|
LÁ THƯ HAY NHẤT
TRONG NĂM (Văn Quang 7) Trước hết xin mời
độc giả đọc lá thư sau đây để
cảm nhận những xúc động thấm thía t́nh
người và cũng để lấy hên trong năm
mới 2006: Lá thư thứ
nhất Kính gởi ông Văn Quang, Tôi năm nay 75 tuổi, qua Canada
sống trên 15 năm rồi, tôi ít học. Quê miền
Hậu Giang lên Saigon học không đến đâu, bỏ
lên Biên Ḥa làm công, nghèo lắm, nhiều bữa không tiền
ăn điểm tâm phải ăn nhúm muối rồi
uống nước cho no bụng. Nay sang Canada nhờ chút
tiền trợ cấp tuổi già, ngồi nhớ quê
hương nhưng yếu quá không thể về thăm quê
được. Đọc báo thấy ông viết
bài trang "Quê hương những điều trông
thấy" (ở những báo khác, bài này mang tên Lẩm
cẩm Sài G̣n Thiên hạ sự - Tác giả) tả nhiều
cảnh thương tâm của đồng bào nghèo sống
nơi khỉ ho c̣ gáy, thiếu ăn thiếu mặc, nên
tôi rất đau ḷng, trong khi kẻ quan quyền con ông cháu
cha vung tiền không tiếc. Đă từng sống trong
cảnh đói khát lúc thiếu thời, tôi rất cảm
thông hoàn cảnh của đồng bào Lộc Ninh - nơi
ông thường đề cập - nên tôi mạo muội
gởi thơ này đến ông nhờ ông giúp đỡ, là
tôi sẽ gởi tiền về cho ông, nhờ ông xem
những ai thực sự nghèo khó, ông dùng tiền này giúp
đỡ cho họ, nhiều ít tùy ông định liệu.
Tôi v́ già yếu không thể về thăm ông và bà con,
vậy mọi việc tôi thành thật kính nhờ ông thay
mặt lo hộ giùm, với điều kiện là ông
đừng cho bà con biết tôi là ai. Làm được
việc thiện này là tôi cảm thấy rất sung
sướng trong ḷng. Của ít ḷng nhiều, một gói khi
đói bằng một gói khi no. Sở dĩ tôi biết
địa chỉ điện thư là nhờ xem bài
"Huy Quang - Vũ Đức Vinh, Hai con người:
Một nhân cách lớn". Nếu nhận được
thư này và ông bằng ḷng thay mặt tôi nhận tiền
xin ông vui ḷng cho biết địa chỉ người và
nơi nhận tiền, tôi sẽ gởi tiền
đến ông. Địa chỉ Email: .. Thành thật cám ơn ông
trước và chúc ông và quư quyến an khang, thịnh
vượng và vạn sự may mắn. Người gửi: .. Hamilton, Ontario Canada Thư thứ hai Thân mến kính gởi Ông Văn
Quang, Tôi đă gởi đến Ông
Một ngàn đô Canada ($1,000.00 CAD) qua địa chỉ của
Bà Lành nhờ chuyển giao (Phiếu gởi số ngày
31-12-2005). Xin thú thật, với số tiền nầy tôi
cho là quá ít, nhưng khả năng của tôi chỉ có
bấy nhiêu, đó là tất cả tiền chánh phủ
trợ cấp trọn tháng 12/2005 mà tôi xin gởi hết
để tặng cho bà con nghèo khó. Ước ǵ tôi là triệu phú th́
tôi phải gởi bạc triệu mới toại ḷng
đối với bà con nghèo. Thú thật, hằng đêm tôi
cầu xin ơn trên cho tôi chiêm bao thấy số
được trúng số, nhưng không hy vọng, v́
bản thân tôi không bao giờ cầm đến lá bài,
uống rượu - dù bia -, café và hút thuốc. Hiện tôi
cũng đang mắc bệnh suy thận (c̣n hoạt
động 50%), cao huyết áp, suy tim và sưng khớp,
phải uống thuốc hằng ngày. Ăn kiêng, chỉ
ăn cá hồi, ngừ, thu, ṃi, đậu nành, rau cải
và trái cây, thỉnh thoảng mới ăn chút ít thịt
nạc heo, ức gà mà thôi. Đối với bản thân, tôi
rất tiết kiệm, nhưng việc nghĩa th́ tôi
mở rộng ṿng tay. Nói ra Ông đừng cười,
từ ngày qua Canada trên 15 năm, tôi chưa bao giờ
tốn tiền hớt tóc. Mua 1 Tondeuse cho bà xă cắt
mỗi 3 tháng 1 lần, già rồi xấu đẹp ai
cười phải không Ông ? Vả lại tôi cũng ít khi
ra đường đi đâu, ngoài mỗi thứ sáu
đến cửa hàng điện tử xem các loại máy
cho khuây khỏa. C̣n việc Ông định sẽ
báo cho tôi biết theo thủ tục mà Ông nói, thật ra tôi
không nghĩ đến v́ tôi hết ḷng tin tưởng Ông
qua các bài viết Ông gởi đăng trên báo, v́ tôi nghĩ
Ông cần tranh thủ thời giờ để soạn bài
viết cho các số báo hằng tuần, nhưng Ông
muốn như vậy, tôi cũng đành chịu thôi.
Đọc văn biết người, và mong rằng
dịp nầy Ông và tôi sẽ c̣n gởi điện thư
liên lạc thường xuyên với nhau. Ông ơi, hy vọng nếu
sức khỏe tôi cho phép kéo dài thêm cuộc sống, mỗi
năm tôi cũng sẽ gởi ngần ấy tiền
đến Ông để nhờ Ông giúp đỡ cho bà con
nghèo ở Lộc Ninh để họ vui hưởng cái
Tết và mùa Xuân vui vẻ. Cuối thư tôi cám ơn Ông
nhiều và chúc Ông cùng quư quyến luôn an khang và hạnh phúc. NTP Hamilton, Ontario Canada *** Thưa bạn đọc, Tôi không biết các bạn nghĩ
ǵ khi đọc hết hai lá thư này. Nhưng điều
đầu tiên tôi muốn nói lời xin lỗi đến
ông (ông ǵ nhỉ, thôi th́ tôi cứ tạm lấy cái tên
tắt NTP để có tên mà thưa gửi), vâng, ông NTP, xin
vui ḷng tha thứ cho tôi v́ "tội" công bố lá
thư này trên báo. Tôi hiểu rất rơ một người
yêu cầu "ông đừng cho bà con biết tôi là ai"
th́ cũng chẳng bao giờ muốn tên tuổi trưng
lên cho mọi người cùng biết. Nhưng quả thật
điều đó làm tôi suy nghĩ rất nhiều
trước khi viết bài này. Tôi đă không nêu rơ tên
thật của ông như ư ông muốn, nhưng c̣n công
việc ông làm, hoàn cảnh của ông từ khi c̣n ở VN
cho đến khi định cư ở nước ngoài,
t́nh cảm ông dành cho người nghèo .. tôi nhận thấy
đó là một "nhân cách lớn" cũng như ông
Vũ Đức Vinh mà ông đă đọc trong bài của
tôi. Hai nhân cách ấy của người Việt chúng ta,
chắc chắn là c̣n rất nhiều và dù ở đâu
cũng là tấm gương sáng rực rỡ cho bất
cứ ai, tôi thấy không thể không đề cập
đến. Thú thật là tôi và mấy
người bạn già của tôi đă có người không
cầm được nước mắt khi
được đọc hai lá thư này của ông. V́ vậy
tôi muốn cùng bạn đọc chia sẻ nỗi xúc
động này. Vinh danh hay đề cao ông, chắc chắn
là điều không bao giờ ông nghĩ tới và tôi cũng
vậy, không với mục đích "vinh danh" hay
"đề cao" mà chỉ v́ "không thể không nói
ra" những điều ḿnh suy nghĩ, ḿnh nhận
được từ tấm ḷng nhân hậu đặc
biệt, rất đáng kính trọng như thế. Tôi hy
vọng bạn đọc của tôi, cũng sẽ vui khi
đọc những thông tin như thế này. C̣n hơn là
đọc những tin tức bất b́nh đến
phẫn nộ của bọn tham quan ô lại đầy
rẫy trong xă hội VN hiện nay. Mong rằng ông không giận tôi v́
cái "tội" này. Tôi sẽ tuyệt đối tôn
trọng điều kiện duy nhất của ông là không
tiết lộ tên ông với đồng bào được
ông giúp đỡ, nhưng tất nhiên tôi phải nói với
họ đó là của một ông già ở Canada gửi
về tặng đồng bào để người dân
hiểu rơ tấm ḷng của đồng bào xa quê
hương của ḿnh. Có tiền mang
tặng cũng không dễ Ngày 5-1-2006 tôi lên xe trở về
Lộc Ninh, tưởng chưa thể nhận
được món tiền đó của ông NTP, nhưng
rất may là bà hàng xóm - người vẫn trông coi nhà
cửa ở Sài G̣n giúp tôi - đă nhận được
tiền và ngay lập tức, bà đă cho người em
ngồi xe ôm ra tận bến xe trao cho tôi một ngàn đô
la Canada. Cầm trên tay những tờ giấy bạc
mới cứng mà ḷng bùi ngùi quá. Tôi tưởng đang nh́n
thấy h́nh ảnh ông NTP trên những tờ giấy
bạc đó, một ông già đang ngồi ung dung
sưởi nắng để bà vợ cắt tóc cho ḿnh. Người
đàn bà VN cắm cúi trên mái tóc bạc trắng của
chồng, họ vừa làm việc vừa thủ thỉ
tâm t́nh bên những đóa hoa xuân mới nở trong
vườn hoặc trên hàng hiên .. Ôi cái cảnh ấy sao mà
t́nh tứ đến thế. Cứ như đôi chim vành
khuyên đậu trên "cành Bắc nhớ trời Nam"
vậy. Nếu ông bà ấy biết rằng giờ này
ở VN tôi đă nhận được món tiền của
hai ông bà dành dụm để chuẩn bị mang
đến với người nghèo, có lẽ cả hai ông
bà sẽ vui hơn và khi món tiền ấy đến tay
người nghèo, ông bà NTP sẽ c̣n hạnh phúc hơn
nữa. Cũng cần phải kể thêm
rằng khi nhận tiền rồi, tôi c̣n chưa biết
sẽ đổi được ra bao nhiêu tiền VN.
Về đến Lộc Ninh, tôi vội gửi ngay e-mail cho
ông TTP để báo tin và nhảy vào internet xem tỉ giá
ngoại tệ là bao nhiêu. Lúc đó tôi mới biết rằng
giá đô la Canada có giá trị gần bằng đô la Mỹ
ở VN. Nếu hôm nay 100 đô la Mỹ đổi
được 1triệu 591 VNĐ th́ Đô la Canada
đổi được 1 triệu 349VNĐ. Tổng
cộng tôi sẽ có hơn 13 triệu đồng
để "toàn quyền" chia cho bà con nghèo. Thú thật với các bạn,
đây lại cũng là bài toán đau đầu cho tôi. Trong
những ngày vừa qua đă có một phái đoàn của
hai tờ báo bên Úc về tặng quà cho đồng bào nghèo
ở xă Lộc Thái này rồi. Tôi kiếm ra vài chục
người nghèo khổ hơn những người khác,
quả là khó khăn chứ không phải chuyện dễ
dàng ǵ. Phát cho người này mà không phát cho người nghèo
hơn th́ tôi cảm thấy có tội. Và tất nhiên
nếu họ "khiếu nại" th́ tôi không biết
sẽ phải xử trí ra sao. V́ thế cần phải có
một danh sách chính xác. Ngoài những người mà gia
đ́nh tôi đă biết như bà-lượm-ve-chai đang
phải húp cháo trừ bữa, anh thợ-làm-vườn
nhưng mùa mưa thất nghiệp nên làm phụ bất cứ
thứ thợ ǵ, có cô vợ vừa sinh mà không có tiền,
phải đi xin từng nhà trong dịp Tết Tây vừa
qua .. c̣n những ai nữa ? Bỗng nhiên tôi thấy với món
tiền khá lớn của "cái nhà ông này" sao mà
khiến tôi "lo" đến thế. Có phải là
sự thận trọng hơn những việc khác không ?
Tôi không rơ, nhưng tôi cứ thấy cần phải rất
thận trọng. Nếu cho lầm, bỏ sót là có tội
với ông bạn già của tôi. (Không biết từ bao
giờ, tôi cứ mạo muội nhận vơ ông này là
bạn ḿnh). Tôi đem mọi việc ra nói với mẹ
con bà Thụy Vũ, những người đă có 30 năm
đau khổ và trưởng thành ở cái xứ này,
để xin ư kiến. Bàn măi, cuối cùng chúng tôi bàn nhau
giúp cho một xóm nghèo, từ bao đời nay phải xài
nước suối, thường là đục lờ
lờ, khi cạn queo th́ xách can đi hàng năm bảy cây
số để mua nước về dùng. Trẻ con th́
suốt ngày chỉ mặc áo, không mặc quần v́ không có
quần để mặc. Có những lúc suối chỉ c̣n
lại vài vũng nước, người ta phải chắt
lọc từng lon mang về dùng tạm, trẻ con th́
đôi khi gục đầu xuống tắm rửa
được phần nào hay phần nấy .. Có những
mùa khô hạn như năm vừa qua, trồng
được cây nào chết cây đó. Cả xóm kéo nhau
đi làm thuê. Có lẽ niềm mơ ước muôn
đời của họ chỉ là có được
một cái giếng nước trong, dùng hàng ngày. Những tính toán
rắc rối ban đầu Nếu thuê thợ khoan cho một
cái xóm nào đó một cái giếng th́ từ nay suốt
đời họ sẽ được uống
nước trong, nước sạch. Như thế có
lợi hơn đem quà phát cho từng người. Những cái xóm nghèo đó đă quá
quen thuộc với mẹ con bà Thụy Vũ và những
người hàng xóm v́ đời sống của họ
nhờ vào nương rẫy ở tuốt trong rừng xa.
Nhưng chọn xóm nào "nghèo nhất, nghèo nh́" th́
chẳng dễ dàng chút nào. Chọn được một
xóm nghèo nào cần có nhu cầu nước sạch hơn
những nơi khác th́ phải đi đến tận
nơi "khảo sát thực tế" mới xác
định được. Rồi những vấn đề
liên quan khác lại phải đặt ra. Cứ gọi là
khoan cái giếng sâu vài chục thước, mất
đứt 10 triệu hoặc hơn một chút. C̣n
tiền xây giếng cũng chẳng đáng là bao. Nhưng
quan trọng hơn, đó phải là nơi có lưới
điện để chạy máy bơm hỏa tiễn
từ độ sâu vài chục mét lên. Thứ hai là lại
phải t́m được người "quản lư"
cho chạy máy bơm, chịu trách nhiệm bảo quản,
khi máy hư hỏng, ai sẽ là người sửa
chữa? Thứ ba là hàng tháng phải trả tiền
điện chứ sức mấy mà ông nhà đèn của nhà
nước cho không, Không những phải trả tiền
điện mà c̣n bị "bóp" đau nữa là khác.
Ở nông thôn, rừng rú, song vẫn bị tính tiền
điện theo kiểu thành phố chứ không
được tí ưu tiên nào như "chính sách của
nhà nước đă đề ra". Nếu theo đúng
"chính sách" th́ ưu tiên tính giá điện rẻ cho
bà con nông thôn có điện để bơm nước cày
cấy. Nhưng "chính sách là chính sách" mà thực
hiện lại là việc khác, hoàn toàn khác. Thế nên dù
ở làng xă vẫn bị tính tiền điện theo
kiểu thành thị. Nỗi khổ của dân chẳng chính
phủ nào biết. Chính sách ra đối với quan
dưới chỉ là .. cho đẹp vậy thôi. Các quan
ngành điện, nước, thuế má .. muốn tính sao
dường như là .. quyền của họ. Vậy hàng tháng ai sẽ trả
tiền điện ? Người dân có thể trả theo
kiểu dùng bao nhiêu trả bấy nhiêu, nhưng có khi họ
chỉ lấy vài ba thùng nước, chạy máy có 10-15 phút,
rồi hết nhà này đến nhà khác th́ lại cần có
một người làm thư kư. Chi bằng đă lo
được cho bà con th́ phải tính luôn chuyện
trước sau, kể cả khi máy bơm hư hỏng,
giếng nước sạt lở phải có người
sửa chữa. Không thể đem con bỏ chợ
được. Việc này chúng tôi lại tính phải giao
cho hội phụ nữ hoặc hội Hồng Thập
Tự phụ trách, nhưng với điều kiện là
phải kiếm ra tiền giúp họ hàng năm chi vào
những khoản này. Việc này tôi hy vọng có thể
nhờ vào ḷng từ thiện của bà con được,
mỗi năm vài ba triệu không là nhiều. Đó là dự định của
chúng tôi khi sử dụng món tiền ông NTP vừa gửi
cho người dân ở đây. Mọi việc sẽ
bắt đầu ngay khi tôi t́m đến người
chủ khoan giếng chuyên nghiệp ở đây để
chuẩn bị đưa ông ta đến tận nơi
khảo sát đường điện nước ra sao.
Cũng xin nói rơ thêm là ở nơi này khoan giếng gặp
toàn đá bàn, đá hộc nên giá cả rất đắt,
không giống như khoan đất thịt, đất cát
như ở Sài G̣n hay B́nh Dương. Có khi một dàn khoan
lớn, chạy hết công suất cả 10 ngày, sâu
khoảng 50-60m mà vẫn chưa có nước. Ở
đây, những người khoan giếng thường ví
nghề nghiệp của ḿnh như đánh bạc. Không may,
khoan cả trăm thước mà không có nước th́
kể như chủ và thợ đều thua trắng tay.
V́ thế chúng tôi tính phải khoán cho người thợ
khoan giếng "bao thầu" luôn, khi nào có nước
mới trả đủ tiền .. Chàng kẻ lông mày và
nàng cắt tóc .. một vế đối xứng Có bắt tay vào làm một công
việc, dù là một việc từ thiện mới
thấy hết được những khúc mắc của
nó. Ngoài ra cũng cần phải chứng tỏ được
rằng chúng tôi làm công việc này hoàn toàn v́ ḷng nhân ái
chứ tuyệt nhiên không có "ư đồ" ǵ khác. Cho
đến lúc này, mọi tính toán mới chỉ là ban
đầu. Bởi khi đi đến một vài xóm nghèo,
họ lại có những nhu cầu khác nữa. Họ xin
xây cho xóm một ngôi trường học nhỏ, v́
đường ra trường gần thị trấn quá
xa. Có nơi lại xin sửa chữa lại trường
v́ đă quá cũ sợ gây tai nạn cho các em học sinh
hoặc lớp quá chật rồi, cần phải có thêm
pḥng học mới .. Nhu cầu nào cũng là bức
thiết đối với người dân nghèo. Chưa
biết sẽ c̣n những nhu cầu nào khác nữa, rất
có thể là mùa này họ cần chút vốn để mua
đàn gà con sau khi đại dịch cúm gia cầm đă
cướp hết gia sản của họ hoặc cần
một con ḅ làm vốn lâu dài .. Người dân đă nghèo
th́ cái ǵ cũng cần. Thật sự chúng tôi chưa
biết phải làm ǵ. Dù vậy chúng tôi vẫn làm
với tất cả thiện chí để đáp lại
tấm ḷng của "ông già được ngồi cho
vợ cắt tóc". Quả thật tôi muốn bắt
chước ông quá. Tôi sẽ đi mua cái tông đơ
về xem sao ông NTP ạ. Buổi sáng mát trời, ngồi
dưới gốc măng cụt cho "bà xă" cầm
tông đơ đi một đường nghệ
thuật "húi" quanh cái đầu bạc, cũng hay
lắm chứ. Nó giống như ông Kim Dung có một cái
kết rất thú vị trong một pho truyện kiếm
hiệp rất nổi tiếng: chàng Trương Vô Kỵ
đánh đông dẹp bắc, đệ nhất vơ lâm, anh
hùng thiên hạ rồi đến lúc quăng kiếm vào
sọt rác, ngồi nhà kẻ lông mày cho "ái thiếp"
vậy. Từ bao lâu nay người ta
mới chỉ bàn đến chuyện Trương Vô
Kỵ kẻ lông mày cho nàng Triệu Minh mà chưa thấy
Triệu Minh làm ǵ cho chàng cả. Triệu Minh cắt tóc cho
Trương Vô Kỵ quả là một h́nh ảnh chưa ai
nghĩ ra, đến bây giờ tôi mới t́m
được một vế đối xứng và .. hiện
đại ! Người
thương phế binh bên Quốc lộ 13 Ngay sau khi đi cùng mấy
người bạn của hai tờ báo ở Úc tặng quà
cho đồng bào nghèo, tôi mới biết tin, ở ngay con
đường ra thị trấn có một gia đ́nh
thương phế binh của quân đội VNCH. Tôi
chưa h́nh dung được họ sống ra sao, nhưng
tất nhiên tôi phải t́m cơ hội đến gặp
người bạn đồng ngũ này. Trước khi
trở về Úc, Nhất Giang đưa cho tôi một triệu
đồng để giúp người nào cần giúp. Tôi
dự định tặng ông bạn này. Ngay buổi tối ngày 5-1-2006,
chính ông ta lại t́m đến thăm tôi. Ông ở cách nhà
tôi không xa. Ông không cần đi nạng và có thể đi xe
gắn máy được dù chỉ với một cái chân
bằng sắt, một chân bị thương, vết
mổ c̣n sâu hoắm. Nhưng 30 năm rồi, ông đă
cố gắng tập cho quen với đời sống b́nh
thường. Vừa bắt đầu
chuyện tṛ, chúng tôi đă có thể thân mật với nhau
ngay. Ông tự giới thiệu là Lê Minh Châu, và ông
đọc số quân 70144747. Ông học khóa 5-70
Trường BB Thủ Đức rồi phục vụ
tại binh chủng truyền tin - Liên đoàn 65 Khai thác
Truyền Tin Diện Địa. Nhưng năm 1972, ông
được đưa ra Sư đoàn 21, Trung Đoàn 31,
Tiểu đoàn 3. Lúc đó ông mang cấp Trung úy và là
Đại đội trưởng Đại đội 4
tại Chương Thiện. Trong một trận đánh,
ông bị thương khá nặng, nằm bất tỉnh
trên trận địa. Ông chỉ biết ḿnh sống khi
nằm ở quân y viện và một chân bị cưa,
một chân tê liệt. Sau vài lần phẫu thuật, ông
đă có thể đi lại bằng nạng rất khó
khăn. Được giải ngũ, sau năm 1975 ông
trở lại quê hương ông, chính là Lộc Ninh này.
Từ đó ông được bố mẹ anh em giúp
đỡ, có miếng đất trong rẫy, nhưng ông
để vợ con sống bên quốc lộ, đến
nay có một quan bán chè bưởi, bán cho khách qua
đường. Tất nhiên từ đó
đến nay, ông chẳng được hưởng
quyển lợi ǵ, thậm chí người ta quên ông và ông
cũng chẳng muốn ai biết đến ông v́ .. là thân
"lính cũ", trong thời "bao cấp", không ai
buồn giao thiệp với ông làm chi cho mệt, có khi c̣n
mang họa vào thân, Việc đầu tiên là tôi
đưa ngay số tiền của Nhất Giang để
lại tặng ông. Ông nói ngay là hoàn cảnh gia đ́nh
cũng ổn định rồi. Nhưng tôi nói đây là
món quà nhỏ của những người đồng
ngũ cũ gửi đến người đồng
đội của ḿnh, chứ không phải là sự giúp
đỡ. Măi một lúc sau ông mới chịu cầm phong
b́ và ngậm ngùi: "Hơn 30 năm, măi đến hôm nay
tôi mới lại thấy được t́nh đồng
đội ḿnh sống lại đấy ông ạ. Không
phải v́ món quà mà v́ cái t́nh ḿnh đối với nhau. Tôi
hănh diện với bà con hàng xóm của ḿnh..." Ông
lặng đi không nói được nữa. Hoàn cảnh của ông Châu có
lẽ là một trường hợp khá đặc biệt
v́ nay ông đă có một cuộc sống khá ổn
định với vài mẫu đất trên rừng
trồng cây và cái quán chè bưởi đủ sức lo cho
con cái đi học. Như thế đối với
một thương phế binh bị "bỏ quên"
cũng là may mắn lắm rồi. Ông không mong mỏi
được giúp đỡ mà ông chỉ cần một
chút t́nh. Vậy tôi xin ghi lại địa chỉ của
ông ở đây để các bạn đồng ngũ
của ông có thể liên lạc. Ông Lê Minh Châu, 44 ấp 3B,
Thị Trấn Lộc Ninh, Huyện Lộc Ninh, Tỉnh
B́nh Phước. Những chuyện
lỉnh kỉnh sau khi phát quà Cũng lại sau khi phát quà cho
đồng bào nghèo ở xă Lộc Thái, một hai bà gặp
chúng tôi hỏi thăm: "Tại sao nhà tôi cũng nghèo
như người ở bên cạnh nhà tôi mà bà ấy
nhận được quà, c̣n tôi th́ không". Thật ra
việc này do các ông ở xă ấp "b́nh chọn"
chứ chúng tôi không thể nào biết hết được.
Nhưng tôi cũng cứ mang tên bà đến hỏi
lại ban Hồng Thập Tự. Sau khi tra cứu một
hồi, chúng tôi t́m ra lư do là tuy hai nhà ở sát cạnh nhà
nhau, nhưng một bà thuộc xă Lộc Thái, một bà
thuộc thị trấn Lộc Ninh, mà 150 phần quà
lần này chỉ tặng cho xă Lộc Thái chứ không có gia
đ́nh nào thuộc thị trấn Lộc Ninh. Khi tôi đến thăm th́
thấy gia đ́nh của bà này cũng quá nghèo, cuộc
sống rất khó khăn. Chẳng những ḿnh nhà bà mà c̣n
những gia đ́nh quanh đó nữa, cũng thuộc xă
khác, không có quà. May quá, tôi có một người
cháu, con bà chi ruột, ở Seattle về chơi đă
gửi lại 100 USD và cũng dành cho tôi "toàn quyền
tặng cho người nghèo nào cũng được".
Thế là tôi lại có cách giải quyết cho một
số gia đ́nh quá nghèo ở gần xă Lộc Thái không
được tặng quà Tết này. Xin cảm ơn tất cả
những vị đă có ḷng nhân ái và đă tin tôi, giao công
việc từ thiện này đến với người
nghèo. Nếu quư vị thấy được nét mừng
rỡ của những khuôn mặt héo quắt v́ nghèo
khổ trước những món quà của bà con Việt
kiều ở nước ngoài, chắc quư vị cũng
sẽ mủi ḷng. Người dân ở đây luôn biết
ơn các vị đă mang đến cho họ một mùa
xuân thật sự chứ không chỉ là .. hoa lá cành bằng
giấy. VĂN QUANG |
|
|