SU'U TÂ`M (tt)

Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | THO* | THO* (tt) | THO* 1 | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BA`I VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13

VA(N 6

HẠNH PHÚC BẤT NGỜ

 

HẠNH PHÚC BẤT NGỜ

(Nguyễn Thị Huế Xưa)

 

Tác giả là cư dân Austin, Texas, làm việc trong bệnh viện thành phố. Bài Viết Về Nước Mỹ thứ năm của bà là một truyện ngắn với khung cảnh bệnh viện.

 

*

Bác sĩ Paul Bissett, nh́n chăm chú vào những con số trên bản tường tŕnh về kết quả thử máu rồi ông lẩm bẩm .. làm sao có thể thế này được? Thật sự câu hỏi không phải là một thắc mắc mà để diễn tả một tuyệt vọng khi ông ngập ngừng đi về phía pḥng 714 nơi người bệnh nhân đang chờ ông đến thăm.

 

Người bệnh là một cô gái ba mươi mốt tuổi mắc phải bệnh tiểu đường (diabetes). Ông nhớ ngày đầu tiên khi gặp cô gái trong pḥng mạch cách đây hai năm. Trước mặt ông người bệnh nhân nhỏ nhoi như một đứa bé mười tám với mái tóc thề buông thả ngang vai, đôi mắt to tṛn đượm một nét buồn xa vắng. Cô gái có một nét đẹp dịu dàng á đông pha lẫn một chút tây phương với sóng mũi thẳng cao. Ông giật ḿnh nh́n cô gái như có một chút ǵ quen thuộc từ trong quá khứ, như có một liên hệ ràng buộc tự đời nào. Nhưng cái cảm giác đó không tồn tại lâu khi ông bắt đầu cuộc phỏng vấn về cuộc đời và qua khứ sức khỏe của cô (H&P---History and Physical) để t́m hiểu rơ hơn về căn bệnh.

 

Cô gái đến từ Việt Nam lúc chỉ mới được ba tháng, bố mẹ đều là người Việt. Bà mẹ rất trẻ bốn mươi tám tuổi, bố năm mươi, cô là con một không có anh chị em ǵ cả. Ông bà hai bên nội ngoại đều đă mất hết. Gia đ́nh không ai bị tiểu đường hoặc một chứng bệnh hiểm nghèo nào khác. Một lịch sử về y tế b́nh thường của một gia đ́nh rất lành mạnh.

 

Hai năm qua cô gái vẫn đi khám bệnh đều đặn, một năm ba bốn lần v́ sự phức tạp của căn bệnh tiểu đường. Trong ṿng một năm gần đây cô gái bị đưa vào nhà thương điều trị bốn lần v́ những biến chứng của căn bệnh đă ảnh huởng tới thận. Ông vẫn thường tự nhủ là trời không có mắt v́ chưa bao giờ ông thấy một bệnh nhân nào trẻ tuổi mà kiên nhẫn và làm theo những lời chỉ bảo của bác sĩ tận tường như cô gái này, vậy mà cô không may vẫn bị biến chứng hành.

 

Bệnh tiểu đường là căn bệnh nan giải được liệt kê vào hàng thứ sáu có thể hại đến tánh mạng nếu không giữ kỹ. Có những người không theo đường hướng chỉ dẫn th́ bị những sự phức tạp của chứng bệnh như mắt bị mờ, áp huyết cao, bị dị chứng tim hoặc là ảnh hưởng tới sự lưu thông của máu và làm hư thận.

 

Cô bệnh nhân nhỏ bé này rất chừng mực, một ngày tự thử máu bốn lần trên đầu ngón tay (self testing blood glucose). V́ máu đường không được ổn định nên trong năm qua ông đă đề nghị cô nên mang một cái máy phân phát insulin (insulin pump) trong người để mong lượng máu đường được điều ḥa hơn.

 

Cái máy này giống như một cái computer nhỏ và nhẹ cỡ bằng một cái máy điện thoại cầm tay. Số lượng của insulin được tính (programming) vào máy dựa trên sự sinh hoạt hàng ngày của từng bệnh nhân và mỗi số lượng đó được đưa vào cơ thể qua một cái kim nhỏ gắn vào bụng. Với phương pháp này bệnh nhân hy vọng sẽ điều ḥa được mức độ của đường trong máu và tránh được những đảo lộn của cơ thể và tinh thần mỗi lần máu đường lên quá cao hoặc xuống quá thấp.

 

Làm bác sĩ đối với ai ông cũng nhiệt tâm săn sóc nhưng riêng với cô gái này ông có một sự lo lắng đặc biệt, một cảm t́nh sâu sắc hơn mọi người mà chính ông cũng không làm sao giải thích được.

 

Ông gơ nhẹ vào cửa pḥng. Có tiếng trả lời yếu ớt:

- Xin cứ vào.

Mái tóc xơa dài trên gối trắng, khuôn mặt đẹp xanh xao và tấm h́nh hài nhỏ bé núp dưới làn mền mỏng khiến ông thấy xót xa:

- Andrea có khoẻ không?

Cô gái cố gượng nụ cười:

- Thưa ông vẫn vậy thôi. Ông đă có kết quả của máu chưa ?

Ông đi chậm đến gần và ngồi xuống bên cạnh giường, cầm bàn tay gầy guộc của cô gái nói một cách từ tốn:

- Không được tốt Andrea à !

Đây không phải là lần đầu tiên ông nói một tin không hay với Andrea nhưng lần này giọng nói của ông chất chứa sự lo lắng lẫn thêm một chút hoảng sợ trong đó. Andrea nh́n sững ông chờ đợi .. Ông tiếp tục:

- Có thể phải nghĩ tới chuyện thay thận.

 

Bàn tay nhỏ bé của Andrea cấu chặt trong ḷng bàn tay ông, rồi cô gục đầu vào ḷng ông khóc nức nở. Nước mắt của Andrea thấm ướt bờ ngực ông và làm cho ông bứt rứt. Một kỷ niệm nào rất gần trong trí nhớ với những giọt nước mắt tiễn đưa trong quá khứ. Có một sợi giây liên hệ thiêng liêng nào đó chập chờn trong tâm tưởng nhưng cảm giác đó rồi cũng chóng qua đi như những linh tính nhẹ nhàng thoảng đi trong hai năm vừa qua ông quen biết và chữa trị cho Andrea.

 

Ông lấy tờ Kleenex chậm nước mắt cho Andrea :

- Tôi biết Andrea khổ lắm cứ khóc đi cho vơi bớt nỗi đau

Andrea nghẹn ngào:

- Ông ơi, chuyện ǵ sẽ xảy đến ..

 

Những ngày sắp tới là một thử thách, ông phải lo cho Andrea lên được trong danh sách chờ đợi (waiting list) của những người chờ nhận thận (kidney transplant). Sự chờ đợi có thể kéo dài hơn thời gian Andrea có thể đợi chờ. Điều có thể cứu văn t́nh h́nh nhanh chóng nhất là bàn tính với những người trong gia đ́nh xem có ai chịu chia xẻ bớt một trái thận cho Andrea không. Nếu có sự đồng ư th́ tất cả mọi người đều phải đi thử xem coi loại máu của ai sẽ hạp với máu của Andrea (matching blood type between the donor and the recipient). Ngày mai ông cần gặp ba mẹ của Andrea trong văn pḥng. Ông đă gặp ba mẹ của Andrea trong những lần Andrea nằm trong nhà thương, hai người rất mộc mạc và bộc lộ với ông sự ưu tư của họ về căn bệnh hiểm nghèo của đứa con gái.

- Ừ! Mà ba mẹ tên ǵ đó Andrea.

Andrea gạt nước mắt:

- Thúy Mai và Văn

Ông tiếp tục gợi chuyện:

-Thế Andrea tên Việt là ǵ?

- Tường Vi

Tên của một loài hoa hồng nhỏ nhắn, dễ thương mà đă có lần trong một vùng trời dĩ văng ông đă từng yêu thích. Ông thở dài .. Hơn ba mươi năm rồi, quá khứ và hiện tại nhập nḥa trong đời sống làm ông có những bất ổn nội tâm.

 

*

Ngày đó ông ba mươi tuổi vừa hành nghề bác sĩ được vài năm th́ với chí hướng nhiệt thành của tuổi trẻ ông xin vào binh ngũ, tự nguyện đi qua Việt Nam phục vụ lư tưởng của ḿnh. Ông là y sĩ chiến trường và đă từng chứng kiến biết bao sự đổ máu tàn khốc của chiến tranh trên vùng đất nhỏ bé. Ông nh́n thấy sự chịu đựng vô bờ bến của người dân Việt và từ đó ông đâm ra yêu thương mảnh đất thật thà đó.

 

Hơn một năm trước khi Sài G̣n thất thủ, ông được lệnh trở về Biên Ḥa làm ở bệnh viện Cơ Đốc và nơi đây là khởi đầu của một chuyện t́nh muôn thưở không quên của ông.

 

Cái barrack ông làm việc khá yên lành so với những bận rộn tới tấp của chiến trường trong những năm trước. Ông không những chữa bệnh cho những người lính ngoại quốc mà c̣n chữa bệnh cho những sĩ quan cũng như những người lính Việt Nam.

 

Một buổi sáng khi ông vào làm th́ trong văn pḥng ông xuất hiện một bóng dáng làm ông sửng sốt. Bóng dáng nhỏ nhắn của một cô gái với suối tóc mây dài quá bờ vai, đôi mắt giống như đôi mắt đă diễn tả của Andrea. Cô gái dịu dàng trong tà áo dài tím và đang sắp đặt những lọ thuốc cho có thứ tự trên chiếc kệ gỗ nhỏ. Cô cho biết nhiệm vụ của cô là giúp ông thu xếp chuyện trong văn pḥng và thông dịch cho những người bệnh nhân. Từ đó hai người quen nhau và mối t́nh bắt đầu chớm nở.

 

Người con gái ông yêu có cái tên rất lạ Lê Thụy Nam, vừa học xong sư phạm nhưng không thích đi dạy, một người anh của cô bạn gái giới thiệu nàng vào làm trong chỗ này.

 

Thụy Nam hiền lành, ít nói nhưng nàng có những giấc mộng rất lạ lùng so với lứa tuổi của nàng. Đă bao lần nàng bộc lộ ư muốn là một mai sẽ t́m cách gia nhập Red Cross để có dịp giúp đỡ nhân loại. Nàng và ông cùng một chí hướng.

 

T́nh cảm của cả hai càng ngày càng sâu đậm, hơn năm sau ông ngỏ ư muốn gặp gia đ́nh nàng th́ Thụy Nam thẳng thắn từ chối, nàng bảo "anh biết đó là điều không thể nào xảy ra, xă hội của em phong kiến lắm". Ông năn nỉ "nhưng anh yêu em và anh yêu nước Việt của em, anh sẽ làm tất cả những ǵ gia đ́nh em mong muốn để được gần em". Thụy Nam vẫn khăng khăng từ chối "Cha mẹ em c̣n phong kiến hơn cả xă hội".

 

Ông quen với nàng đă hơn một năm mà chưa bao giờ nàng nói với ông về gia đ́nh của nàng ngoài sự khó khăn của cha mẹ. Ông không biết nơi chốn nàng cư ngụ, mỗi lần ông hỏi tới th́ Thụy Nam đều đùa "anh đến Biên Ḥa thấy căn nhà nào trồng nhiều hoa hồng Tường Vi nhất th́ đó là nhà của em". Ông không biết sinh nhật của nàng chỉ biết là nàng lúc đó hai mươi hai tuổi.

 

Nơi Thụy Nam ông thấy sự bướng bỉnh dễ thương, một cương quyết mănh liệt với t́nh yêu không lối thoát. Ông tôn trọng đời sống riêng tư của nàng nhưng đồng thời ông rất đau khổ v́ không tính toán được tương lai trước mặt. Thụy Nam vẫn thường trấn an ông "anh đừng lo, em sẽ t́m cách .."

 

Thời gian không đủ cho nàng dự định chuyện của hai người, ngày ông vội vă đến báo tin là ông được lệnh trở về nước gấp th́ Thụy Nam chỉ biết khóc ngất trong tay ông. Những giọt nước mắt ấm như những giọt nước mắt thơ ngây của Andrea làm ḷng ông nhói đau.

 

Đêm cuối cùng hai người chia tay ông đă hối hận v́ đă để cho sự cuồng nhiệt làm mờ lư trí. Ông và Thụy Nam đă để lại trong đời nhau một kỷ niệm nhức đau ngàn đời bất tuyệt.

 

Khi Việt Nam rơi vào tay cộng sản, ông đă t́m ṭi trong làn sóng người di tản qua bờ đại dương mong t́m được lại bóng h́nh người ông yêu thương. Ông đă đăng báo, đă loan tin, đă t́m mọi cách nhưng tất cả chỉ là tuyệt vọng.

 

Ông thất chí trở về học thêm nghành chuyên môn về khảo cứu nghành nội tuyến (Endocrinology), chuyên trị bệnh tiểu đường. Năm tháng qua đi ông vùi đầu vào sự nghiệp, đă một lần tạo dựng gia đ́nh với một bác sĩ đồng nghiệp nhưng rồi cũng thêm một lần nữa dở dang. Năm nay ông đă hơn sáu mươi mà cuộc đời vẫn đơn độc, vẫn ôm hoài h́nh ảnh nguời con gái phương đông thuở nào.

 

*

Tiếng của Andrea đưa ông về hiện tại:

-Mệt mỏi quá rồi ông ơi!

Ông nhỏ nhẹ an ủi:

-Andrea hăy can đảm, tôi sẽ cầu nguyện cho Andrea.

 

Những ngày kế tiếp ba mẹ Andrea đi qua những cuộc thử máu và hồi hộp đợi chờ. Hôm nay Thúy Mai và Văn lại có hẹn với ông Bissett để biết về kết qủa thử nghiệm đó.

 

Đối diện với ông là hai khuôn mặt đượm vẻ lo lắng, bần thần. Ông buồn bă giải thích:

- Máu của hai ông bà đều không hợp với cháu Andrea  ..

Thúy Mai nghẹn lời :

- Có nghĩa là chúng tôi đành bó tay ?

Giọng ông Bissett ngậm ngùi:

- Thưa bà, thông thường th́ những người trong gia đ́nh dễ có cơ hội ḥa hợp máu với nhau, trong trường hợp này quá nan giải, phải chờ đợi .. một đợi chờ có thể lâu dài.

Thúy Mai và Văn nh́n nhau ứa nước mắt, cả hai đều buột miệng:

- Chỉ c̣n có giải pháp ..

 

Tiếng th́ thào của Thúy Mai kể về một câu chuyện làm ông Bissett choáng váng. Năm 1975, vài tháng sau khi mất nước, người chị độc thân bà con xa của tôi xin về tá túc trong vùng kinh tế mới với gia đ́nh chúng tôi để che giấu đi nỗi tủi hổ v́ đă mang bầu mấy tháng. Trong những ngày tháng khổ sở cùng cực đó chị sống nhẫn nhục trong im lặng.

 

Khi đứa bé gái của chị ra đời được ba tháng th́ gia đ́nh ba mẹ tôi thuê được một chiếc tàu khá lớn đi vượt biên và có rủ chị cùng đi. Chị đă khóc lóc với ba mẹ tôi xin đem đứa bé đi để nó có một tương lai c̣n chị phải trở về nhà lo cho người cha đang bị bệnh nặng. Ba mẹ tôi thấy hoàn cảnh chị rất tội nên nhận lời với một điều kiện là chị đừng bao giờ t́m cách liên lạc với con và cũng đừng bao giờ nói cho chúng tôi biết ǵ về người cha của nó. Chị đau khổ đồng ư. Tôi lúc đó mới mười bảy tuổi coi đứa bé gái kháu khỉnh như một đứa em.

Chúng tôi đến California được năm năm th́ cha mẹ tôi bị tử nạn xe hơi trong một chuyến đi chơi xa. Từ đó con bé gái là con của tôi, rồi khi tôi và Văn làm đám cưới, chúng tôi không có con được nên chính thức nhận Andrea làm con. Ông thấy đó, Andrea rất xinh đẹp, nó lai hai gịng máu và có những nét giống mẹ.

 

Bà chị họ xa của tôi vẫn c̣n ở Việt Nam, sau khi ba mẹ tôi mất tôi có liên lạc và tiếp tục cho chị biết về đời sống của Andrea.

 

Chị là người giữ uy tín, thấy chúng tôi không có con mà lại thương yêu Andrea nên không hề đ̣i hỏi ǵ ngoài việc cám ơn chúng tôi đă lo lắng chăm sóc cho Andrea. Chị măn nguyện v́ biết con đă sống ở một nơi chốn an lành. Chúng tôi không muốn làm xáo trộn đời sống tinh thần của Andrea nên cũng không bao giờ hỏi tông tích về cha của Andrea. Bây giờ v́ sự sống của con, chúng tôi sẽ yêu cầu chị Thụy Nam nói về quá khứ của chị.

 

Paul Bissett lặng người, trước mặt ông quay cuồng tà áo tím, mái tóc dài, đôi mắt buồn của Andrea và một vùng trời hạnh phúc xa xưa nhưng rất gần trong tâm tưởng.

 

Ngày mai ông đi thử máu biết đâu ông sẽ chia xẻ được một chút đời c̣n lại của ông cho đứa con lạc lơng đang sống trong tuyệt vọng.

 

NGUYỄN THỊ HUẾ XƯA

(Thi Đàn VN chuyển)

 

CHUYẾN VƯỢT BIÊN QUA ĐỊA NGỤC

 

CHUYẾN VƯỢT BIÊN QUA ĐỊA NGỤC

(Việt Nguyên)

 

30 tháng Tư, mỗi người có một câu chuyện để kể lại. Câu chuyện của tôi rất giản dị. Gần mỗi ngày 30 tháng Tư, bên tai tôi vẫn c̣n văng vẳng lời chúc của cha tôi "Bon voyage". Ông đă chúc tôi vỏn vẹn hai chữ như vậy qua điện thoại khi tôi gọi về từ giă ông từ nhà người bạn gái.

 

Sau khi người anh thứ hai đă rời khỏi Việt Nam , tôi chuẩn bị va-li quần áo sửa soạn ra phi trường trong một Saigon đang hấp hối với những cảnh chia ly. Cuối cùng tôi đă lỡ chuyến đi năm ấy. Ngày hôm sau trở về nhà, cha tôi nh́n tôi với ánh mắt mừng nhưng không nói. Cái khoảng cách giữa ông và chúng tôi càng ngày càng lớn từ ngày chúng tôi trưởng thành. Từ khi ông vào Nam làm việc năm 1942, ḷng ông vẫn hướng về đất Bắc và vùng Thanh Nghệ Tĩnh. Ông mong chờ những sum họp. Trong những ngày tháng cuối cùng của miền Nam , chúng tôi và ông không ngừng tranh căi về hai thể chế chánh trị, về những người bên này và những người bên kia, về tự do và cộng sản. Cuối cùng th́ ông chịu nhượng bộ với những lựa chọn của chúng tôi. Cái hy vọng nh́n những thay đổi tốt hơn cho miền Nam của ông chỉ kéo dài được năm tháng. Ông mất sau hơn một tháng bệnh đúng vào ngày đổi tiền với sự vắng mặt của các anh tôi, một người ở Mỹ và hai người ở trong trại học tập cải tạo. Niềm hy vọng gặp lại các con trước khi mất đă đi theo ông, c̣n giấc mơ hồi hương của mẹ tôi cũng chỉ là một giấc mơ ngắn ngủi. Những tấm áo dài, những chiếc khăn nhung quấn tóc được bà xếp thẳng nếp để đi trên chuyến tầu xuyên Việt vẫn c̣n nằm trong tủ áo sau khi bà về với cha tôi hai năm sau.

 

Những ước đoán về chế độ Cộng Sản của những người trẻ như anh em tôi thành sự thật. Trong khi những người trong trại cố gắng sống th́ những người ở thành phố cũng phải vất vả mưu sinh. Đời sống thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần. Con người thay đổi nhanh chóng theo xă hội chủ nghĩa, nhân cách thay đổi theo quyền lợi. Sài G̣n thay đổi như câu thơ của Beaudelaire "thành phố thay đổi nhanh hơn nhịp đập của trái tim". Cuối cùng, phần v́ đă thuộc ḷng những bài học của xă hội chủ nghĩa "đảng cho ta sáng mắt sáng ḷng", phần v́ sau những mất mát lớn lao, tôi không muốn sống trong thành phố quen thuộc mà mỗi con đường là bóng ma của quá khứ, một ngày tôi quyết định chọn lựa con đường tị nạn như hàng triệu người Việt Nam khác.

 

Chuyến vượt biên 42 ngày

 

Tháng 10 năm 1977, Sài G̣n nóng như mùa hè. Nhóm vượt biên hơn 100 người đến chiếc xà lan đậu trên bờ sông Saigon, gần cầu B́nh Triệu, cạnh tượng Đức Mẹ Fatima. Dự tính nhiều tháng nhưng mọi sự xảy ra không như kế hoạch, ruộng mía giờ chót bị đốn, băi bốc người trở nên trơ trọi. Sáu giờ sáng đoàn người vượt biên như đi cắm trại. Qua vài trở ngại nhỏ ở Công An khu vực, mọi người chui xuống hầm xà lan, ngoại trừ tôi và những người lái tàu ở trên connex. Xuôi theo sông Sài G̣n , buổi sáng nước lớn, xà lan không qua được cầu B́nh Lợi phải đứng chờ dưới chân cầu đến chiều chờ con nước xuống. Dưới hầm nóng và tối như địa ngục, chỉ vài ngọn đèn mờ, trẻ em thi nhau khóc dù đă bị chích thuốc ngủ Valium. Quả thật phải cần can đảm, điên rồ và tuyệt vọng, thuyền nhân mới có thể vượt biên để làm bằng chứng địa ngục và cái chết vẫn hơn thiên đường Cộng Sản sau 75. Xà lan theo sông Sài G̣n ra cửa Cần Giờ lúc 2 giờ sáng. Tối hôm đó trời không trăng, biển đen lặng, ngọn đèn pha trên núi nhỏ Vũng Tàu, nơi tôi thường leo lên trong những lần thám du Hướng Đạo, là ánh sáng duy nhất dẫn đường ra biển nhưng chúng tôi không biết nó cũng là ánh sáng chót dẫn đường một cuộc hành tŕnh qua 42 ngày địa ngục.

 

Xà lan đi được năm ngày th́ máy bị hỏng, ông lái tầu và các ông phụ giúp hóa ra không ai rành về hải hành và cơ khí. Xà lan qua đảo Côn Sơn, suưt bị tuần duyên giữ lại, tiếp tục lấy áo mưa "pông-sô" làm buồm lái về phía Thái Lan. Tháng 10, biển ở Vịnh Thái Lan rất yên. Ban đêm biển tối mịt mùng, gió mát chỉ thiếu trà, nhóm người vượt biển bắt đầu làm thân, ngày tắm nước biển, ban đêm có chương tŕnh tân nhạc và vọng cổ t́nh nguyện.

 

Sau bẩy ngày, thực phẩm dự trữ bắt đầu cạn. Cá bắt được rất nhiều vào những ngày đầu được phơi khô sắp hết. Ban tổ chức phải áp dụng chế độ công xă, gom và chia thực phẩm hàng ngày. Mỗi gói cơm xấy chia cho cả gia đ́nh để nấu cháo. Buổi tối, hai nhóm một Công giáo do sư huynh cầm đầu, một Phật giáo tự tập trung cầu nguyện. Qua đến ngày thứ mười, hy vọng thấy đất liền xa vợi. Trong mười ngày hơn bốn chiếc thuyền buôn lớn đi ngang qua ban đêm đều làm ngơ với những ngọn lửa đốt báo hiệu trên xà lan, khác với tin đồn hạm đội thứ bẩy sẽ vớt người vượt biển như đài BBC thường đọc. Những gói thuốc lá, những chương tŕnh văn nghệ về đêm tắt dần. Sống chen chút với những điều kiện thiếu thốn mọi người bắt đầu kêu Trời, trách Chúa.

 

Ngày thứ 11, biển êm sóng lặng, trời về chiều chúng tôi bất chợt thấy một tầu đánh cá từ xa chân trời. Niềm hy vọng lại vươn lên. Những bàn tay vẫy, những tiếng hét lớn, nhưng không thấy chiếc tầu đánh cá phản ứng. Cuối cùng, như một sự may mắn, chiếc lưới đánh cá trôi gần đến xà lan, hai người bạn trẻ Đức và Thành can đảm nhảy xuống biển, lội đến chiếc lưới, bám chặt cho đến khi thủy thủ Thái Lan kéo cả hai lên thuyền, chấm dứt chặng đầu 11 ngày trên Vịnh Thái Lan khi xà lan được kéo vào thành phố Battani ở bờ đông Thái Lan.

 

Đậu lại Battani, chúng tôi bị cô lập không được phép lên đất liền, nhưng Đức t́m cách trốn lên tỉnh, lấy xe lửa lên thủ đô Bangkok, c̣n tôi có dịp làm quen dân địa phương đánh điện tín qua Pháp loan tin về Việt Nam, đi ghe thăm đảo, lần đầu tiên trong hai năm được uống lại coca cola và thăm bờ biển đẹp với những hàng dừa. Sau hai ngày ở lại Battani, chúng tôi được mua thêm thực phẩm trước khi bị tầu tuần hộ tống ra biển, định hướng về phía Songkha nơi có trại tị nạn. Hai ngày sau, xà lan đến Songkha thấy bến, nhưng bị tầu tuần đuổi, gặp một tầu đánh cá tị nạn lớn của người Việt Nam, xin giúp đỡ cũng bị từ chối.

 

Đi được một ngày, xà lan lại chết máy, lại chạy bằng buồm làm bằng áo mưa "pông-sô", trôi nổi bẩy ngày, gặp luồng nước kéo vào bờ, tấp lại vào Songkha. Dân Thái tràn lên xà-lan ăn cướp hành lư, phá máy tầu vứt xuống biển. Cả đoàn ở ngoài bờ biển, màn trời chiếu đất, ban đêm đào hố cát làm giường thấp để tránh gió, ban ngày dân địa phương bu quanh như đi xem sở thú. Ba ngày sau, ông tỉnh trưởng Songkha đích thân xuất hiện cùng lính cận vệ. Hơn một trăm thuyền nhân khác đi bằng thuyền từ Phú Quốc đến Thái Lan bị đuổi, gia nhập thành một nhóm. Bị đối xử như súc vật, cảnh sát hành hung, phần tôi suưt bị bắn với khẩu súng Colt chĩa vào đầu cho đến khi bị ném lên xà lan. Trong buổi hoàng hôn, chiếc xà lan không máy bị kéo bằng tầu tuần ra khỏi hải phận quốc tế, bị cắt dây thả trôi cố t́nh cho chết sau khi bị lính cướp lột đồng hồ, dây chuyền trao đổi với vài bao gạo.

 

Đúng 100 ngày mẹ tôi mất, 11 người trong gia đ́nh tôi trôi nổi ngoài khơi Thái Lan. Ngày thứ năm, một chiếc phi cơ L19 bay ngang qua đầu đă khiến đoàn người vuợt biên tổ chức ăn mừng hụt. Cái chết trước mắt. Những "trôi nổi nhưng không ch́m", sau bẩy ngày đêm một trận băo lớn đánh xà lan trở lại vào bờ thị trấn Narathiwat cạnh biên giới Mă Lai. Những người Thái Lan cầm dao phay, mă tấu đón chờ khi chúng tôi lội đến băi biển, nhưng những người khác có từ tâm dàn xếp để chúng tôi ở lại trên băi biển. Cảnh cũ tái diễn, lại đào cát làm giường, lại bị vây lại như khỉ trong sở thú.

 

Năm ngày sau, quận trưởng Narathiwat đem xe buưt chở hết đoàn tị nạn ra bến tầu, một chiếc thuyền đánh cá đang chờ sẵn. V́ trời tối, tôi xin được dời chuyến đi đến sáng, ban đêm tá túc tại trường học. Sáng sớm chính ông quận trưởng ngậm ngùi đưa đoàn người lên ghe, khác hẳn thái độ của tỉnh trưởng Songkha. Thuyền vừa ra khỏi bến đă bị ch́m. Hôm đó tôi ở dưới hầm thuyền cùng vợ con bị sóng đổ úp xuống suưt chết ngộp trước khi chết đuối; cố bám vào thuyền cho đến khi tầu Hải quân đến vớt lên bờ. Cả đoàn được ở lại trong chợ cá cạnh bến tầu. Ở đây tôi có dịp hành nghề y khoa, đi thăm bệnh tại nhà cho những người Thái nghèo, thù lao là những bữa cơm, những gói ḿ thay cho những bữa cơm trắng chan sữa hay chan nước cà-ri. Cũng nhờ những người Hoa Phú Quốc, những người Hoa Thái Lan đă tiếp tế thêm lương thực cho đoàn tị nạn. Tại đây, chúng tôi cũng định để lại cháu gái cho một gia đ́nh y tá Thái trẻ tuổi lúc có lệnh phải ra đi khi thuyền đă được tạm sửa chữa sau một tuần tạm trú.

 

Lần này, thuyền ra khơi buổi sáng, lính Thái có kinh nghiệm, chia đoàn thành hai nhóm, một nhóm trên tầu tuần một nhóm trên thuyền đánh cá, ra khơi nhóm trên tầu tuần được chuyển xuống thuyền. Chạy dọc bờ biển về phía Mă Lai, thuyền bị lủng thanh niên phải thay nhau tát nước. 3 giờ sáng đến bờ Trengganu, thuyền phải neo ở ngoài khơi v́ đá ngầm. Đến sáng, thuyền bị sóng đánh vỡ và ch́m v́ mắc cạn, cả đoàn lội lên băi. Cảnh cũ lại tái diễn, màn trời chiếu cát, với khán giả mới người Mă Lai.

 

Sáu ngày sau đoàn tị nạn được chở xe buưt đến trại tị nạn Pula Besar, chỉ khi đứng bên bờ sông nh́n qua ngôi làng tị nạn với lá cờ vàng ba sọc đỏ bay phất phới, mọi người nh́n nhau cười qua những hàng nước mắt, chúng tôi mới tin cuộc hành tŕnh vượt biển đă thật sự chấm dứt.

 

Trại tị nạn Pula Besar

 

Chuyến vượt biên gian nan bằng xà lan của chúng tôi được kể đi kể lại nhiều lần trong trại tị nạn cho đến khi phai dần bởi những chuyến vượt biên khác. Nghĩ lại, tất cả những chuyến vượt biên đều có trời định sẵn. Trong 42 ngày, chúng tôi may mắn không bị cướp biển, không có người bệnh hay tử nạn mặc dù có đến 60 phụ nữ và 60 trẻ em trong đoàn. Trong lúc cùng khổ bản chất xấu của con người không che giấu được nhưng những người tốt vẫn sẵn ḷng đùm bọc lẫn nhau. Một người trong đoàn, ông Lâm Văn Phúc, đă tả lại cảnh vượt biên trong "Tử thần rượt đuổi trên biển Đông" trên báo Hồn Việt hơn 20 năm trước. Nhưng cảm giác gặp tử thần của chúng tôi hoàn toàn khác với kinh nghiệm đối diện với tử thần của văn hào Dostoevsky trang "sự khủng bố huyền nhiệm" cảm giác sắp về với Chúa (Nous serons avec le Christ) lần ông bị dẫn ra pháp trường giả xử bắn với Nga Hoàng. Gần chết, Dostoevsky nghĩ đến gia đ́nh, nghĩ đến thế giới. Chúng tôi, đă sống tuyệt vọng nhưng không thấy cái chết, chỉ chia sẻ với nhà văn Dostoevsky cái cảm giác "nếm lại hương vị ngọt ngào của cuộc đời" trong tại tị nạn Pula Besar, một thiên đường của người Việt tị nạn dừng chân sau những chuyến vượt biên tử sinh.

 

Pula Besar, vào năm 1978, là một ḥn đảo nhỏ ở Đông Mă Lai, diện tích vài trăm cây số vuông, chứa vài ngàn dân tị nạn, thuở người tị nạn chưa tràn ngập, chưa bị ngăn bằng hàng rào kẽm gai. Ḥn đảo cách đất liền bằng con sông nhỏ. Buổi sáng, người tị nạn lội qua con sông cạn, có lúc nước lên đến ngực, qua phần đất liền đến trạm cảnh sát để làm thủ tục giấy tờ và từ đó đón xe đi đến tỉnh Trengganu. Buổi chiều tối con sông nước lên, bằng một con đ̣ nhỏ chèo bởi một thổ dân Mă Lai già, người tị nạn lục đục trở về đảo.

 

Pula Besar một ḥn đảo nhỏ cát trắng với những hàng dừa vô tận và một ngọn hải đăng mù nơi tôi đă trải qua những ngày tháng không quên của một phần đời tị nạn. Đời sống chờ đợi, giản dị với những hạnh phúc nhỏ nhoi, buổi sáng chào cờ, buổi chiều những trận bóng tṛn được tường thuật bởi Ngọc Phu, buổi tối đèn dầu và nến chập chờn trong những căn nhà lá trống trải thiếu vách che, mở rộng nhiều phía như tâm hồn của những người tị nạn vừa đến bến bờ tự do, mở rộng không che giấu.

 

Buổi tối, trại tràn đầy tiếng nhạc và tiếng hát, bài hát của Văn Phụng, tiếng hát của Châu Hà, "Pula Besar, sáng trăng ơi đẹp quá!". Ở đây tôi làm bạn với ông Mai Thảo, mỗi đêm về sáng một già một trẻ đưa nhau ṃ về lều sau những canh x́, những ngày cuối tuần cùng nhau lên Trengganu mua sắm, xem phim chưởng Cô Gái Đồ Long, hay đổi những tấm ngân phiếu do bạn bè và gia đ́nh gởi đến.

 

Ở đấy, giọng hát Khánh Ly vang lên từ máy cassette nhỏ, trong mỗi đêm thanh vắng: "Sống trong đời sống, cần có một tấm ḷng, để làm ǵ em biết không? Gió cuốn đi, để gió cuốn đi ..". Gió cuốn chúng tôi về nhiều miền trên thế giới. Trong gần 28 năm qua câu chuyện vượt biên được kể đi kể lại, có khi ḷng cảm thấy hào hứng như năm nào khi mới bước chân vào trại tị nạn, có khi cảm thấy câu chuyện ngớ ngẩn, buồn cười và vô lư. Trong mười năm đầu, nó thường hiện về trong những cơn mộng. Gần đây nó lại hiện về sau trận sóng thần Tsunami sau ngày Giáng Sinh năm 2004, cũng những người đen đủi cầm dao đuổi chúng tôi năm nào ở bờ biển Đông nay trở thành những người tị nạn, những người có lần mở rộng trái tim ban phát t́nh thương nay ngửa tay mong đợi.

 

30 năm sau ngày 30-4-75, bên tai tôi vẫn c̣n vọng lời chúc "Bon Voyage" của cha tôi và tôi chỉ mong được như Albert Camus: "Khi thản nhiên được với mọi sự trên đời, anh hoàn toàn được tự do !"

 

VIỆT NGUYÊN

 

(BAI CHUYEN chuyển)

 

website counter