cảm của mỗi con
người. Qua tiếng nói, người ta có thể
gây cảm t́nh, thuyết phục hay chinh phục;
hoặc biểu lộ tŕnh độ hiểu biết và
thân thế một cách dễ dàng.
Xuất thân từ một
đất nước chuộng chữ nghĩa và lời
nói, người Việt Nam chúng ta thường mang mặc
cảm về ngôn ngữ nặng nề như một cái "khẩu
nghiệp".
Tiếng mẹ đẻ bị
phân vùng Trung, Nam, Bắc, cọng thêm mặc cảm nhà quê
hay thành thị đến nỗi "Chưởi cha không
bằng pha tiếng". Thêm vào đó, tác dụng của
tiếng nói c̣n bị phụ thuộc nặng nề vào
đẳng cấp xă hội như "Miệng nhà quan có
gang có thép" và người dân thường th́ phải
chịu "thấp cổ bé miệng".
Tự bản chất, tiếng
nói là một phương tiện truyền thông như
chiếc bè để qua sông. Nhưng với mặc cảm
khá nặng nề về ngôn ngữ, tiếng Việt
thường xuyên bị thử thách trải qua hàng ngh́n
năm lịch sử, với bao nhiêu cuộc bể dâu
của đất nước, hết bị Tàu đô
hộ, đến Tây xâm lăng, chiến tranh trường
kỳ băo liệt. Không ít người Việt đă vội
vàng quay lưng với tiếng nói thân yêu của ḿnh
để vội vàng chạy theo những ngôn ngữ
mới chân ướt chân ráo tiếp thu được khi
hoàn cảnh thay đổi.
Thời cận đại, khi
tiếp xúc với văn hóa Tây phương, tiếng Tây
đă trở thành một thứ ngôn ngữ "cao quư"
đến nỗi cứ hễ nói tiếng Việt mà chêm
vào đuợc tiếng Tây, bất luận là loại
tiếng Tây nào, kể cả tiếng Tây bồi bếp,
bâng quơ .. cũng được liệt vào hạng "văn
minh" và "thông thái"!
Trong giai đoạn này, đă có
rất nhiều người Việt Nam theo "Tây học"
đă công khai chối bỏ tiếng nói thân yêu của
tổ quốc, để chế nhạo, khinh miệt và
vùi dập ngôn ngữ Việt Nam như là một thứ
tiếng thấp hèn, nghèo nàn, lạc hậu, vay mượn
và thiếu sức sống (!).
Khi qua Mỹ, mặc cảm ngôn
ngữ tuy không c̣n gay gắt trong một xă hội đa
chủng v́ tiếng Anh được chọn làm ngôn
ngữ tiêu chuẩn (official language), tiếng Việt
chỉ c̣n là phương tiện riêng tư giữa
người Việt với nhau. Thế nhưng cái
mặc cảm đó vẫn cứng đầu, ló mặt
thường xuyên trong cuộc sống Việt-Mỹ hàng
ngày. Tôi đă từng gặp trong lớp học,
nơi hội hè ở nhiều nơi những t́nh huống
buồn cười một cách xót xa khi một người
Việt mới đến xứ nầy nhưng đă nói
được tiếng Anh một cách lưu loát th́
người ta cho đó như một điều
đương nhiên chẳng ai để ư. Nhưng
ngược lại, một người Mỹ học
tiếng Việt lâu ngày mà nói được một câu
tiếng Việt trọ trẹ th́ mọi người
lấy làm cảm kích và vỗ tay bôm bốp. Tiếng
Việt như một con bệnh nằm liệt
giường lâu ngày, nay có người tốt bụng
vực dậy làm mọi người hồ hởi.
Thái độ tiêu cực v́
mặc cảm tự ti về ngôn ngữ Việt Nam đă
bị thực tế hùng hồn đánh bạt. Với
sức sống tự cường của hàng ngh́n năm
lịch sử, tiếng Việt Nam, qua những
người con ưu tú, đă chững chạc vươn
lên bằng một h́nh thức văn tự mới với
những phong trào chữ Nôm và Quốc ngữ. Những công
tŕnh sáng tác và biên khảo bằng tiếng Việt thuần
túy đă phôi thai, khôn lớn và trưởng thành theo sự
lớn mạnh và trường tồn của lịch
sử dân tộc. Nh́n về lịch sử và văn hóa dân
tộc, so với tất cả các nước lân bang ở
Á Châu, chúng ta có quyền tự hào về sự phong phú
của gia tài ngôn ngữ Việt Nam.
Từng bước một,
tiếng Việt đă chiến thắng những loại "chuyển
ngữ" Tàu, Tây để đi vào ḷng dân tộc. Tùy theo
sự phát triển cùng yêu cầu của từng giai
đoạn, tiếng Việt đă tự chứng tỏ
khả năng mềm dẻo, bao la, phong phú và da dạng
trong mọi lănh vực văn chương, khoa học xă
hội và khoa học thực nghiệm.
Trở lại với hiện
thực tiếng Việt trên đất Mỹ, chúng ta không
thể chối căi rằng, bên cạnh tiếng Anh, mặc
cảm tự ti (cũng có thể là tự tôn nhưng
rất hiếm) về tiếng Việt vẫn c̣n ám
ảnh một cách nặng nề trong cộng đồng
người Việt như hồn ma Đạm Tiên cứ
đeo đẳng măi Thúy Kiều. Xuất phát từ
mặc cảm tự ti về tiếng Việt
trước thế mạnh của tiếng Anh, kết
hợp với kinh nghiệm xót xa về sự bất
đồng ngôn ngữ trên bước đường
tỵ nạn, phụ huynh chúng ta ai cũng muốn con em
ḿnh cần phải học tiếng Anh càng nhiều, càng
nhanh, càng tốt. Đồng thời cũng đă có
rất nhiều phụ huynh đă dùng sai "đơn
vị đo lường" khi căn cứ trên khối
lượng và tốc độ nói tiếng Anh của con
em ḿnh nói với nhau hàng ngày (không kể là nói ǵ và nói thế
nào) để đánh giá khả năng và tŕnh dộ
học tập của con em ở trường học.
Tiếng Việt do đó đă trở thành một
người bạn lỗi thời "Vắng mợ th́
chợ cũng đông, mợ đi trong Quảng ai trông
mợ về".
Thái độ và phản ứng
của phụ huynh đối với vấn đề
tiếng Việt của con em tuy có khác nhau về hiện
tượng nhưng bản chất cũng chỉ là
một. Ai cũng nóng ḷng mong muốn, dù phải hy sinh
nhiều giá trị quư báu, cho con em ḿnh khôn lớn,
được học tập thành tài, và tạo
đuợc một thế đứng vững vàng trong xă
hội Mỹ. Nếu chúng ta tạm đồng ư với nhau
trên quan điểm "tất cả v́ thế hệ
trẻ con em của chúng ta" đó, hăy thử tiến xa
thêm một bước nữa để bàn về mối
quan hệ giữa tiếng Việt và khả năng
học tập của con em chúng ta. Vấn đề không
c̣n nằm ở mức độ chủ quan và cảm tính
v́ "cha thích, mẹ thích, con thích, hay dân tộc Việt Nam
thích" nữa, mà cần phải căn cứ vào
những dữ liệu khách quan của các cuộc kiểm
nghiệm và nghiên cứu về ngôn ngữ gần đây
để tŕnh bày và thảo luận.
Tiếng Việt và
Trí Thông Minh.
Dù muốn hay không, người
Việt trên đất Mỹ vẫn đương nhiên
được xem là nhóm dân tộc thiểu số và
tiếng nói vẫn thuộc về lănh vực Song Ngữ
Việt-Mỹ. Nếu chúng ta chỉ dùng tiếng Mỹ
để thay thế hẳn cho tiếng Việt th́ ở
vào trường hợp Song Ngữ Loại Trừ
(Subtractive Bilingualism), nghĩa là cái gốc vẫn là song
ngữ nhưng khả năng đă mất đi tiếng
mẹ đẻ; hoặc dùng song song tiếng Việt và
tiếng Mỹ th́ ở trường hợp Song Ngữ
Cộng Hưởng (Additive Bilingualism).
Thật ra, Mỹ là quê
hương của dân di cư, cho nên vấn đề Song
Ngữ (Bilingual) và Đa Ngữ (Multi-lingual) đă
được đặt ra gần một thế kỷ
này. Rất nhiều nhà chính trị và giáo dục Mỹ
từ những năm đầu của thập niên 1900
đă băn khoăn trước vấn đề: "Một
đứa trẻ học cùng lúc hai thứ tiếng sẽ
có kết quả tốt hơn hay dở hơn so với
đứa trẻ chỉ học độc nhất
tiếng Anh?". Trong lúc thực tế đă có đến
46.5 triệu người (chiếm 17.5% toàn dân số
Mỹ) có tiếng mẹ đẻ không phải là tiếng
Anh hiện diện trên đất Mỹ (Wagoner 1996). Đă
có tới hàng trăm cuộc nghiên cứu và qua nhiều
cuộc hội nghị, thảo luận, tranh luận ..
ở nhiều tầm mức địa phương,
quốc gia và quốc tế để t́m câu trả lời
thỏa đáng cho câu hỏi này. Bên cạnh những dư
luận chống đối về sự hiện diện
của chương tŕnh song ngữ v́ đặt nặng
tính chất chính trị và kinh tế hơn là tính chất
văn hóa hay giáo dục của vấn đề, các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ và giáo dục trên khắp thế
giới đă mở ra nhiều chương tŕnh giáo
dục thí nghiệm khác nhau để xác định
một cách khoa học và thực tiễn tác dụng của
hai thứ tiếng cùng một lúc đi vào trí óc của các
em. Những công tŕnh nghiên cứu nổi tiếng và gần
đây nhất được kể đến là: Tại
Ontario và nhiều nơi ở Canada (do Liedtke và Nelson thực
hiện năm 1968; Bain 1974; Cummins va Gulustan năm 1974).
Tại Thụy Sĩ (Balkan 1970) , Do Thái (Ben-Zeev 1977), Nam Phi
(Janco-Worrall 1972), Mỹ (Ben-Zeev 1977; Duncan và De Avila 1979).
California (O'Malley, J.M. 1992; National Society for the Study of Education
1994, 1996, 1997). National Clearinghouse for Bilingual Education 1984, 1992,
1997) .. kết quả những công tŕnh thăm ḍ và nghiên
cứu này đă rất thống nhất trên luận
điểm cơ bản rằng: "Khả năng song
ngữ hoàn toàn không có tác hại ǵ trong khả năng
nhận thức và học tập của học sinh trong nhà
trường và ngoài xă hội; ngược lại, khả
năng song ngữ giúp học sinh trở thành đa
dạng và phong phú hơn trong hầu hết
các môn học."
Giáo sư Kenji Hakuta của
đại học Yale đă đi vào cụ thể hon
bằng cách chọn nhiều h́nh thức trắc nghiệm
cho học sinh hai nhóm Song Ngữ và Đơn Ngữ trong
nhiều năm đă đi đến kết luận
rằng: "Chọn một nhóm học sinh biết nói hai
thứ tiếng để thi đua với một nhóm
học sinh khác chỉ biết một thứ tiếng, cùng
lứa tuổi, cùng tŕnh độ, cùng hoàn cảnh xă
hội, cùng điều kiện sinh hoạt như nhóm kia.
Xong rồi, chọn một biện pháp để đo
khả năng nhận thức áp dụng chung cho cả hai
nhóm. Kết quả: nhóm song ngữ đạt
được luôn luôn sẽ tốt hơn." (Hakuta.
Mirror of Language 1986. Tr. 35).
Cùng nhận xét như trên, hai nhà
nghiên cứu về sự quan hệ giữa khả năng
song ngữ và trí thông minh, tại Canada là Elizabeth Pearl và
Wallace Lambert (1982) sau nhiều công tŕnh t́m ṭi đă phấn
khởi nhận xét: "Một đứa trẻ có sự
hiểu biết về cả hai ngôn ngữ và hai nền
văn hóa có được nhiều thuận lợi
hơn là một đứa trẻ chỉ biết
một ngôn ngữ và một cách sống. Về
phương diện trí thức, sự hiểu biết
cả hai hệ thống ngôn ngữ dường như
đă lưu lại cho nó một sự phóng khoáng về trí
óc, một sự ưu tú về tư tưởng và
khả năng phong phú đa dạng của lư trí. Trái lại,
đứa trẻ chỉ biết một ngôn ngữ th́
những yếu tố cấu tạo trí thông minh của nó
đơn thuần và hạn hẹp hơn" (Lambert, W.E.
và E. Anisfield. 1969. A Note On the Relationship of Bilingualism and
Intelligence).
Sự Quan Hệ
Mật Thiết Giữa Tiếng Việt và Tiếng
Mỹ.
Phụ huynh vẫn thường
suy nghĩ đơn giản là cho dù con em ḿnh có giỏi
tiếng Việt cũng chẳng có lợi ǵ cho việc
học tiếng Mỹ tại trường. Thực tế
khoa ngôn ngữ học đă chứng minh ngược
lại. James Cummins khi bàn về sự liên hệ giữa
tiếng mẹ đẻ (tạm ghi kư hiệu là L1:
Tiếng Việt và ngôn ngữ thứ hai, L2: Tiếng
Mỹ) đă hoàn toàn bênh vực cho khuynh hướng
hiện đại và thực tiễn của các nhà ngôn
ngữ học khi chứng minh rằng: Có những
điểm chung nhất nằm giữa L1 và L2. Những
kiến thức đă học trong L1 có thể
đương nhiên được chuyển qua cho L2 mà
khỏi cần bắt đầu học lại. Ví dụ:
trường hợp một học sinh vốn đă thông
thạo tiếngViệt khi học tiếng Anh sẽ
rất nhanh so với một người bạn Việt
Nam khác vốn rất kém cỏi tiếng Việt cùng
bắt đầu học Anh văn và ngược lại.
Nói một cách cụ thể hơn, ví như khi một
học sinh Việt Nam đă hiểu được khái
niệm của từ "Dân chủ" trong tiếng
Việt chẳng hạn, nếu khi học tiếng Mỹ
th́ chỉ cần chuyển thành "Democracy" mà khỏi
cần phải học lại từ đầu toàn bộ
ư nghĩa và khái niệm của từ nầy. Tương
tự như thế, tất cả kiến thức,
nghệ thuật, khái niệm học được trong
tiếng Việt hoặc tiếng Anh đều có sự
tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau. Quan
điểm "Sự thông thạo nằm riêng giữa hai
ngôn ngữ" (The Separate Underlying Proficiency Model of Bilingual
Proficiency) (Xem H1) đă không thể đứng
vững trước thực tế: Có "Sự thông
thạo nằm chung giữa hai ngôn ngữ" (The
Common Underlying Proficiency Model of Bilingual Proficiency) (Xem H2 và H3. -
Cummings: Schooling and Language Minority Student: A theoretical Framework. Tr.
23 và 24).
Thêm những bằng chứng
rất thực tiễn đă diễn ra trong tập thể
người Việt tại Mỹ trong những năm
gần đây, đó là trường hợp thành công của
đại đa số các con em "H.O" trong nhà
trường của Mỹ. Rơ ràng là các em qua Mỹ vào
độ tuổi trưởng thành, nên không có sự
chọn lựa nào khác hơn là phải sử dụng song
ngữ, nói cùng lúc hai thứ tiếng Việt và Mỹ song
song. Thế nhưng trong học vấn, phần đông các
em đă tận dụng được kiến thức
đă học được từ trong tiếng Việt,
chuyển sang tiếng Mỹ một cách vô thức hay
hữu thức. Những học sinh, sinh viên Việt Nam
mới qua không những "sống c̣n" mà sống
mạnh, sống hùng trong môi trường tiếng Mỹ.
Đưa ra một vài dẫn
chứng nhỏ để nói lên sự suy nghĩ của
chúng tôi rằng, việc khuyến khích các em học
tiếng Việt không phải là v́ "thể diện"
gia đ́nh hay danh dự hăo huyền hoặc muốn làm vui
ḷng bà con Việt Nam với nhau mà chính là v́ quyền
lợi lâu dài của con em chúng ta.
Bất cứ xă hội nào, cha
mẹ và người thân luôn luôn là những người
thầy đầu đời để giáo dục không
ngừng về phong cách sống mà c̣n giáo dục cả
một khối lượng kiến thức khổng
lồ về mọi mặt. Từ một bài hát, câu ḥ
đến những câu chuyện cổ tích, một lời
nói khôi hài, một vài nhận xét khen chê trong cuộc sống
sẽ là những bài học có giá trị cho con em sau này.
Nếu con em chúng ta không có khả năng về tiếng
Việt tức là phụ huynh đă vô t́nh từ
khước cái vai tṛ thầy giáo trong buổi b́nh minh làm
người của các em rồi đó.
Trong các công tŕnh nghiên cứu
xuất bản năm 1986, 1994 đề cập đến
sự thành công và thất bại trong trường học
của nhóm học sinh thiểu số, giáo sư John U. Ogbu
của trường Đại Học Berkely và giáo sư
Maria Eugenia Matute-Bianchi của đại học Santa Cruz
đă phân tích và nhận định về nhóm thiểu
số thất bại thê thảm nhất trong trường
học đó là nhóm học sinh người Mễ và nhóm
thiểu số thành công trong trường học đó là
nhóm học sinh người Trung Hoa. Giải thích về
nguyên nhân thành công của nhóm học sinh Trung Hoa trên
đất Mỹ, tác giả đă đưa ra những nét
tiêu biểu như sau:
1. Người Tàu đă mang theo
truyền thống văn hóa sang đất Mỹ: Hiếu
học, tôn trọng sự học vấn, tự hào về
nền văn hóa dân tộc của ḿnh.
2. Sự ảnh hưởng
sâu đậm của gia đ́nh: Cha mẹ hy sinh tất
cả cho con cái được ăn học và ngược
lại con cái biết vâng lời, kính trọng và cố
sống xứng đáng với t́nh thương của cha
mẹ khi c̣n đi học cũng như khi đă ra
đời.
3. Ảnh hưởng nền giáo
dục gia đ́nh, học sinh Trung Hoa vào trường
biết vâng lời, kính trọng thầy giáo và người
lớn tuổi, có tinh thần trách nhiệm nên phần
đông được thầy giáo và nhân viên nhà
trường quư mến và tận tâm giúp đỡ.
4. Mặc dầu chữ Tàu và
chữ Anh hoàn toàn khác biệt, ngôn ngữ gia đ́nh
thường là tiếng Tàu, cách học ở Mỹ khác
hẳn ở Trung Hoa nhưng với sự thông minh,
nhạy bén, và cần cù, học sinh Tàu đă làm hết
sức ḿnh để vượt qua những khó khăn
để đạt những thành tựu xuất sắc
trong trường học. (Beyond Language: Schooling Language
Minority Student. 1986. Tr. 73-134).
Chúng ta thấy những yếu
tố căn bản giúp học sinh Tàu thành công th́ cũng là
những nét quen thuộc của phụ huynh và học sinh
Việt Nam. Chúng ta sẽ khỏi lấy làm tiếc
về sau nếu phụ huynh tăng cường nền
giáo dục gia đ́nh và giúp cho con em biết tự hào
về truyền thống văn hóa Việt Nam qua việc
học và duy tŕ tiếng Việt.
Từ "Melting Pot"
và "Salad Bowl" đến kết luận.
Có nhiều học sinh và sinh viên
Việt Nam chỉ thích làm người Mỹ. Vâng,
điều này rất đơn giản v́ chỉ cần
năm năm thường trú không phạm pháp trên
đất Mỹ là các em đă trở thành "người
Mỹ" được rồi. Nhưng nếu các em
muốn từ "Vietnamese-American" biến thành "Anglo-American"
th́ đó chỉ là ư nghĩ viễn mơ không biết ta
mà cũng chẳng hiểu người. Lịch sử
xă hội đă cho thấy rằng, cách đây hơn
một nửa thế kỷ, các nhà xă hội học Hoa
Kỳ đă đồng ư với thuyết "Melting Pot"
nghĩa là nền văn hóa ưu việt của
người Mỹ-Anglo sẽ đồng hóa tất cả
nền văn hóa của người di dân vào đất
nước này trong "cái nồi xúp nóng chảy"
đó. Nhưng qua thực tế, tượng Nữ
Thần Tự Do vẫn đứng song song với Vạn
Lư Trường Thành. Rặng núi Rocky Mountains không cao hơn
nổi Hy Mă Lạp Sơn và những gịng sông Mississippi, Hoàng
Hà, Cửu Long vẫn cứ theo gịng riêng tư chảy hoài
ra biển, nên dân tộc nào vẫn
giữ nguyên nền văn hóa của dân tộc đó trong
cái đất nước tự do và hiệp sĩ này.
Bởi vậy, v́ thấy thuyết "Melting Pot" không
có tác dụng nên một thuyết khác ra đời, đó là
thuyết "Salad Bowl".
Thuyết này mô tả và chấp nhận xă hội Hoa Kỳ
như dĩa xà lách: Có rau có trứng, có tiêu, muối,
tỏi, ớt, hành, vị tinh, nước xốt ..
Mỗi thứ mang một tính chất độc đáo
riêng biệt. Đây là h́nh ảnh biểu trưng của
một xă hội Hoa kỳ gồm nhiều dân tộc khác
nhau, có riêng nền văn hóa, sống chung ḥa b́nh để
góp phần xây dựng xă hội. Tôi không hiểu trong dĩa
xà lách này, dân Việt Nam đóng vai ǵ trong đó ? Là rau ? Là
muối ? Là tiêu ? Là hành ? Nhưng chắc chắn chúng ta
không thể nào biến thành một thứ "siêu nhân"
bay vù vù một ḿnh trên đầu các dân tộc khác như
trong phim Superman được. Nếu chúng ta là muối ?
Th́ tất nhiên chúng ta phải mặn. Nếu
chúng ta là người Việt Nam ? Th́ phải biết nói
tiếng Việt Nam. Muối không mặn: Là
muối giả ! Người Việt Nam không biết nói
tiếng Việt: Chỉ c̣n là mảnh h́nh hài Việt Nam
ngoài vỏ. Nếu chúng ta không thể xác định ḿnh là
chất ǵ trong dĩa xà lách Hoa Kỳ, không lẽ ta là con ruồi
hay cọng rác cần phải vất đi sao ?
Câu trả lời đă hiện rơ
nét ngay trong câu hỏi.
TRẦN KIÊM
ĐOÀN
(Sưu Tầm Liên Mạng
chuyển )