SU'U TÂ`M (tt)

Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | THO* | THO* (tt) | THO* 1 | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BA`I VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13

BÀI VIÊ'T 7

2quynhtrang.jpg

 

CÁI ĐẸP TRONG THƠ

(Nguyễn Hưng Quốc)

 

Lời tác giả: Hai cuốn sách đầu tay của tôi, "T́m hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam" (1988) và "Nghĩ về thơ" (1989), hiện nay đă tuyệt bản. Mười mấy năm, quan niệm về văn học đă đổi, cách viết cũng đă khác, tôi không c̣n hứng thú lắm để in lại. Tuy vậy, vẫn có một số bạn đọc xa gần thỉnh thoảng hỏi thăm về chúng. Thôi th́, thay v́ tái bản thành sách, tôi chọn một số đoạn để đăng lại trên Tiền Vệ, như một món quà tặng cho một số tri âm, nếu có, đâu đó.

 

*

Ngày xưa, để tả vẻ đẹp trên h́nh thể con người, người ta hay dùng những thành ngữ ví von như "da ngà", "dáng liễu", "mặt hoa", "tóc mây".

 

Nguyễn Du tả Thúy Vân: "Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang";

tả Thuư Kiều: "Làn thu thuỷ, nét xuân sơn";

tả Từ Hải: "Râu hùm, hàm én, mày ngài".

 

Trong truyện Hoa Tiên, Nguyễn Huy Tự tả Dương Giao Tiên:

Môi đào hé mặt phù dung

Xiêm y bóng tuyết sen lồng ngấn rêu.

 

Trong Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều tả người cung nữ:

Áng đào kiển đâm bông năo chúng

Khoé thu ba gợn sóng khuynh thành.

 

Trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đ́nh Chiểu tả Kiều Nguyệt Nga:

Má đào, mày liễu dung nhan lạnh lùng.

 

Tất cả những câu thơ mô tả diện mạo của con người ở trên đều có một đặc điểm giống nhau: đem so sánh một nét đẹp nào đó trong h́nh thể con người với một nét đẹp nào đó của thiên nhiên. Thiên nhiên, bởi vậy, được coi là cái đẹp mẫu mực của con người.

 

Song song với khuynh hướng trên, có một khuynh hướng khác nữa: so sánh cái đẹp của người bây giờ với cái đẹp của người xưa, trong sách vở. Phụ nữ đẹp, phải là đẹp như Hằng Nga, như Tây Thi, như Dương Quí Phi. Quá khứ, do đó, trở thành một chuẩn mực của hiện tại.

 

Đến những năm 30 của thế kỷ này, với phong trào Thơ Mới, khuynh hướng thứ hai bị sụp đổ trước hết. Những cách ví von xưa bị coi là khuôn sáo. Các nhà thơ công bằng hơn với những cái đẹp trong hiện tại.

 

Nguyễn Bính viết, trong bài "Mỵ Nương":

Toan ví mà thôi

V́ bao nhan sắc

Xây dựng trên đời

Sánh sao nàng được.

 

Hồ Dzếnh viết, trong bài "Giản dị":

Em ăn, em nói, em cười

Kiếp này không có hai người giống em.

 

Sự công bằng ấy là kết quả của một nhận thức: cái đẹp, tự nó, là một giá trị độc lập và độc đáo.

 

Quá tŕnh sụp đổ của khuynh hướng thứ nhất coi cái đẹp trong thiên nhiên là chuẩn mực cho cái đẹp của con người chậm chạp và không đồng đều. Mọi người đều nhất loạt từ bỏ những thành ngữ ví von đă thành khuôn sáo, tuy nhiên, trong cách so sánh của họ, thỉnh thoảng vẫn vấp phải ảnh hưởng của một quan điểm thẩm mỹ cũ là cần phải nương tựa vào vẻ đẹp trong trời đất để khẳng định vẻ đẹp của con người.

 

Nhưng một vài nhà thơ lớn, đặc biệt là Xuân Diệu, đă đi rất xa. Nhiều người phát hiện trong thơ Xuân Diệu có những cách so sánh ngược hẳn với người xưa: thay v́ ví vẻ đẹp của con người như một vẻ đẹp của thiên nhiên, th́, Xuân Diệu lại ví vẻ đẹp của thiên nhiên như một vẻ đẹp của con người:

 

- Lá liễu dài như một nét mi.

- Trăng, vú mộng của muôn đời thi sĩ.

- Hơi gió thở như ngực người yêu dấu.

- Mây đa t́nh như thi sĩ đời xưa.

- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.

 

Huy Cận cũng có một đoạn so sánh đặc sắc:

Mùa xuân tṛn trịa

Như bụng mang thai

Ôm ngh́n sức trẻ

Đi trên đường dài.

 

Phương thức so sánh ở trên, tuy mới manh nha, song nó có ư nghĩa như một sự cách tân trong nhận thức: cái đẹp của con người là chuẩn mực cho cái đẹp của thiên nhiên.

 

Đến sau năm 1954, ở Miền Nam, khi tả một vẻ đẹp của con người, các nhà thơ thường có thói quen giống nhau: đó là rất ít so sánh. Bởi so sánh, dù là để kết luận là hơn hay là thua th́ nó cũng xuất phát từ một sự thừa nhận: con người và thiên nhiên ngang hàng với nhau. Vất bỏ sự so sánh là để khẳng định vẻ đẹp của con người là một giá trị độc đáo và độc tôn. Thiên nhiên bị hạ bệ. Thiên nhiên và trời đất chẳng có ư nghĩa ǵ nếu không có con người.

 

Thiên nhiên và trời đất đẹp là v́ con người đẹp chứ không phải là ngược lại:

Nắng Sàig̣n anh đi mà chợt mát

Bởi v́ em mặc áo luạ Hà Đông.

(Thơ Nguyên Sa)

Cái nắng ấy, cái trời đất ấy cũng bị bâng khuâng trước cái áo lụa này, trước con người này.

 

Trong bài "Đàn bà là mặt trời", Nhă Ca viết, say sưa:

Người đàn bà nào cũng đẹp

Mùa xuân và hoa hồng đều nở v́ chúng ta

Chúng ta ban phát ái t́nh

Cho thiên đàng của chúng ta tươi tốt măi.

 

Có thể đưa ra nhận định đầu tiên: quá tŕnh phát triển của cái đẹp trong thơ là quá tŕnh phát triển của ư thức con người đối với cái đẹp của con người.

 

con người không cần phải đẹp. Đây là một đặc điểm khá mới mẻ. Trong thơ xưa, về phương diện ngoại h́nh, hầu như không có ai xấu. Nguyễn Du rất ghét Mă Giám Sinh vậy mà cũng không nỡ để Mă Giám Sinh xấu: "Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao". Tú Bà cũng không hẳn xấu: bà chỉ đẫy đà và v́ ở trong nhà hoài nên nước da hơi bị tái: "Thoắt trông nhờn nhợt màu da / Ăn chi to lớn đẫy đà làm sao". Một số truyện nôm khuyết danh thường cho nhân vật chính hóa thành loài vật xấu xí chỉ là một biện pháp đối chiếu để khuếch đại cái đẹp trong tâm hồn họ chứ không cốt mô tả cái xấu trong h́nh thể họ.

 

Trong thơ hiện đại th́ khác. Đây là h́nh ảnh người t́nh Nguyên Sa:

Hôm nay Nga buồn như con chó ốm,

Như con mèo ngái ngủ trong tay anh.

 

Đây là h́nh ảnh vợ và mẹ trong thơ Nguyễn Đức Sơn:

Mẹ con bản mặt lầm ĺ

Bà con mắc chứng xầm x́ suốt đêm.

 

Đây là chân dung tự hoạ của Hoàng Trúc Ly:

Nhà anh nghèo, anh đau tim, anh yếu phổi

Đời anh lạnh lùng bốn hướng gió và mưa.

 

và của Du Tử Lê:

So vai nhăn áo xô quần

Mắt nâu tóc rậm môi câm tiếng cười.

 

Các nhà thơ định làm cách mạng bằng cách xoá bỏ hai khái niệm đẹp và xấu, bằng cách biến cái đẹp thành cái xấu hoặc ngược lại ư ? Không phải. Có cách mạng đấy nhưng cách mạng ở chỗ khác: cái đẹp lớn nhất là con người. Và con người đẹp không nhất thiết là do nhan sắc mà chủ yếu, trước hết, căn bản hơn cả, v́ họ là con người.

 

Tôi yêu, tôi làm thơ ca ngợi một kẻ nào đó không phải v́ kẻ đó có diện mạo phi phàm mà chỉ v́ lư do đơn giản: họ là con người và tôi yêu họ. Con người, tự bản thân nó, đă là cái đẹp, đă là đối tượng của thơ ca. Tôi muốn đưa ra nhận định thứ hai về quy luật phát triển của cái đẹp trong thơ: đó là sự phát triển của ư thức con người về sự hiện hữu của con người.

 

 

NGUYỄN HƯNG QUỐC

(BAI CHUYEN chuyển)

 

MIỀN NAM TRÓC GỐC

 

MIỀN NAM TRÓC GỐC
(
Vi Anh)

Lâu nay một số anh chị em dân Miền Nam (chữ tắt báo chí Mỹ trong Chiến Tranh VN thường dùng chỉ Việt Nam Cộng Ḥa từ Bến Hải đến Cà Mau) đi VN về hay oán than. Oán chế độ "tự thực dân" của CS Hà Nội đă "cào bằng" Miền Nam thời xă hội chủ nghĩa. Than dân Miền Nam đă tróc gốc v́ bị CS Hà Nội xâm thực thời CS chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa. Ở thành, dân Miền Nam vào hẻm, vào hóc; ở quê, vào "kinh", vào "ngọn" mà ở. Như ngày xưa, người thiểu số Chàm, Mường, Mán ở Miền Trung rút vào " buôn" làng, người Cao Miên (Miền Tây c̣n gọi là Thổ) rút vào "sóc" vào "ven" vậy.

Mới đây, một người gốc gác cố cựu ở Cao Lănh của Miền Nam Lục tỉnh lên Saigon học và làm dược sĩ thời Quốc Gia và thời CS, sang Mỹ lại học và làm lại dược sĩ tiếp nữa. Sau nhiều năm ở Mỹ, dược sĩ này đi VN thăm quê nhà và quê chồng ở B́nh Dương vườn cây xanh trái ngọt. Và về Mỹ quê hương thứ hai, ấm ức nói với bè bạn. Đề nghị viết bài này trên Việt Báo để người Việt Hải ngoại năm châu bốn biển biết. "Phải" nói dùm cho bà con trong nước. Nói thảm cảnh làm ăn của dân Nam, đời sống khi xưa quá "dễ dàng làm chơi ăn thiệt" bây giờ đă quá nghèo khổ. Đến đỗi ngày xưa "gái thời tiết hạnh là câu trau ḿnh" bây giờ có người phải đành làm nô-lệ-t́nh-dục cho ngoại bang để giúp gia đ́nh quá "xuống dốc".

Bây giờ trái lại có một giai cấp mới lạ đời đang lên. Đó là những đảng viên cán bộ có chức có quyền và những người ăn theo Đảng, Nhà Nước CS Hà Nội. Những người ấy đă "hủ hóa" văn minh Miệt Vườn, và đă xâm thực Miền Nam. Họ giàu không thể tưởng. Tiện nghi phục vụ cho họ ở thành phố Saigon nay đă đổi tên Hồ Chí Minh theo kiểu Liên xô, không thua ǵ ở Mỹ. Cửa hàng sang trọng cung ứng y phục loại thời trang mới nhứt, mắc nhứt. Xe hơi Camry, Mercedes giá mắc gấp hai ba lần bên Mỹ, họ mua trả tiền mặt một lần như người ở Mỹ đi mua đồ garage sale. Hai vợ chồng cán bộ đi hai xe BMW Đức giá mỗi chiếc 125.000 là chuyện thường. Nhà hàng đầy cao lương mỹ vị, thịt ḅ Mỹ, bơ, rượu Pháp loại thượng thặng không thứ ǵ thiếu. Việt Kiều về xài phí không bằng tiền lẻ của giai cấp mới lạ đời này.

Bây giờ địa lư nhân văn Miền Nam hoàn toàn đảo ngược, đứng trên phương diện gia cư. Nếu trong cuộc di cư năm 1954, người giàu ở Miền Bắc vào mua số lớn nhà mặt tiền, chỉ một đường Gia Long mới nhiều bảng hiệu Cự, Cự. Nhưng sau 1975 và nhứt là sau thời kỳ CS mở cửa cho đầu tư ngoại quốc vào, dân CS Hà Nội vào chiếm tất cả mặt tiền của tất cả những con đường văn vật và thương mại sầm uất của Saigon. Xe du lịch cực sang, nhà cao cửa rộng, nhà hàng, nhà ngủ có sao, v. v. ở mặt tiền Saigon hầu hết là của giai cấp mới lạ đời đó.

Chiếm do tịch thu, cấp cho cán bộ và sau đó "hóa giá" -- bán rẻ như cho -- cho cán bộ đảng viên, từ tài sản sở hữu của những người mà CS gọi là "tư sản mại bản, ngụy quân, ngụy quyền có nợ máu với nhân dân" bị đày đi kinh tế mới hay đi tù cải tạo. Chiếm do xâm thực, bà con thân nhân của họ từ ngoài Bắc vào mua giá rẻ như bèo, "bán như cho, mua như giựt", chỉ bằng giấy tay, chỉ có họ mới dám mua, qua phong trào vượt biên, đi tỵ nạn CS, đi đoàn tụ gia đ́nh. Sau đó CS cho hợp thức hóa nhà đất và cấp hộ khẩu v́ có công với cách mạng hay do thế thần, biết đường hối lộ. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, CS dùng biện pháp trưng dụng công ích nhưng sử dụng cho tư lợi của cán bộ, và kế hoạch phát triển, làm bàn giá nhà đất để dân Saigon thấy cao bán ra ngoại ô hay vào hẻm mà ở để có phương tiện sống khá hơn.

C̣n bây giờ ở nông thôn, giai cấp mới lạ đời đó cũng mua hầu hết mặt tiền quốc lộ, tỉnh lộ. Nhờ họ làm việc hay có bà con làm việc trong các ban ngành biết rơ lộ giới mở ra cỡ nào, lộ mở thêm ở đâu, nơi nào sẽ phát triển đưa ra giá mua cao, và người dân Miền Nam thấy ham, bán để sống khá hơn v́ theo tập quán "ăn nhiều, chớ ở có bao nhiêu". Chính tâm lư đó khiến người Nam bị tróc gốc, rút dần vào trong sâu để ở; người Miền Nam gọi là vô trong "kinh", trong "ngọn" ở, người CS gọi là vô ở vùng "sâu vùng xa".

Sự xâm thực của CS Hà Nội, việc trộn dân, chiếm đất của CS Hà Nội thực hiện được không phải thuần túy do sức mạnh quyền thế, tiền bạc của cán bộ, đảng viên CS Hà Nội. Chính bản tính và lối sống quá dễ dăi của dân Nam đă tạo điều kiện "thuận lợi" cho sự xâm thực ấy. Miền Nam đất rộng người thưa, hai mùa mưa nắng đều ḥa, tạo thành một lối sống quá dễ dăi, "làm chơi, ăn thiệt", không cần tính toán, không cần bon chen. Ít ai người Nam lại đi lo nghĩ đến miếng ăn v́ quá thừa mứa. Có bao nhiêu là "xài, chơi xả láng sáng về sớm", rồi lại có nữa. Nam Kỳ Lục Tỉnh vựa lúa gạo thừa sức nuôi cả nước, mà c̣n dư để xuất cảng biến VN là nước xuất cảng lúa gạo hàng nhứt, nh́ của thế giới thời Pháp Thuộc và thời CS theo kinh tế thị trường.

Nhưng đùng một cái khi mới tóm thâu được Miền Nam, CS Hà Nội "siết", buộc tập thể hóa nông nghiệp, làm đói dân phải ăn bo bo. Kế đó CS "nới tay" một chút, sản lượng tăng liền nhưng Nhà Nước "no" mà Dân "đói". CS "no" v́ độc quyền nhập cảng và xuất cảng. Tăng giá bán "vật tư nông nghiệp" cho nông dân để Đảng Nhà Nước có lời. D́m giá mua lúa gạo để Đảng Nhà Nước "xuất khẩu" nhiều và lời. V́ thế nông dân cành làm càng lỗ, càng chết. Bế tắc với nguồn sống cổ truyền và phổ biến, là nông nghiệp, lại thiếu kinh nghiệm xoay trở v́ đất lề quê thói sống quá dễ dàng, như vợ công chức, sĩ quan sống nhờ lương chồng, không thích ứng, đối phó được với cuộc "đổi đời, sâu bọ lên làm người" sau 30-4-75, nên nhiều thảm trạng xảy ra cho gia đ́nh Miền Nam.

Ḍng sông Cửu Long, Tiền Giang, Cổ Chiên, Hậu Giang từng là nguồn sống của Nam Kỳ Lục tỉnh, từng là nơi phát nguyên Văn Minh Miệt Vườn, trong thời CS Hà Nội phải chứng kiến những thảm cảnh không thể tưởng tượng được. Cù Lao Dung nổi tiếng gái đẹp trở thành Đảo Cô Dâu Đài Loan của mấy Ông Trượng Đài Loan hồi dương liệt lăo "xài" gái cho đă rồi giao cho con trai xài chung. Cần Thơ, An Giang, Châu Đốc, Kiến Phong, Mỹ Tho gái đẹp như ḍng sông nước ngọt trở thành nô lệ t́nh dục cho mấy người Miên, mấy người Xiêm, mấy người Chà. Và đau đớn hơn nữa bị đem ra rao bán và đấu giá trên E-bay thời Tin Học, đầu thế kỷ 21 và đầu thiên niên kỷ thứ ba, thời mà nước VN với 4.000 văn hiến sống dưới chế độ tự thực dân, bị cai trị, và bóc lột bởi những người bề ngoài là Việt nhưng bên trong là CS.

Hố sâu ngăn cách giữa "giai cấp mới lạ đời" của CS Hà Nội và người Miền Nam cố cựu, ở Miền Nam, ngày càng sâu rộng. Sự xâm thực của CS càng ngày càng làm tróc gốc dân Nam. Dân Nam ngày càng vô hẻm vô hóc, vô ngọn, vô kinh để ở. Chế độ "tự thực dân" của CS Hà Nội ở Miền Nam ngày càng nghiệt ngă. CS Hà Nội càng ngày càng gây thêm đầu óc kỳ thị Bắc Nam.

 

VI ANH

(BAI CHUYEN sưu tầm)

 

website counter