|
NGÀY TẾT NÓI
CHUYỆN ĂN .. CÀ (Hoàng Long Hải) Đọc đầu đề,
có người sẽ nói ngay: "Tết nhứt, thiếu
chi món ăn ngon mà lại nói chuyện ăn cà. Bộ
hết đề tài để nói hay sao?" Xin thưa, ở bên Mỹ
nầy, sơn hào hải vị thiếu chi, nhưng
thường đó là những món ăn cho người giàu
có, ít phổ biến trong dân chúng Việt Nam, còn cà thì bình
dân, rất phổ thông, là món ăn thường ngày. ... Tuy nhiên, trong những ngày Tết
nhứt, các bà nội trợ cũng chịu khó chế
biến cà thành một món ăn ngon, và để cúng ông bà,
mà ông bà chúng ta phải nói rằng ít ai không khoái ăn cà. Cà là món ăn bình dân, truyền
thống, nhưng lại là hạng thấp nhất trong các
món ăn thường nhật, tương đương
rau lang, đậu bắp, mướp, bầu, bí, v.v... Ít
khi người ta dùng cà để thết khách, nhất là
khách quí. Không chừng mời khách quí ăn cà, khách còn cho là
bị bạc đãi như câu chuyện
Lưu-Bình/Dương Lễ vậy. Truyện kể rằng: "Ngày xưa,
Lưu-Bình/Dương-Lễ là hai bạn học rất
thân. Lưu-Bình con nhà giàu, nên ỷ mình, học hành không
được chăm chỉ. Dương Lễ con nhà
nghèo, thường được Lưu-Bình giúp đỡ,
ngày đêm dùi mài kinh sử để đạt
được bảng vàng. Ít lâu sau, Dương Lễ thi
đậu, được bổ ra làm quan. Còn Lưu-Bình
thi hỏng hoài, gia đình càng ngày càng khánh kiệt. Một
hôm, Lưu-Bình nghèo túng quá, tìm đến bạn cũ
nhờ giúp đỡ. Ai ngờ Dương Lễ bạc
đãi, sai gia nhân dọn cho Lưu-Bình "Một mâm cơm
với một quả cà". Ăn xong, Lưu-Bình cáo
từ lui ra, phẫn chí, quyết tâm học hành để
được như bạn, trả mối hận bị
bạc đãi ngày hôm nay. Trên đường đi, tình
cờ Lưu-Bình gặp một cô gái làm nghề buôn bán. Hai
người kết bạn. Cô gái khuyên Lưu-Bình chăm
chỉ học hành và sẽ làm lễ cưới sau khi chàng
đỗ đạt. "Nếu chưa thi đỗ thì
chưa động phòng". Quả thật mấy năm sau,
Lưu Bình nhờ chăm chỉ học hành nên thi
đỗ. Chàng về nhà để thăm người con
gái đã lo buôn tần bán tảo nuôi chàng ăn học.
Về đến nơi thì không thấy cô ta nữa. Nàng
đã bỏ đi mất. Trên đường đi đáo
nhậm nhiệm sở mới, Lưu-Bình ghé thăm
bạn cũ, để khỏi bẽ mặt với
người ngày xưa bạc đãi mình. Dương
Lễ tiếp bạn, rồi kêu người thiếp là
Châu-Long đem trà ra mời khách. Ai ngờ Châu-Long là cô gái
đã giúp đỡ Lưu-Bình trong mấy năm miệt
mài kinh sử. Bấy giờ Lưu-Bình mới hiểu rõ
lòng bạn khôn ngoan và cao thượng như thế nào.
Bạc đãi chỉ là hành động kích thích lòng tự
ái của Lưu-Bình để chàng chăm học, cho người
thiếp giả dạng cô gái chưa chồng, giúp
Lưu-Bình ăn học. Lưu-Bình chỉ còn cách khấu
đầu cảm ơn tình bạn mà thôi. Nói theo cách hiện thực,
quả cà là động lực làm sỉ nhục mà cũng
là kích thích lòng tự ái của Lưu-Bình, khiến chàng
trở nên chăm chỉ học hành, điều mà ngày
xưa Dương-Lễ đã từng khuyên nhủ bạn
mình nhưng không kết quả. Qua câu chuyện nầy,
người ta thấy quả thật cà không phải là món
ăn của nhà quan. Nó là món ăn của giới bình dân.
Trước năm 1968, một hôm tôi tính đi
Đà-Nẵng có công chuyện. Một người bạn,
hiệu trưởng một trường trung học
ở Huế, nói với tôi: "Anh cho tôi gởi cho anh
rể tôi hũ mắm cà". Tôi hơi ngạc nhiên. Anh
rể ông bạn tôi, một bác sĩ, lại ưa ăn
mắm cà, một món ăn rất mất vệ sinh. Ngay
từ khi còn nhỏ, tôi đã thấy ở các cửa hàng
của các bà già trong chợ bán mắm cà. Mắm để
trong một cái chậu đất sét nung, hơi giống
chậu trồng hoa. Trong chậu, cà được bổ
từng múi như múi cau, dầm trong mắm, thường
là mắm nêm. Người ta che nửa chậu mắm
bằng một nửa ngọn lá chuối, một nửa
để hở để khách thấy mắm mà mua. Không
ít ruồi xanh, ruồi đen bu trên những miếng
mắm hay bay lượn tìm địa điểm
để đáp xuống. Thỉnh thoảng bà chủ hàng
lấy cây quạt gắp huơ một cái để
đuổi ruồi. Đàn ruồi bay ù lên, đảo ngang
dọc trên chậu mắm, rồi lại tìm cách đáp
xuống tiếp tục tấn công chậu mắm cà.
Dĩ nhiên, thấy mà .. kinh. Ấy là chưa kể vài con
giòi to có, nhỏ có đang lúc nhúc bơi lặn trong
những chỗ có nước mắm. Khi có ai mua,
người bán xé lá chuối quấn lại như một
cái phểu để bỏ mắm vào đó, xếp
nắp đậy lại. Người mua khéo léo để
đứng gói lá vào rổ đi chợ, để
nước mắm khỏi tràn ra ngoài. Có lần, tôi
thấy một bà cụ già bán mắm lấy đôi
đũa vớt mấy con giòi quăng xuống
đất, nói một câu rất tỉnh: "Giòi mẹ thì
ngon, giòi con thì béo". Dĩ nhiên từ đó, tôi không
ăn mắm cà. Mẹ và các chị tôi, chẳng ai biết
làm mắm cà để ăn, sạch sẽ và vệ sinh
hơn thứ mắm cà mua ngoài chợ. Bây giờ, nghe người
bạn gởi hũ mắm cà cho ông anh bác sĩ, tôi lại
giựt mình. Tuy nhiên, tôi lại cũng từng nghe nói:
"Bác sĩ ở dơ hơn người ta". Ở đời,
nói và làm thường không đi đôi. Bác sĩ khuyên
người ta ăn ở vệ sinh nhưng bác sĩ
"mất vệ sinh" không thiếu gì. Do câu chuyện người
bạn, tôi khám phá ra một bà cụ ở trên dốc
cầu Kho Rèn ở Huế làm mắm cà ngon tuyệt
trần. Dĩ nhiên là rất vệ sinh. Kể từ đó,
tôi mới nhận ra rằng vì sợ dơ mà mấy lâu
nay, tôi đã "xa rời dân tộc". Sau biến
cố nói trên, tôi thường đưa vợ lên cầu
Kho Rèn mua mắm cà về ăn, trở về với con
đường truyền thống dân tộc Việt-Nam:
Ăn mắm cà. Tôi chưa đọc hết
truyện cổ tích, nhưng tôi vẫn còn nghĩ rằng,
trong kho tàng văn chương Việt Nam, không thiếu bóng
dáng những trái cà. Chẳng hạn như: Công anh làm rể có tài Một mình ăn
hết mười hai vại cà Giếng đâu thì
dắt anh ra Kẻo mà anh chết
theo cà nhà em Ngày xưa, trước khi
cưới, người con trai phải đến "làm
rể" bên nhà vợ. Làm rể là làm những công
việc nặng nhọc bên nhà vợ như cuốc
đất, trồng cây, đào ao, làm ruộng, v.v...
để trả ơn sinh thành cho người vợ
sắp cưới. Công việc thì nặng nhọc mà
ăn uống thì tiết kiệm, chỉ có cơm rau và cà
nên mới có lời than mà mỉa mai của người làm
rể. Ở thôn quê, việc làm ruộng
cần có nhiều người giúp sức, nhất là khi đến
mùa như việc cày, cấy hay gặt lúa. Người
đến làm thuê được nhà chủ bao cơm
ăn. Các thợ bạn, nhất là đám con trai, "Nam
thực như hổ", cơm thì nhà chủ cho ăn no
(ăn no mới làm việc giỏi) nhưng đồ
ăn thường thì thiếu vì nhiều khi đồ
ăn rất mắc mỏ. Thịt thì không có, chỉ có cá
và canh, hay món kho. Cũng không đủ nên người ta
phải muối cà để "đưa cơm".
Nhiều khi người ta cũng sợ hao cà nên muối
cho mặn để tiết kiệm. Muối càng mặn,
ăn càng khát nước, uống trong lu vại không
đủ, phải ra giếng mà uống cho vừa bụng
như lời mai mỉa của anh con trai trong bài ca dao nói
trên. Truyện cổ tích cũng còn
kể: "Cậu bé làng Phù Đổng
vươn vai đứng dậy thành một người
cao lớn dị thường. Cậu bé xin mẹ nấu
cho một nồi cơm thật to để ăn
trước khi ra trận. Cậu ăn bao nhiêu cũng không
đủ no. Người làng phải phụ giúp, cậu bé
ăn hết ba nong cơm với ba nong cà .." Về số lượng cơm,
cà cậu bé đã ăn, có thể lên xuống tùy theo sự
hứng cảm của người kể chuyện,
nhưng chắc chắn trong bữa cơm của cậu
phải có cơm và cà là hai món ăn chính của
người dân quê Việt-Nam. Cà có hai loại: Cà trắng và cà
tím. Cà trắng cũng có hai
loại: Cà pháo và cà dĩa. Cà pháo là loại cà trái
nhỏ, lớn lắm cũng chỉ bằng trái mù-u.
Loại nầy ít khi ăn sống và thường
để làm mắm cà chứ không muối cà vì cà pháo đắt
hơn cà dĩa. Nhà khá giả một chút mới ăn cà
pháo. Cà được cắt cuống để bỏ vào
hũ với mắm. Nếu trái hơi to thì người ta
thường chẻ làm đôi. Cà dĩa là loại cà
trái to bằng dĩa trà. Cà nầy rất phổ thông trong
món ăn của người nhà quê. Trái cà được
chẻ thành sáu hay tám múi tùy theo trái cà to nhỏ, cũng
được bỏ vào hũ mắm, thường là
mắm nêm hoặc tương nếu người ta ăn
chay. Cà phải chìm xuống dưới mặt nước
để khỏi phải bị thâm đen, khi múi cà
được gắp ra dĩa, trông vẫn còn màu trắng
của nó. Ở nhà quê, nhất là ở
miền Bắc Việt-Nam, không có nhiều cà để làm
mắm cà nên chỉ muối cà, gọi là cà muối,
nghĩa là người ta ngâm cà trong nước muối,
chỉ có muối mà thôi. Trong bữa ăn của
người nhà nông, nhất là khi có thợ bạn
đến cày, cấy, v.v... bao giờ cũng có một
dĩa cà, hoặc một tô cà muối, nếu có đông
người ăn. Trước khi đem mắm hay
muối cà, nếu là cà pháo thì trái để nguyên hay chỉ
bổ làm đôi, cà dĩa thì bổ làm sáu, làm tám, đem
phơi một nắng cho vừa ỉu đi một chút.
Mục đích là để cà tháo bớt nước,
chất mắm hay muối có thể thấm vào cà.
Người ta không phơi lâu vì sẽ làm cho cà không còn dòn mà
lại dai, khó nhai. Để tiết kiệm,
người ta chỉ gắp cà ra ăn, mắm để
lại trong hũ để bỏ thêm cà mới vào. Do
đó, tục ngữ mới có câu: "Có cà thì tha gắp
mắm". Người ta cũng ăn cà
sống nhưng thường chỉ ăn cà dĩa mà thôi.
Người nội trợ bổ trái cà dĩa ra làm
nhiều múi, sắp quanh trên một cái dĩa lớn
bằng cái dĩa trà, cùng với một vài lát khế
xắt mỏng và ít cọng rau thơm. Bên cạnh có
một dĩa ruốc. Khi ăn, người ta gắp
miếng cà quẹt vào đó một chút ruốc cùng với
ngọn rau thơm. Rau làm thơm mũi, ruốc có vị
mặn và miếng cà sống thì dòn, nhai rau ráu. Sau khi ăn
vài miếng cà có ruốc, người ta ăn một lát
khế. Chất khế chua làm "sạch"
lưỡi. Như thế miếng cà ăn tiếp sau
mới ngon vì nếu không, chất ruốc mặn
đọng lại trên lưỡi làm mất ngon. Dĩ
nhiên, "dân mắm ruốc" rất thích ăn theo
kiểu nầy, nhất là về mùa hè, ăn miếng cà
sống như thế, người ta cho là "mát". Người ta cũng ăn cà
hấp. Trái cà dĩa được bổ ra nhiều múi
mỏng (không cho múi cà lìa hẳn nhau, còn dính tí chút). Khi
nồi cơm vừa cạn, người ta mở vung,
bỏ dĩa cà vào, đậy nắp lại. Hơi nóng
của nồi cơm đủ làm cho cà chín. Trước
khi dọn ra mâm, người ta ép cho cà ra bớt
nước, đổ nước đi, rồi đổ
lên dĩa cà một ít nước mắm và vài trái ớt,
vài múi tỏi giã vừa dập hoặc một ít hành
chấy (hành phi). Để lạ miệng, cà còn
được các bà nội trợ "chế
biến" thành cà luộc, cà nướng (thường là
cà tím) gỏi cà, v.v... Cà tím vì có màu tím. Còn gọi là cà dái dê
hay cà dê vì có hình dạng như dái con dê đực. Cà tím
thường dùng để ăn sống, nướng,
hấp hay luộc, chiên có thêm một ít thịt heo hoặc
"tóp" mỡ, v.v... Người ta không muối cà hay
làm mắm cà bằng cà tím bao giờ. Miếng cà mắm thường
cắt nhỏ, ăn thì ngon nhưng trông thật xấu xí.
Tôi có thể chứng minh một ví dụ về hình ảnh
xấu xí của mắm cà bằng câu ca dao sau đây: "X" .. ngồi
thò lõ dái ra, "Y"..
tưởng mắm cà đem dĩa qua xin. Người ta không trồng cà
ở ruộng vì cây cà không chịu nước như lúa.
Cây cà chịu đất khô. Ít, chỉ để ăn trong
gia đình thì người ta trồng trong vườn nên có
khi người ta gọi là "vườn cà".
Nhiều, người ta trồng ngoài rẫy; ngoài phần
để ăn, người ta hái đem bán ở chợ.
Nói chung, ở nhà quê, nhà nào cũng có trồng cà. Cà ưa nắng nên người ta
trồng cà sau khi mùa mưa lạnh chấm dứt, nghĩa
là cà được trồng vào tháng hai âm lịch, trễ
lắm là tháng ba. Ca dao có câu: Tháng giêng là tháng ăn
chơi Tháng hai trồng
đậu, tháng ba trồng cà .. hoặc: Tháng giêng là tháng ăn
chơi Tháng hai trồng
đậu, trồng khoai, trồng cà. hoặc một câu
khác nữa: Tháng chạp thì
mắc trồng khoai Tháng giêng trồng
đậu, tháng hai trồng cà. Việc trồng cà, đậu có
xê xích đôi chút có lẽ là do vùng đất có khác nhau vì
nước ta trải dài trên nhiều vĩ độ khác
nhau. Ở nhà quê, để tiết kiệm đất,
người ta trồng cà và ớt chen nhau. Nếu tháng hai thiếu (ngắn
ngày), có nghĩa là mùa nắng đến sớm, cà sẽ
không được mùa. Sau đây là kinh nghiệm của
người nhà nông: Thiếu tháng hai
mất cà Thiếu tháng ba
mất đỗ Và một kinh
nghiệm khác nữa: Đom đóm bay ra,
trồng cà ra đỗ Tua rua bằng
một, cất bát cơm chăm Phải đến mùa hạ
mới nhiều đom đóm. Đom đóm ra sớm có
nghĩa là mất mùa cà. Câu sau thì chịu, chưa hiểu ý
tứ thế nào. Quí độc giả nào có kinh nghiệm
ở nông thôn, xin chỉ giáo giùm. Người trẻ thích ăn
mắm cà hay cà muối. Người già thích ăn dưa vì
dưa mềm hơn, dễ ăn. Vì vậy, tục
ngữ lại có câu: "Trẻ muối cà, già muối
dưa". Vì cà là món ăn truyền
thống, dân tộc, nên đi xa, không có cà để ăn,
người ta sinh ra .. nhớ: Ra đi lòng nhớ
mẹ già, Nhớ canh rau
muống, nhớ cà dầm tương. Sau khi nhớ mẹ, tác giả
đâm tra nhớ món cà. Không phải anh ta "Dĩ thực
vi tiên" nhưng cà là món ăn tượng trưng cho quê
hương. Thành ra, nói cho đúng thì tác giả sau khi
nhớ mẹ thì nhớ quê hương, làng xóm mình. Bên
cạnh cà, anh ta nhớ "canh rau muống". Như thế,
người ta có thể đoán tác giả là dân .. "Bắc-kỳ". Ngoài trái, người ta cũng
thích màu hoa cà, hay nói đúng hơn là màu tím hoa cà. Đi qua
một vườn cà đang lúc hoa cà nở rộ, một
màu tím đẹp đập vào mắt ta. Màu tím hoa cà
lạt hơn màu tím hoa sim một chút, một màu tím có
lẽ nhiều người đã đọc trong một
bài thơ của Hữu Loan: Chiều hành quân Qua những
đồi sim Những đồi
hoa sim Tím cả chiều
hoang biền biệt Thật ra, người thành
phố dễ tưởng lầm màu tím hoa sim và màu tím hoa
mua. Dọc theo quốc lộ 1, quãng giữa thành phố
Quảng Trị và thành phố Huế, nhìn về phía Tây,
phía dãy Trường Sơn là một vùng đồi hoang.
Ở đây, cây mua mọc lẫn lộn với cây sim. Khi
đến mùa, hoa sim và hoa mua đua nhau nở rộ
rất đẹp. Cây mua cùng một họ với cây
sim, hoa màu tím như nhau, nhưng trái mua không ăn
được. Trái sim khi chín có màu tím sẫm, vị
ngọt, ăn rất ngon. Ca dao có câu: "Đói lòng ăn
nửa trái sim, Uống lưng bát
nước đi tìm người thương" Ăn nửa trái sim vì ăn
nhiều thì xót ruột, uống lưng bát nước vì
uống hết bát thì nặng bụng, xóc, không thể
đi xa tìm người thương được. Ngày trước, con gái đàn bà
cũng thường mặc áo màu tím hoa cà hay hoa sim. Ngày nay,
người ta chê màu đó hơi quê. Người ta
chọn màu áo tím đậm hơn, đó là màu tím dạ-lan
hay màu tím than, có nghĩa là màu tím đậm. Đang nói chuyện ăn,
bỗng lan man qua chuyện mặc. Nói như thế là
đi hơi xa, nên xin dừng bài viết ở đây. HOÀNG LONG HẢI (Sưu
Tầm Liên Mạng chuyển) |
|
|