SU'U TÂ`M (tt)

Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | THO* | THO* (tt) | THO* 1 | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BA`I VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13

VA(N 7

PHỐ XƯA TÔI VỀ

 

PHỐ XƯA TÔI VỀ

 

Như một thói quen của cuộc sống riêng tư, tôi vẫn thường thích đi dạo vào ban đêm. Khi mọi người đă ngủ, thành phố Huế im ắng lạ kỳ. Tưởng chừng như có thể nghe rất rơ nhịp tim ḿnh đập vội vàng. Đêm thật tối và ánh đèn màu buông xuống mặt đường những chiếc bóng vàng mơ. Gió từ sông Hương đưa lại nhè nhẹ, đẩy những đám lá vàng bay giữa ḷng đường lạnh vắng. Dường như chỉ có đêm về, phố Huế mới trở lại chính ḿnh, trầm tư như một triết gia. Cái con người cả nghĩ ấy thường vẫn sống với những hoài niệm. Mà không hoài niệm sao được, khi bất ngờ giữa mặt cầu Trường Tiền quạnh vắng, lờ mờ bóng một nhà thơ. Chiếc xích lô cuối ngày đi qua như một cánh bèo trôi chầm chậm. Khi thành phố đă ngủ say vùi sau một ngày mệt mỏi, bóng đêm mở ra một đời sống khác của phố xá. Cảm giác về một tạo hóa mầu nhiệm phong tỏa mọi cảm xúc. Có lúc bỗng giật ḿnh khi nghe mơ hồ có tiếng thở dài sau lung. Tiếng bước chân ai đó lặng lẽ đi trên mặt đường ướt đẫm sương đêm.

 

Khi đêm xuống, vườn tượng bên bờ sông Hương như rũ bỏ sự thản nhiên và trở nên sống động lạ thường. Có cảm giác như những pho tượng tự cháy sáng lên bởi một ngọn lửa nội tâm nào đó. Cô gái Ai Cập ngồi quay lưng ra mặt sông rộng. Nàng mở to đôi mắt với một thoáng ngạc nhiên dưới chiếc mũ rất gần với mode của loài người hiện đại. Xuyên màn đêm, đôi mắt đá từ một pho tượng khác lóng lánh cái nh́n khinh bạc xuống cơi nhân gian. Cái nh́n trống không như ánh mắt của hư vô tạo ra những vầng ánh sáng le lói. Có một trái tim lớn vẫn ngày đêm đập từng nhịp thổn thức bên bờ Hương Giang. Trái tim ấy nằm trên một phiến đá lớn ở góc trái công viên. Những lúc thấy ḷng ngổn ngang tâm trạng, tôi vẫn thường về đây, ngồi một ḿnh bên phiến đá này, ngắm trái tim lúc này như đă căng đầy máu nóng. Sức thanh xuân bồi hồi qua mặt da tanh đồng. Người nghệ sĩ nào đó đă sáng tạo bức tượng này bằng cái nh́n của một lữ khách. Ông đă quan niệm đời người là một cuộc đi. Sau đôi giày bị bỏ quên trên mặt đất đầy bụi bặm, hướng đến của nó là trái tim - biểu tượng của t́nh yêu và ḷng nhân hậu. Con người đích thực vẫn thường sống với niềm đau đáu về những ǵ tốt và đẹp nhất. Có lẽ với chiếc nón che đầu, đôi giày cũ mèm và một trái tim .. con người - nhân loại có thể khởi hành với niềm xác tín cho một cận tương lai tươi đẹp.

 

Những phép thống kê thường vẫn không nói được điều ǵ. Nhưng tôi vẫn thích làm những phép thống kê khi cần có cái nh́n khái quát cho một chiêm cảm nào đó. Chẳng hạn như số áo dài b́nh quân ở phụ nữ Huế là cao nhất nước. Con gái Huế tóc dài nhất nước .. và mỗi cư dân Huế cũng mang trên ḿnh số lượng gạch cổ nhất nước. Ở những viên gạch cổ chưa từng mở lời kia đă từng ngày trung thành ghi chép lịch sử Huế qua màu rêu xanh thẳm. Điều đó lư giải v́ sao người Huế vẫn thường hằng mang trong tâm thức ḿnh một cơi xưa hoài cổ. Họ muốn trở về với cái ngày xưa hiền lành và sầu muộn bằng đôi giày đính những hạt cườm mộng ước. Chỉ riêng màu gạch cổ trên tường thành Đại Nội, gập ghềnh ở những lối đi thu thảo .. cũng có đến mấy mươi sắc màu, từ đỏ nâu đến đỏ sậm, đỏ hồng, đỏ xám, đỏ pha sương mai, đỏ vàng nắng thu, đỏ hiu quạnh ngày đông. Lúc này, những viên gạch cổ đă biến sắc như màu mây trời mà vẻ đẹp tùy thuộc vào độ lang thang của nó.

 

Những viên gạch cổ vẫn thường có mặt nơi kư ức tôi trong cuộc hành tŕnh trở về quá khứ. Suy cho cùng đi t́m thời gian đă mất là một khát vọng lớn của con người. Con người muốn t́m thấy ở đó, những bài học kinh nghiệm, lẽ sống và cao hơn tất cả là cái đẹp vĩnh hằng đă được hàm dưỡng qua thời gian. Đó là lư do khiến tôi vẫn thích t́m về những con phố xưa của Huế, ngồi với bạn bè để nghe tiếng chim hót líu lo vô định ở đâu đó trên những loài cây vô danh. Nếp phố Gia Hội vẫn c̣n nhiều những ngôi nhà rường rất xưa. Ở đây, vẫn c̣n một tửu điếm thơ mộng, mặt nh́n ra sông Đông Ba. Phố cổ hơn với hàng cây bồ đề bốn mùa xanh lá, gốc xù x́ và rễ to dài như những con trăn lớn gồng ḿnh vắt người quanh thân cây. Đứng ở múi cầu Gia Hội, nh́n xuôi về phía tây, phố Chi Lăng có vẻ đẹp riêng không kém ǵ Gia Hội. Mái lô xô như nhích lại gần nhau ở cuối đường. Khi đêm xuống, đèn vàng trên phố tỏa thứ ánh sáng ấm áp bảo bọc cả con đường dài hun hút. Thỉnh thoảng, tôi vẫn thấy nét phố xưa trong tranh Hoàng Đăng Nhuận. Màu Huế được họa sĩ phổ qua màu thời gian nhuốm ánh lửa phôi pha.

 

Huế có nhiều góc phố rất hoài cảm. Có thể ngồi ở đó hằng đêm mà không bao giờ cảm thấy buồn chán. Ở đó, thời gian như ngưng đọng lại, và bầu không gian ch́m đắm trong nỗi suy tư cuộc đời. Có thể t́m thấy ở màu ngói rêu phong, ở những ô cửa gỗ đằm thắm hoa văn .. một kỷ niệm xưa nào đó của cơi ḷng ḿnh. Vẻ đẹp của phố lúc này đă phi vật chất đến mức chỉ c̣n lại phần hồn của một đời sống tâm linh thoảng qua như ngọn gió đầu mùa.

 

Tôi vẫn thường ngắm mê mải những con phố xưa của Huế với mong ước được giữ măi h́nh ảnh giàu hoài niệm của những dấu tích sống, để phố c̣n mang măi hồn xưa. Và trên dấu ngói rêu phong, chim vẫn nhớ ngày về phố cũ.

 

 

NGUYỄN XUÂN HOÀNG

(BAI CHUYEN sưu tầm)

 

VỀ VN THĂM MẸ, SAU 9 NĂM Ở MỸ

 

VỀ VN THĂM MẸ, SAU 9 NĂM Ở MỸ

(Phạm Hồng Ân)

 

Tác giả Phạm Hồng Ân là một nhà thơ rất quen thuộc với sinh hoạt cựu quân nhân, và cựu tù nhân tại San Diego. Ngay từ năm đầu Viết Về Nước Mỹ, ông đă góp nhiều bài viết đặc biệt. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.

*
Chín năm định cư ở Mỹ, tôi vẫn chưa có ư định về thăm Việt Nam. Chín năm quá ngắn ngủi, cho một kẻ trắng tay như tôi, muốn gầy dựng cuộc sống tốt đẹp, bù lại những năm tháng tù ngục ở quê nhà. Nhưng chín năm lại quá dài cho những nhớ thương, những mong đợi ruột rà.

 

Má tôi đă già. Bà lần ṃ từng bước đi, khó khăn trong mỗi cách đứng, thế ngồi. Hàng tuần, cứ tang tảng sáng, Má lụm cụm qua nhà hàng xóm, ngồi chờ điện thoại tôi gọi về. Và lúc vừa có tiếng chuông reo, bà đă chụp vội ống nghe, nghẹn ngào nói không nên lời. Má tôi xúc động khi nghe giọng tôi trong máy. Giọng nói quen thuộc của đứa con trai thân yêu, nay dường như xa lạ, qua chín năm dài héo hon trông ngóng.

 

Rồi có một ngày, lá thư của chị Nhật Nguyễn từ Louisiana gửi đến, trăn trở trong tôi không ngừng :

 

"... Nhật Nguyễn về Việt Nam lần đầu, sau mười mấy năm trời xa xứ. Về để nh́n mặt Ba lần cuối. Ba đă bị bạo bệnh và rơi vào t́nh trạng hôn mê - khi Nhật Nguyễn vừa đặt hành lư trên hiên nhà ..

Anh c̣n Mẹ ở Việt Nam chăng? Nếu có, anh hăy một lần về thăm lại gia đ́nh, đừng như Nhật Nguyễn. Khi về, Người đă đi xa .."

 

Và một thôi thúc lớn nhất, là cú điện thoại thống thiết của Má tôi, như nhắc nhở, báo động cho điều không may sắp xảy ra:

- Con ơi ! Chừng nào con về thăm Má ?

- Vài tháng nữa, Má ạ ! Khoảng tháng mười hai. Con đang lấy vé.

- Tháng mười hai ? Lâu quá vậy ? Má .. sợ .. không kịp ..

Tôi hoảng hốt: - Không kịp ǵ ? Không kịp cái ǵ hở Má ? Bây giờ, sức khoẻ Má ra sao ? Có bệnh tật chi không ?

- Không, Má vẫn khoẻ. Con chớ lo ..

 

Chị Nhật Nguyễn ơi ! Giọng nói của Má tôi nghe nghèn nghẹn, run run và .. yếu đi nhiều. Đúng như lời chị nói, tôi phải trở về, về để thăm lại Má tôi một lần.

 

Tôi lấy vé máy bay vào tháng bảy, năm 2001. Mười một tháng chín, nước Mỹ bị biến cố thảm khốc. Bọn khủng bố dùng phi cơ dân sự đâm sầm vào hai ṭa nhà trung tâm Thương Mại Thế Giới và Ngũ Giác Đài. Một phi cơ dân sự khác, chưa kịp gây tội ác, đă rơi xuống Shanksville (Pennsylvania), nổ tan tành. Tôi lại hoang mang hoảng sợ, định trả vé máy bay, hủy bỏ ư định trở về.

 

Nhưng rồi...tháng mười hai lại ồn ào đến, với không khí náo nhiệt của mùa Giáng Sinh. Biến cố đă qua. Nỗi kinh hoàng đă dần dà nguôi ngoai. Hành khách vẫn dùng phi cơ làm phương tiện di chuyển như ngày nào. Rồi, những lá thư, những trông ngóng thiết tha, những cú điện thoại liên tục .. Cho đến một hôm Má tôi lâm bệnh nặng. Anh tôi phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. Tôi tức tốc trở về Việt Nam, trên chuyến máy bay ngay đêm Giáng Sinh năm đó.

 

Đường về Chương Thiện xa diệu vợi. Chiếc Van của thằng cháu chạy bạt mạng, nhưng tôi vẫn thấy chậm hơn rùa. Quốc lộ đầy ứ xe. Loại gắn máy hai bánh của Trung Quốc tràn ngập các đường phố. Họ lạng, lách, chen nhau một cách vô trật tự. Họ vượt đèn đỏ, phóng qua ngă tư vùn vụt, bất chấp mọi luật lệ giao thông của cảnh sát. Chỉ c̣n đoạn đường từ ngă ba Cái Tắc vô Chương Thiện non 60km. Vậy mà tôi cảm thấy dài thườn thượt. Đoạn đường ch́m ngập trong bóng đêm. Thấp thoáng những mái lá nghèo nàn, với ngọn đèn dầu leo lét, tối tăm. Rồi, tiếng ghe máy x́nh xịch trên kinh. Tiếng ca vọng cổ cất lên giữa không gian vắng lặng. Tất cả những âm thanh đó, khơi lại thời trai tráng của tôi, đă hơn một lần nổi trôi theo sóng nước.

 

Chiếc xe vừa dừng lại trước cổng bệnh viện, tôi vội chạy nhanh vào khu nội khoa. Trời ơi ! Má tôi nằm trên giường bệnh đây chăng? Một cụ già nhỏ bé, c̣m cơi, chỉ c̣n da bọc xương - đang thều thào một cách tuyệt vọng. Khó khăn lắm, Má tôi mới nhận ra tôi. Bà chậm chạp đưa bàn tay gầy g̣ nắm lấy tay tôi. Và những giọt nước mắt lặng lẽ ứa ra, ướt đẫm mặt gối ..

 

Đêm đó, tôi thức tới sáng để làm một bài thơ nói về Má. (Và bài thơ này, chị Phương Lan ở Sài G̣n đă tự nguyện ngâm lên, nghe rất cảm động):

 

TÔI VỀ NH̀N MÁ TRÊN GIƯỜNG BỆNH

 

Tôi về dẫm dấu giày lang bạt
Hồn lạc loài như đứa trẻ hoang
Tôi về ôm trái tim tan nát
Nh́n Má nằm im thở nhọc nhằn.

 

Tôi về úp mặt lên tay Má
T́m lại b́nh yên thuở thiếu niên
Ôi, cánh tay gầy như cánh lá
Vườn đời lận đận một niềm riêng.

 

Tôi về gối mộng lên nguồn cội
Nghe ấm từng chương lục bát xưa
Mười năm tựa áng mây trôi nổi
Bèo giạt, hoa trôi .. chuyện nắng mưa.

 

Tôi về nh́n Má trên giường bệnh
Bên ánh đèn phai nhạt bóng đêm
Má ơi, con đốt trầm hương cũ
T́m lại b́nh yên thuở thiếu niên.

 

Tôi ngồi thu lu trên chiếc ghế bệnh viện, thiếp đi giây lát. Đêm qua, tôi không ngủ được. Má tôi nằm bất động, trong t́nh trạng nửa mê nửa tỉnh. Má đă kiệt sức nặng, không thể tự nuốt viên thuốc vào cổ họng được. Anh tôi phải nghiền thuốc thành bột, ḥa với nước, đút cho Má uống từng muỗng nhỏ. Giấc ngủ, bây giờ, lại đến một cách mệt mỏi. Nó cứ chập chờn mộng dữ, loáng thoáng những biến động xung quanh.

 

Tôi muốn ngủ một giấc thoải mái, quên đất quên trời, xua tan đi mọi đau thương đang chồng chéo quanh đời. Nhưng, tiếng gọi nhau ơi ới trong các pḥng bệnh, tiếng nước xúc miệng rọt rẹt trên các hành lang, tiếng khóc lẫn tiếng cười vang vang trên lối đi .. làm tôi choàng dậy. Tôi ngó thông thống ra cổng bệnh viện. Chương Thiện hừng sáng. Dăy quán phía trước đă cựa ḿnh, thức giấc. Những ngọn lửa bùng cháy. Những cái bàn kéo ra, choán dài trên lề đường. Mùi trà, mùi cà phê .. bốc lên. Mùi thức ăn ngan ngát. Ḥa lẫn với mùi nước tiểu ngai ngái, mùi cống rănh hăng hắc. Tất cả trộn vào nhau, dễ dàng trộn vào nhau, một cách đời thường.

 

Chín năm ở Mỹ. Chín năm, vợ chồng tôi đùm túm với nhau trong một chung cư rẻ tiền, nằm nơi khu b́nh dân phía đông của San Diego. Tuy chung cư rất cũ, nhưng với tôi, tiện nghi hơn căn nhà lá rệu rạo của Má tôi rất nhiều. Ôi, căn nhà lá dột trước trống sau, cột chao kèo lệch. Vậy mà, nó đă là nơi trú ẩn của gia đ́nh tôi, là nơi cưu mang tôi từ tuổi ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.

 

Mùa nắng, căn nhà lấp lánh ánh sáng. Hằng trăm mảng nắng, rực rỡ xuyên qua khe lá, rớt tinh nghịch xuống nền nhà. Tối đến, khung cảnh dường như thơ mộng hơn - ánh trăng xuyên thấu qua mùng, rải thần tiên đầy trên gối, đưa tôi vào giấc mộng êm đềm của tuổi ấu thơ. Mùa mưa, cực nhất. Má phải bắc thang lên mái, chèn lại tấm lá, buộc lại sợi lạt. Thế mà, mưa vẫn dột. Mưa dột từng hạt. Hạt này đến hạt kia. Rồi, cả chuỗi hạt .. đua nhau rơi lách tách xuống nền nhà. Má phải chạy lăng xăng đi kiếm từng cái thau, từng cái lon .. để hứng nước. Gặp trận mưa dầm, Má đành loay hoay trên nền nhà lầy lội đó - suốt ngày, suốt đêm.

 

Tôi nhớ đến bữa cơm đoàn tụ, trong căn nhà nghèo khổ này. Hiếm hoi lắm, mới có đủ mặt anh em tôi. Hiếm hoi lắm, những thằng con từ chiến trường khắp nơi, rủ nhau về cùng một lúc. Khi ấy, Má tất bật suốt ngày. Cái bếp, tội nhất, không ngớt lửa hồng. Món này đến món khác, Má cứ liên tục nấu nướng, cho anh em chúng tôi ăn uống thỏa thuê. Những bữa đoàn tụ như thế, Má lặng lẽ t́m một góc nhỏ nhoi, kín đáo nh́n từng đứa con. Má nh́n từng đứa, rồi kéo khăn lên lau nước mắt. Má buồn cho thân phận nhà nghèo, không đủ sức nuôi các con ăn học đến nơi đến chốn.

 

Sau chín năm ở Mỹ, tôi vẫn cà rịch cà tang, chưa khá hơn ngày xưa chút nào. Đồng lương đă tối thiểu, lại bị xâu xé bởi các quan hệ chằng chịt của đời sống. Nào bảo hiểm xe cộ, bảo hiểm sức khỏe, an sinh xă hội, tiền nhà, tiền bill, tiền học, tiền chợ, đám cưới, đám ma, niên liễm, cứu trợ .. v .. v.. C̣n lại một ít, gửi về Việt Nam, chia tứ chia tam cho các thân bằng quyến thuộc trong gia đ́nh. Tôi chưa cất được một căn nhà, tạm gọi là khang trang, cho Má tôi an vui trong tuổi cao niên. Bây giờ, biến cố xảy ra quá nhanh chóng. Má tôi lâm bệnh. Lâm trọng bệnh. Những đồng đô la tôi dành dụm từng giờ từng ngày, những chai thuốc đắt tiền, cộng với tấm ḷng báo hiếu thiết tha .. đă trở nên vô nghĩa trước sinh mạng của Má tôi rồi ? Dần dà, ngày trở lại Mỹ của tôi cũng phải đến. Trước khi đi, tôi đem Má về nhà, mướn bác sĩ chăm sóc hàng ngày. Vài tuần sau, một email của cô cháu từ Việt Nam báo tin: Má từ trần. Tôi lặng người trong giây lát. Tôi không thể cưỡng lại những điều định mệnh đă an bày. Những điều phải đến - giờ đây - nó đă đến. Tôi chỉ c̣n biết làm dấu thánh giá, rồi .. gục mặt xuống chiếc bàn quen thuộc hàng ngày.

 


PHẠM HỒNG ÂN

(BAI CHUYEN chuyển)

website counter