SU'U TÂ`M (tt)

Home | VA(N | VA(N (tt) | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N 11 | VA(N 12 | VA(N 13 | VA(N 14 | VA(N 15 | THO* | THO* (tt) | THO* 1 | VA(N VUI | VA(N VUI (tt) | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 4 | VA(N VUI 5 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T (tt) | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | BÀI VIÊ'T 8 | BÀI VIÊ'T 9 | BÀI VIÊ'T 10 | BÀI VIÊ'T 11 | BA`I VIÊ'T 12 | BÀI VIÊ'T 13

BÀI VIÊ'T

Đất nước đẹp vô cùng nhưng chẳng có ǵ ăn

 

Đất nước đẹp vô cùng nhưng chẳng có ǵ ăn
Cho con được một lần xuất ngoại!

(Chí thời nay)

 

Có một lần tôi nghe một anh chàng lẩm nhẩm như vậy với vẻ mặt câng câng đốn mạt, tôi rất bực ḿnh chỉ muốn đánh cho anh ta một trận, đấm cho vỡ mơm. Người Việt có câu "miếng ăn là miếng nhục", việc nói ra miệng cái thiếu đói của ḿnh là điều không thể chấp nhận được. Nhớ thủa nhỏ nếu có vô t́nh đến đâu gặp bữa ăn, dù có đói cồn cào trong bụng được mời tôi vẫn dơng dạc nói, "cháu ăn rồi, cháu vừa mới ăn xong". Tôi nhớ những lần đang ăn cơm chợt có khách dù tất cả vẫn c̣n đói, dù cái nồi cơm đă sát đáy, dù con mắt những đứa trẻ gày guộc dơi theo những hạt cơm cuối cùng, cả nhà vẫn niềm nở "em mời bác xơi cơm", "cháu mời bác ăn cơm", và chúng tôi cùng nhập vai một vở kịch bi hài cả chủ lẫn khách cùng chèo kéo, nói thế mà chẳng phải thế đâu , người mời ăn hết sức chí t́nh, người từ chối cũng rất là chính đáng. Lễ giáo là thế, vậy mà cái anh chàng mất dạy kia cứ nhai đi nhai không biết ngượng, lại c̣n nói thành thơ, thật hết chỗ nói ! Cái hết chỗ nói ở đây là chỗ anh ta không nói anh ta đói, anh ta thiếu ăn v́ thế anh ta phải xuất ngoại, mà là cái khốn nạn anh ta dùng từ đất nước, cái không phải của riêng anh, cái của 82 triệu đồng bào quốc nội, cái của hơn 3 triệu người Việt ở hải ngoại , cái có cả phần tôi trong đó, thế có điên không hỡi đồng bào ! Bớ quốc dân đồng bào đánh cho cho cái thằng chí phèo đời nay ấy một trận, đánh cho nó nhừ xương, đánh cho nó tiệt đường chửi cả cái làng Vũ đại.

Ngày tháng trôi đi tôi bôn ba khắp xứ, kỹ thuật thông tin làm trái đất như nhỏ lại, tôi có bạn bè khắp 4 châu: mới hôm qua nhận tin làng người Việt bên Cambodia bị bạc đăi; hôm nay lại nghe người con gái bị cưỡng dâm thổn thức từ Đài loan; chưa kịp yên với tin ngư phủ của ta bị bắn, lại biết tin có người vượt biên bị bắt, chết trong chỗ tạm giam v́ bệnh sida ở Ukraina. Lầm lũi trên con đường kiếm tiền nơi xứ người, ngoảnh lại chúng ta đă ở cuối năm năm thứ năm của thế kỷ 21, cùng với chúng ta, cái "Đất nước" cũng hiện diện trong năm 2000 lẻ 5. Tôi nh́n thấy cái vui của một người bạn vừa đón được anh và cháu từ Việt nam qua. Tôi nh́n thấy cái tự hào của một bác được con đón qua chơi, lang thang theo xe đổ hàng của con đi khắp chốn, xe đệm êm, đường phẳng, cảnh trí đẹp, ngày ngày ăn restaurant Tàu, Tây, Việt. Thích ǵ ăn nấy, hoa trái th́ họp đủ 5 châu cho bác chọn. Cái đau, cái buồn, cái nhục của một thời làm cha của thằng phản động không c̣n lại vết tích trong bác. Thay vào đó là niềm tự hào có con là Việt kiều, thích th́ bác bay qua chơi, chán bác bảo ông con "mai cho tao về", ông con chỉ nháy một cú điện thoại có người mang vé đến tận nơi. Ông nói, "chúng nó bận cả chỉ có thứ Bảy, Chủ nhật thôi, muốn đi đâu chúng nó chở đi. Vào rừng nướng thịt, hay ra băi tắm, tuỳ thích. Ngày thường ở nhà xem TVT4 chán, tôi lại theo xe mấy chú giúp việc. Hôm đi xe này, hôm đi xe khác, cháu nhà tôi nó c̣n làm cả dịch vụ đưa người". Bác là một người hạnh phúc !

Ḍng người vẫn ra đi vào năm 2000 lẻ 5, người hạnh phúc như bác thật hiếm ! Ba bốn ngh́n đô một người qua Nga, 35 vé (1 vé = 100$) 1 người qua Ukraina, 60 vé 1 người qua Tiệp, 70 vé 1 người qua Đức, 10 vé 1 người qua Malaixia , 40 vé qua Đài loan, 120 vé qua Nhật , 120 vé 1 người qua Hàn khô (lao động tại Hàn quốc trên đất liền ), 30 vé 1 người qua Hàn biển (lao động tại Hàn quốc trên tàu biển), Iran, Irắc, Brunei, c̣n đi đâu nữa hả giời !!! Bằng mọi giá, bằng mọi cách, trong ḍng người đi đó có người đi làm osin , có người lấy tấm thân làm phương tiện rời quê. Lấy chồng không cần quen, không cần hiểu, không cần nói không cần nghe. Có người vượt rừng lội tuyết, trốn trong cốp xe như những con bạc khát nước gán nhà mượn nợ đánh nốt canh bạc cuối đặt cả ḿnh lên sự may rủi, trả tiền cho sự phạm pháp vượt biên của ḿnh và trong đó cũng có người ấp ủ lư tưởng anh hùng hi sinh đời bố củng cố đời con !

Nói ǵ th́ nói chúng ta có thể dùng đủ mọi thứ lư luận, chúng ta có thể dùng đủ mọi thứ bào chữa, chúng ta có thể khẳng khái nói "cháu ăn rồi , cháu vừa mới ăn xong", chúng ta có thể đập bể mơm cái thằng Chí 2000 lẻ 5, nhưng chúng ta không thay đổi được cái thực tại khốn nạn "Đất nước đẹp vô cùng nhưng chẳng có ǵ ăn" ở cái thế kỷ 21 này. Tôi phải đau đớn nhận ra rằng cái anh Chí thời nay có cái đúng của nó, mặc dù cái đói thời nay khác với cái đói thời xưa. Nhớ lại tâm sự của một anh bạn đi xuất khẩu lao động, khi đặt chân lên nước Liên xô vĩ đại anh thốt lên "Sống rồi ! Thịt bay đầy giời". Trước những quảng trường tràn ngập bồ câu, cái cảm nhận đặc biệt đó chỉ có ở con người Việt nam ra đi từ xứ sở nhớn bùi bé mềm, tḥng bong con cấn, loại nào cũng ngọt canh hết. Cái đói thời nay có khác ! Có người xa xứ 15 năm chưa một lần trở lại quê nhà nhận những ḍng thư sau thật vui thật phấn khởi : "con ơi đất nước giờ đổi khác lắm rồi không c̣n ai lo đói nữa ! giờ người ta chỉ nghĩ tới ăn ngon mặc đẹp thôi", anh khoe tôi. Tôi chỉ biết cười buồn không muốn làm anh mất vui, niềm vui hiếm hoi của người khắc khoải nghĩa sinh thành không bao giờ được nói ra. Anh cần tin như vậy v́ nó là niềm an ủi, bố anh cũng cần tin như vậy để an ủi anh con, không dám nói ra rằng giá con chỉ gửi về dăm trăm đôla thôi cũng thay đổi nhiều lắm cho cuộc sống của gia đ́nh.

Cái thiếu thời nay thật lạ ! Người ta khuyên nhau: đừng chọn rau ngon, mua rau nào sâu sâu 1 chút đừng thấy non là mà thích nhé, thuốc trừ sâu đấy ! Eo ơi, phở họ cho thêm thuốc ướp xác. Họ kể chuyện cho nhau nghe: cái lăo chột khôn nứt mắt hắn giàu v́ bán rượu, rượu ngon không ngon vào tay hắn thành ngon hết chỉ một đầu tăm thuốc trừ sâu vào chai rượu thôi, rượu đục cũng thành trong, rượu nhạt cũng thành đậm. Bà Trương Lan Anh, phó chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Nước Chấm Sài G̣n kiêm chủ nhiệm Hợp Tác Xă Thuận Phát, nhận định, hơn 90% các cơ sở sản xuất nước tương theo công nghệ thủy phân nên chắc chắn độc tố 3-MCPD sẽ có trong nước tương. Bà Phạm Kim Phương, Giám Đốc Trung Tâm Dịch Vụ Phân Tích Thí Nghiệm (ASE) cho biết, một doanh nghiệp sản xuất đă gửi đến trung tâm 9 mẫu sản phẩm để xét nghiệm. Trong 5 mẫu xét nghiệm đầu tiên đều phát hiện có đến gần 10% độ đạm urê trong các sản phẩm này . Phát minh vĩ đại bón phân urê vào nước mắm . Sự vô lư không thể tưởng tượng được trên đất nước có đủ các thứ thực phẩm giả , sự vô lư không thể chấp nhận được trong đủ loại các thực phẩm sản xuất từ tư nhân tới quốc doanh chứa đủ các loại độc tố, ai cũng biết ai cũng nghe, ai đó có chết v́ độc tố là do không may và rồi hầu như ai cũng chấp nhận dù khuất mắt trông coi hay thậm chí ván bài lật ngửa. Tôi thấy một chị trên ḿnh đủ các loại thừng vàng chen nhau khoe sắc theo kiểu thời nào cũng mốt, vàng tây, vàng ta lại cả vàng bạch kim, đập lên đập xuống miếng thịt cao giọng, sao đắt thế. Dạ ! chị ơi không đắt đâu giá phải chăng, miếng này ngon nhất chợ ! Giọng cô hàng thịt nhũn như con chi chi. Không nhất chợ th́ chị tưởng tôi mua đấy hả ! Nhưng cắt cổ người ta vừa vừa thôi, bớt đi ! Cái thiếu bám chặt lấy con người tạo cho người ta có thói quen giành giật, nó chen vào từng chân tơ kẽ tóc của mỗi cử chỉ.

Chỉ ngó qua một khía cạnh nhỏ cuộc sống là miếng ăn thôi đă thấy nó đủ thứ nhọc nhằn, bất an, bế tắc. Sự chấp nhận sự chịu đựng một cách triền miên thành thói quen gần như vô phương cứu chữa. Có một cơ may hiếm hoi không phải ai cũng có đó là xuất ngoại. Nếu cơ may đó đến người ta nắm lấy thực hiện nó bằng mọi giá. Nhưng trong số đó không phải ai cũng đủ trâng tráo hay đủ thành thật để đọc thành thơ như thằng Chí thời nay:

Đất nước đẹp vô cùng nhưng chẳng có ǵ ăn
Cho con được một lần xuất ngoại


ANH CHÍ

- Cộng ḥa Séc, 18/8/2005-

 


(NGƯỜI SÀI G̉N sưu tầm)


LẠI CHUYỆN "MÀY, TAO"

 

LẠI CHUYỆN "MÀY, TAO"

(Chu Tất Tiến)

 

Trong những bài viết trước đây, cũng về chữ "mày, tao", người viết đă có dịp tŕnh bầy lại những nét văn hóa tuyệt hay của văn chương, chữ nghĩa Việt Nam mà không có một dân tộc nào có được.

 

Khi vừa tán nàng, th́ anh nói "thưa cô, cô cho phép tôi được làm quen nhé?" Nếu nàng không chịu đèn, nàng trả lời: "Tôi không huởn!" Trường hợp mà ông nọ lại cỡ "sồn sồn", mà nàng mới chưa tới ba mươi, nàng có thể nhoẻn miệng cười: "Thưa Chú, cháu không dám ạ !" Hoặc: "Thưa Ông, tôi không hiểu Ông nói ǵ!" Nhưng nếu nàng thấy cũng có chút chút cảm t́nh, th́ nói: "Lan .. không biết đâu!". Nàng dùng tên ḿnh để xưng hô. Nếu chịu hơn một chút, lại nói: "Em .. em .. tùy anh đấy!" Chàng được thể, cũng lập tức xưng "anh" và gọi nàng bằng "em" luôn ! Rồi hẹn ḥ, bồ bịch, chàng âu yếm gọi nàng: "Bà xă ơi! ra đây ông xă biểu nè!" Sau khi trầu cau, rồi mấy tí nhau ra đời, chàng gọi nàng bằng "bà nó" và nàng gọi chàng bằng "ông nó". Vui miệng, chàng kêu: "Má cu Tư đâu, ra tui biểu !" Người Bắc đôi khi gọi vợ bằng "mợ", gọi chồng bằng "cậu". Như thế, văn nói của người ḿnh, phải công nhận là độc đáo lắm, hay lắm, dễ thương lắm.

 

Vậy mà, một số đông người, khi dịch chữ "I, YOU" lại biến thành "mày, tao" ráo trọi ! Gọi mấy tên bạn Mỹ bằng "mày, tao" th́ "Ô Kê" nhưng bảo những người Mỹ gọi ḿnh bằng "mày, tao" th́ quái dị quá!

 

Một ông kể chuyện cho bạn bè nghe: "Hôm nọ, tự nhiên, con mẹ xếp tao, gọi tao lên nói Mày làm việc giỏi lắm, tao tăng lương cho mày đấy !" Nghe một bà đầm Mỹ xưng "mày, tao" với đàn ông Việt thật rất tức cười, rất "oải", nhưng nếu ghép mấy chữ "mày, tao" vào miệng mấy nhân vật chính trị lại càng lạ lẫm hơn!

 

Bữa hổm, nghe một nhân vật chính trị kể chuyện về cuộc gặp gỡ với một chính khách Mỹ. "Ổng" nói: "Ông X. nói với tôi là cộng đồng mày cứ yên chí đi, tao sẽ giúp tối đa cho tụi mày!" Nghe xong câu này, mọi người đều thấy lỗ tai lùng bùng, không tin nổi là có những danh xưng thân mật đó được dành cho câu chuyện trên. Bởi v́ những chữ "mày, tao" đó được dùng để trả lời cho một câu hỏi rất trịnh trọng của nhân vật kia: "Thưa Ông X., về vấn đề mà cộng đồng chúng tôi đang đề cập đến, ông nghĩ sao?" Như vậy, chẳng hóa ra là ông X. kia coi thường người hỏi như một kẻ thuộc cấp dưới tay, nên mới dùng chữ "tao, mày"? Hoặc là ông kia đă thân mật từ mấy kiếp, nên vừa gặp đă vỗ vai "mày, tao"?

 

Không c̣n "Ông, bà, anh, chị" nữa sao ? Không c̣n chút lịch sự tối thiểu nào với nhau nữa sao ? Bà Giám đốc một cơ quan chính phủ được gọi là "con mẹ", một cộng đồng được gọi là "tụi mày", nghe rất kỳ lạ. Nếu những câu trên mà được dịch là: "Hôm nọ, bà xếp tôi gọi tôi lên, nói Anh làm việc giỏi lắm, tôi tăng lương cho anh" và "Anh cứ yên chí đi, tôi sẽ giúp tối đa cho các anh" th́ cả người nói và người nghe thấy thoải mái hơn nhiều.

 

H́nh như sang Mỹ rồi, một số người Việt ḿnh nẩy sinh ra mặc cảm tự ti, v́ nghĩ rằng ḿnh đi sang đây, phải nhờ vả người ta, tâm lư lúc nào cũng không ổn. Nên gọi luôn người chủ nhà bằng "mày", và xưng "tao" cho đỡ mặc cảm. Kể như là họ thân mật với ḿnh, kể như là họ bằng vai vế với ḿnh, hoặc là muốn ra cái điều ta hơn họ, nên mới gọi họ bằng "mày". Điều ngạc nhiên là những danh xưng thân mật lố bịch này lại phát xuất từ nhiều người có học đầy đủ nữa. Không phải chỉ là những em nhỏ đang học Việt ngữ, chưa rành tiếng Việt nên mới nói rằng "Má con đi chơi bời rồi !" hoặc " Mấy anh em con nhà nó đến thăm bố tao .."; không chỉ là những người bạn thân mật "mày, tao", những người ít để ư đến văn học, văn hóa, văn chương; mà các nhân vật trịnh trọng cũng hay dùng danh xưng "mày, tao" nữa. Dĩ nhiên, cũng có nhiều trường hợp, người dịch bất ngờ không kịp t́m ra danh xưng thích hợp, nên mới tạm dùng hay chữ này thay thế. Nhưng điều này, nếu có, chỉ xẩy ra thoáng chốc mà không lặp lại. Việc tiếp tục lặp đi lặp lại như một thói quen hai chữ "mày, tao" mới thật cần sửa đổi.

 

Văn hóa Việt Nam có nhiều nét đặc thù mà chúng ta thấy cần phải hănh diện. Như ngôn ngữ thông dụng có nhiều biến đổi lạ lùng mà rất ít người ngoại quốc học được, như những tác phẩm văn chương vĩ đại mà thế giới phải khâm phục (Đoạn Trường Tân Thanh, Cung Oán Ngâm Khúc, những bài hịch của Nguyễn Trăi, Trần Hưng Đạo ..) như chất "thơ" đă thấm nhập vào hầu hết mọi người lớn tuổi đang sống ở Việt Nam, hoặc sống ở quê hương nhiều hơn ở nước ngoài, (từ cô gái chèo ghe, đến anh trai làng, anh thợ mộc, thợ nề, giới trẻ đến lớp già .. cũng biết làm thơ hoặc thích nghe thơ), như vậy, nếu ḿnh có thể trân trọng, bảo vệ và phát huy nền văn hóa này đến lớp trẻ, thế hệ thứ hai th́ chẳng phải là công việc đáng làm ư ?

 

Trong việc bảo vệ và phát huy nền văn hóa trong sáng này, có một công việc giản dị mà ai làm cũng được, đó là việc xử dụng đúng cách, đúng chỗ những Nhân xưng đại danh từ, nhất là hai chữ "mày, tao", để cho thế hệ trẻ không có ư nghĩ rằng văn hóa ḿnh đang đi xuống. Nếu hai người đang yêu nhau, không thể gọi nhau bằng "mày, tao", th́ tuyệt đối cũng không có những vị giáo sư gọi học tṛ Việt bằng "mày", lại càng không thể cho chính khách ngoại quốc gọi cộng đồng ḿnh bằng "chúng mày" được.

 

CHU TẤT TIẾN

(NGƯỜI SÀI G̉N sưu tầm)

 

Xin gửi lên quư vị, bài đọc phân tích về sự dối trá trong tác phẩm "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh

 

Xin gửi lên quư vị, bài đọc phân tích về sự dối trá trong tác phẩm "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của Bảo Ninh.

 

Bài viết phản bác từ người lính viết văn Trần Hoài Thư, người sỹ quan thám báo QLVNCH.

 

Nhà văn Trần Hoài Thư, thế hệ đàn anh của cá nhân ḿnh, sống sót trong trận chiến.

 

Nhà văn Trần Hoài Thư, thường xuyên viết trong các tạp chí văn học như Văn, Bách Khoa v..v. trước 1975.

 

Hiện thời đang chủ trương Thư Ấn Quán, một cơ sở xuất bản "Book On Demand".

(NGUYỄN ĐĂNG TUẤN) 


********

 

ĐỐI THOẠI VỚI NHÀ VĂN BẢO NINH

(Trần Hoài Thư)

 

Từ lâu, người ta đă chờ đợi những tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam bằng ng̣i bút trung thực, vượt khỏi định kiến, guồng máy, lập trường, từ những nhà văn miền Bắc. Tại sao là miền Bắc ? Bởi v́, những người viết của miền Nam ít ra, đă thả dàn biểu lộ hầu hết những ǵ mà họ đă tham dự hay nhân chứng, mà không bị ràng buộc bởi bất cứ một ai, bất cứ một thế lực nào. Chính v́ sự mong mỏi ấy, những tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, vân vân .. đă được đón nhận từ trong nước, đến ngoại quốc, và cả người Mỹ lưu tâm về Việt Nam và đă được xem là hiện tượng. Trong số những tác phẩm này, tôi được đọc hai truyện dài: Ly thân của Trần Mạnh Hảo, và Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tôi xin được góp ư về Nỗi buồn chiến tranh (NBCT) v́ truyện này đă nhắc thường trực về những người lính thám báo VNCH, mà tôi là một thành viên. Hơn nữa NBCT hiện nay là một đề tài thảo luận sôi nổi trên internet, qua những Newsgroups và Usernet. Ngoài ra, truyện đă được dịch sang tiếng Anh (Bao Ninh, The Sorrow of War. Vietnamese original Hanoi, 1991; English translation London: Martin Secker & Warburg, 1993; New York: Pantheon), phổ biến trong các đại học Mỹ, tác động nhiều trong tâm trí của những người tuổi trẻ hải ngoại, không đủ khả năng đọc Việt ngữ. Nguyên bản bằng tiếng Việt đă được in ở Mỹ do Nam Việt xuất bản, Phạm Việt Cường viết tựa, với kết luận như sau:"Nỗi buồn chiến tranh là một thành tựu văn học vô cùng lớn lao, là một tác phẩm sâu sắc nhất về chiến tranh Việt Nam từ trước đến giờ, và chắc chắn sẽ tồn tại lâu dài trong kho tàng văn học Việt Nam".

Thưa nhà văn Bảo Ninh,

Trước hết tôi phải cám ơn anh v́ nhờ đọc Nỗi buồn chiến tranh tôi mới hiểu rơ hơn về tâm tư của một thế hệ và giai đoạn mà tôi cũng như anh là những người trong cuộc. Anh viết về sự đổ vỡ và phá sản bi thảm của tuổi trẻ miền Bắc trong cuộc chiến đấu mà chế độ từng nói là cuộc chiến đấu thần thánh chống Mỹ cứu nước. Anh đă kể về những đồi ma chập chùng ở miền cao nguyên nồng nặc tử khí. Lính Mỹ. Lính miền Nam. Lính miền Bắc. Anh viết về những chiếc T54 nghiến trên những người lính sư đoàn 18. Anh viết về những lưỡi dao găm thọc vào tim máu phụt thành tia ṿi. Anh viết về nỗi tuyệt vọng của những người lính trinh sát qua Kiên, hay của những bè bạn của anh ta, đào ngũ, dao động, hoang mang cùng cực. Anh lại kể về trận đánh ở Ban Mê Thuột vào một trung tâm cảnh sát, cùng những người nữ cảnh sát viên thuộc hàng ngũ miền Nam, và nhất là sự có mặt hầu như ám ảnh suốt truyện về những toán thám báo. Anh đă tả lại một toán thám báo vào mật khu, bắt theo 3 cô gái, hăm hiếp và sau đó giết họ rồi vất xuống sông. Anh nêu đích danh tay chỉ huy là một trung úy.

Nói tóm lại anh đă lột tả trần trụi nỗi kinh hoàng của chiến tranh, không che đậy, giấu giếm. Ngoài ra anh cũng vén cái màn dối trá từ lâu đă bao trùm cả xă hội và tuổi trẻ miền Bắc. Đó là điều hiếm có cho nền văn học trong chế độ xă hội chủ nghĩa.

*

Thưa nhà văn Bảo Ninh,

Tôi đă rưng nước mắt trên những trang giấy về nỗi chán chường cùng cực của một thế hệ bị đẩy vào ḷ nướng, nhưng tôi không thể không phẫn nộ khi anh dùng nỗi buồn chiến tranh ấy để cố ư xuyên tạc bôi nhọ một hàng ngũ thất thế.

Xin đọc lại đoạn tả một trung úy thám báo bị phe các anh bắt làm tù binh: "Tên nom to con nhất trong bọn, mắt trái bị báng súng dộng ḷi ra, máu ḥa nước mưa nhuộm đỏ nửa mặt, đưa con mắt lành nh́n Kiên cười khẩy, và khàn khàn nói, nhe hàm răng trắng ởn. - Ba nhỏ đó tŕnh quí anh, tụi này làm thịt cúng hà bá rồi ..  Mấy nhỏ la khóc quá trời .." (NBCT, trang 51, 52). Rơ ràng anh có một trí óc sáng tạo có một không hai. Anh tốt nghiệp khóa 3 trường viết văn Nguyễn Du mà. Nhưng anh đă không hiểu ǵ về vai tṛ của thám báo. Nhiệm vụ của thám báo là ḍ thám, lấy tin. Trinh sát, viễn thám, thám báo, biệt kích, những danh xưng, dù có khác nhau, nhưng nhiệm vụ là phải tuyệt mật. Chúng tôi chỉ dùng tai và mắt để nghe ngóng và ŕnh ṃ và báo cáo về Bộ Chỉ huy. Toán trưởng thường thường mang cấp bậc thiếu úy hay chuẩn úy. Riêng cấp bậc trung úy chỉ dành cho trung đội trưởng mà cấp số thường trên hai mươi người. Như vậy, không tên lính thám báo nào lại ngu độn đến nỗi xâm nhập vào một mật khu, lại bắt mang theo ba cô chị nuôi, để cho các anh theo dơi bắt lại. Riêng anh cho người chỉ huy là trung úy, th́ rơ ràng anh có một chủ ư thấy rơ. Cứ tưởng tượng đến một nhóm bảy người dưới sự chỉ huy của một tên trung úy vào mật khu để bắt ba con mồi, thúc súng đằng sau, hét ḥ, bận bịu để mang ra khỏi rừng, giữa lúc quân chính qui các anh th́ dầy đặc, rơ ràng là một câu chuyện hoang tưởng và xuyên tạc có chủ ư. Trung úy ở hàng ngũ chúng tôi cũng học nhiều trường, từ trường học, đến trường lính. Tối thiểu họ cũng có tú tài. Họ có học thức. Với cấp bậc trung úy, ít ra họ cũng có kinh nghiệm chiến trường. Họ không ngu độn như vậy đâu. Ngay lời nói của viên trung úy tù binh kia cũng đủ cho biết cái dối trá, phóng đại. "Ba nhỏ đó tụi này làm thịt cúng hà bá rồi. Mấy nhỏ la khóc quá trời". Nội câu trả lời kia cũng đủ cho thấy cái chủ ư, cái căm thù hằn học, mà chỉ có những cai tù trong trại học tập mới dành cho những con người thất thế. Hễ là thầy giáo th́ phải hăm hiếp nữ sinh. Hễ là sĩ quan tác chiến là phải mổ mật mổ tim nhân dân cách mạng. Th́ ra đầu óc anh vẫn c̣n bị nhồi sọ bởi cái luận điệu tuyên truyền của chế độ. Hay cũng v́ nhờ những đoạn này mà nhà nước đă cho NBCT được xuất bản và được cho phổ biến rộng răi ?

Cái tàn bạo trong cuộc chiến là lẽ dĩ nhiên. Tôi không khẳng định ai ai trong hàng ngũ miền Nam cũng đều là anh hùng quân tử. Tuy nhiên sự tàn bạo ấy anh đă vẽ nên không phải lúc, phải chỗ, không phải vai tṛ, khiến bất cứ người nào đă từng tham dự vào cuộc chiến cũng phải ph́ cười.

Xin anh hăy công bằng khi viết. Hơn nữa chính anh đă kể về người tù binh thám báo mời lính trinh sát các anh hút thuốc Ruby. Nịnh hay là một bản tính đôn hậu, chân thật, thân ái của những người trẻ tuổi miền Nam chúng tôi ?

*

Thưa nhà văn Bảo Ninh,

Trong bất cứ một tập thể nào cũng có kẻ xấu người tốt. Tuy nhiên, tôi xin nói với anh một điều, chúng tôi có học, học từ t́nh yêu thương của Chúa và Phật, chứ không phải học từ Ban Tuyên huấn, từ ông Tố Hữu hay Chế Lan Viên, chỉ biết ngợi ca sắt máu, căm thù người cùng màu da như anh và tôi. Họ c̣n đấu tố cả cha mẹ họ huống hồ đối với những người khác hàng ngũ. Anh đă không can đảm để nói lên sự thật như Trần Mạnh Hảo đă nói trong Ly thân. Tại sao, sau chiến tranh, một nhà thơ trẻ tài ba - một thương binh cũng nguyên gốc trinh sát là Trần Khuất Nguyên, lại t́m được một người bạn tri kỷ cuối đời là một người thương binh thuộc hàng ngũ chúng tôi ? Tại sao anh ta không có một người bạn nào khác trong một tập thể thắng trận là các anh ?

Thứ hai, khi đề cập đến nỗi chán nản cực độ, anh đă cho nhân vật Kiên đi như đi vào chỗ không người, khi đụng trận với thám báo (lại thám báo): "Kiên chẳng buồn khom người xuống, thong thả đi tới, vẻ khinh miệt đầy uể oải.Tên địch hấp tấp bắn. Hắn cuống. Đạn nổ đinh tai. Song cả ba chục viên đạn quạt căng rát kỳ thay không một viên găi vào Kiên. Anh không bắn trả, chỉ c̣n cách con mồi vài bước nữa, vẫn không bắn. Tuồng như anh muốn ban cho tên địch cơ hội sống c̣n: kịp thay băng, nhắm kỹ mà bắn gục anh. Nhưng chính sự chán chường táo tợn của Kiên đă làm xiêu lạc hồn phách hắn. Run bần bật, hắn đánh rơi khẩu tiểu liên. - Đồ cứt đái! Kiên chửi gằn và khinh bỉ siết c̣. (NBCT, trang 31, 32).

Đúng là nhà văn Bảo Ninh lại mâu thuẫn với chính anh. Trong phần trên, anh đă vẽ nên toán thám báo tung hoành trong mật khu, đằng đằng sát khí, sau khi bị bắt, vẫn lạnh lùng, thách thức, gan dạ, tàn bạo th́ bây giờ anh lại cho những người lính thám báo kia quá tội nghiệp, thỏ đế, con gà nuốt dây thun. Anh dựng nhân vật rất hay nhưng quá giả tạo như kiểu cao bồi cải lương. Có tên lính nào ngu đần khi hắn vào thám báo. Có tên lính nào cách kẻ địch vài buớc (nhắc lại: vài bước) quạt M16 mà sợ đến độ té đái trong quần. Và có tên lính nào vừa đi vừa đếm 30 viên đạn như Kiên. Thưa anh Bảo Ninh, hắn đă tha mạng Kiên đấy. Hắn đă tội nghiệp giùm cho một người tuổi trẻ miền Bắc đấy. Hắn đă tha như tôi và bè bạn tôi đă tha đồng đội các anh. Chúng tôi đă mời họ những điếu thuốc. Chúng tôi đă băng vết thương họ, kêu trực thăng mang họ về bệnh xá. Anh nhớ lại xem, những tù binh phe các anh, sau khi các anh vào, người nào người nấy mập và trắng, tiêu chuẩn đầu người bốn, năm đô la mỗi ngày, và luôn luôn được chiếu cố bởi hội Hồng Thập tự Quốc tế ..

Vâng, những người lính mà anh rẻ rúng khinh miệt ấy, trong ấy có tôi, họ không hèn đâu. Chính trong NBCT, anh cũng đă thú nhận, năm Mậu Thân, hàng ngũ của anh đă tơi tả, tả tơi, có đơn vị thiệt hại đến 70, 80 phần trăm. Mắt tôi thấy các anh chạy như một lũ chuột thoát thân, mà chẳng cần xin pháo dập theo, hay đuổi tiếp. Ngay cả những người nữ cảnh sát viên (lại phóng đại nữa, trời ạ. Ban Mê Thuột tôi đă từng ở mấy năm, đi t́m nát nước, nào thấy một người nữ cảnh sát viên nào đâu. Nhưng cũng xem là thật đi) mà anh viết, họ là đàn bà phụ nữ, nhưng họ vẫn chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Chiến đấu bằng súng lục (như anh kể trong truyện) trước quân đội chính qui của các anh. Đàn bà yếu đuối mà c̣n dũng cảm như beo hùm, huống hồ là đám thám báo chúng tôi. Họ tha Kiên chết đấy. Và anh phải thay mặt Kiên để cảm ơn họ mới phải. Đó là lư do tại sao nhà thơ Trần Khuất Nguyên trong Ly thân đă t́m đến người thương binh của hàng ngũ chúng tôi mà kết bạn trong những ngày đen tối nhất của đời ảnh, mà không t́m đến các anh.

Đă hai mươi năm sau chiến tranh, những tên đồ tể buôn bán xương máu tuổi trẻ Việt Nam đă ló dạng trước ánh sáng của lịch sử. Dù kẻ bại dù kẻ thắng, chúng ta cũng vẫn là nạn nhân từ những mỹ từ, nhân danh, mà những chuyên viên xúi giờ đây đang uống sâm nhung để chờ ngày thoi thóp. Lẽ ra chúng ta không nên khơi dậy những thảm kịch của quá khứ, nhất là gây thêm cái khoảng cách giữa những người thuộc hai phe, dù Bắc, dù Nam.

Tôi cũng viết lai rai, và có trăm ngàn chuyện để viết về mấy năm làm trung đội trưởng thám kích. Nhưng mỗi lần đặt bút lên là ḷng tôi lại quặn đau. Tôi không dám kể hết về những ǵ mà chiến tranh đă gây nên. Tôi không thể không quằn quại khi khui lại, mở lại những sợi gân đă buộc chặt vết thương. Tôi sợ mang nỗi buồn cho con cháu tôi. Bởi vậy tôi phục anh v́ anh dám mở toác loác cái vết thương. Tôi đă đau từng ḍng anh viết. Tôi yêu văn nồng nàn chất liêu trai của anh. Anh quả là một nhà văn tài hoa chữ nghĩa. Có điều, một nhà văn có tài, không phải là tài ở những chuyện bịa đặt, phóng tác có chủ ư, để lường gạt những người ngây thơ nhẹ dạ, hay không có kinh nghiệm. Ông ta phải biết thành thật, cho chính ông, và độc giả của ông và cả kẻ từng thù địch với ông nữa.

Xin đừng dùng nỗi buồn mà thóa mạ một cách cố ư những kẻ bị thất thế.

 

(Nguồn: Đại đội cũ và trang sách cũ, Thư Ấn Quán xuất bản, 2002)


TRẦN HOÀI THƯ

(Nguyễn Đăng Tuấn chuyển)

website counter