Đất
nước đẹp vô cùng nhưng chẳng có ǵ ăn Cho con được một lần
xuất ngoại!
(Chí thời nay)
Có
một lần tôi nghe một anh chàng lẩm nhẩm như
vậy với vẻ mặt câng câng đốn mạt, tôi
rất bực ḿnh chỉ muốn đánh cho anh ta một
trận, đấm cho vỡ mơm. Người Việt có câu
"miếng ăn là miếng
nhục", việc nói ra miệng cái thiếu đói
của ḿnh là điều không thể chấp nhận
được. Nhớ thủa nhỏ nếu có vô t́nh
đến đâu gặp bữa ăn, dù có đói cồn
cào trong bụng được mời tôi vẫn dơng
dạc nói, "cháu ăn
rồi, cháu vừa mới ăn xong". Tôi nhớ
những lần đang ăn cơm chợt có khách dù
tất cả vẫn c̣n đói, dù cái nồi cơm đă
sát đáy, dù con mắt những đứa trẻ gày
guộc dơi theo những hạt cơm cuối cùng, cả
nhà vẫn niềm nở "em mời bác xơi
cơm", "cháu mời bác ăn cơm", và chúng tôi
cùng nhập vai một vở kịch bi hài cả chủ
lẫn khách cùng chèo kéo, nói thế mà chẳng phải
thế đâu , người mời ăn hết sức chí
t́nh, người từ chối cũng rất là chính
đáng. Lễ giáo là thế, vậy mà cái anh chàng mất
dạy kia cứ nhai đi nhai
không biết ngượng, lại c̣n nói thành thơ,
thật hết chỗ nói ! Cái hết chỗ nói ở
đây là chỗ anh ta không nói anh ta đói, anh ta thiếu
ăn v́ thế anh ta phải xuất ngoại, mà là cái
khốn nạn anh ta dùng từ đất nước, cái
không phải của riêng anh, cái của 82 triệu
đồng bào quốc nội, cái của hơn 3 triệu
người Việt ở hải ngoại ,
cái có cả phần tôi trong đó, thế có điên không
hỡi đồng bào ! Bớ quốc dân
đồng bào đánh cho cho cái thằng chí phèo đời
nay ấy một trận, đánh cho nó nhừ xương,
đánh cho nó tiệt đường chửi cả cái làng
Vũ đại.
Ngày tháng trôi đi tôi bôn ba khắp
xứ, kỹ thuật thông tin làm trái đất như
nhỏ lại, tôi có bạn bè khắp 4 châu: mới hôm qua
nhận tin làng người Việt bên Cambodia bị bạc
đăi; hôm nay lại nghe người con gái bị
cưỡng dâm thổn thức từ Đài loan; chưa kịp
yên với tin ngư phủ của ta bị bắn, lại
biết tin có người vượt biên bị bắt,
chết trong chỗ tạm giam v́ bệnh sida ở Ukraina. Lầm lũi trên con đường kiếm
tiền nơi xứ người, ngoảnh lại chúng ta
đă ở cuối năm năm thứ năm của
thế kỷ 21, cùng với chúng ta, cái "Đất
nước" cũng hiện diện trong năm 2000
lẻ 5.Tôi nh́n
thấy cái vui của một người bạn vừa
đón được anh và cháu từ Việt nam qua. Tôi nh́n thấy cái tự hào của một
bác được con đón qua chơi, lang thang theo xe
đổ hàng của con đi khắp chốn, xe
đệm êm, đường phẳng, cảnh trí
đẹp, ngày ngày ăn restaurant Tàu, Tây, Việt. Thích ǵ ăn nấy, hoa trái th́
họp đủ 5 châu cho bác chọn. Cái
đau, cái buồn, cái nhục của một thời làm cha
của thằng phản động không c̣n lại vết
tích trong bác. Thay vào đó là
niềm tự hào có con là Việt kiều, thích th́ bác bay qua
chơi, chán bác bảo ông con "mai cho tao về", ông con
chỉ nháy một cú điện thoại có người
mang vé đến tận nơi. Ông nói,
"chúng nó bận cả chỉ có thứ Bảy, Chủ
nhật thôi, muốn đi đâu chúng nó chở đi.Vào rừng nướng
thịt, hay ra băi tắm, tuỳ thích. Ngày thường ở nhà xem TVT4 chán, tôi
lại theo xe
mấy chú giúp việc. Hôm đi xe này, hôm
đi xe khác, cháu nhà tôi nó c̣n làm cả dịch vụ
đưa người". Bác là
một người hạnh phúc !
Ḍng người vẫn ra đi vào
năm 2000 lẻ 5, người hạnh phúc như bác
thật hiếm ! Ba bốn ngh́n đô một người
qua Nga, 35 vé (1 vé = 100$) 1 người qua Ukraina, 60 vé 1
người qua Tiệp, 70 vé 1 người qua Đức,
10 vé 1 người qua Malaixia , 40 vé qua Đài loan, 120 vé qua
Nhật , 120 vé 1 người qua Hàn khô (lao động
tại Hàn quốc trên đất liền ), 30 vé 1
người qua Hàn biển (lao động tại Hàn
quốc trên tàu biển), Iran, Irắc, Brunei, c̣n đi đâu
nữa hả giời !!! Bằng mọi giá, bằng
mọi cách, trong ḍng người đi đó có người
đi làm osin ,
có người lấy tấm thân làm phương tiện
rời quê. Lấy chồng không cần
quen, không cần hiểu, không cần nói không cần nghe. Có người vượt rừng lội
tuyết, trốn trong cốp xe như những con bạc
khát nước gán nhà mượn nợ đánh nốt canh
bạc cuối đặt cả ḿnh lên sự may rủi,
trả tiền cho sự phạm pháp vượt biên
của ḿnh và trong đó cũng có người ấp ủ
lư tưởng anh hùng hi sinh đời bố củng
cố đời con !
Nói ǵ th́ nói chúng ta có thể dùng
đủ mọi thứ lư luận, chúng ta có thể dùng
đủ mọi thứ bào chữa, chúng ta có thể
khẳng khái nói "cháu ăn rồi , cháu vừa mới ăn xong", chúng ta có
thể đập bể mơm cái thằng Chí 2000 lẻ 5,
nhưng chúng ta không thay đổi được cái
thực tại khốn nạn "Đất
nước đẹp vô cùng nhưng chẳng có ǵ
ăn" ở cái thế kỷ 21 này. Tôi phải đau đớn nhận ra rằng cái
anh Chí thời nay có cái đúng của nó, mặc dù cái đói
thời nay khác với cái đói thời xưa. Nhớ lại tâm sự của một anh
bạn đi xuất khẩu lao động, khi đặt chân lên
nước Liên xô vĩ đại anh thốt lên
"Sống rồi ! Thịt bay đầy giời". Trước
những quảng trường tràn ngập bồ câu, cái
cảm nhận đặc biệt đó chỉ có ở con
người Việt nam ra đi từ xứ sở
nhớn bùi bé mềm, tḥng bong con cấn, loại nào cũng
ngọt canh hết. Cái đói thời nay có khác ! Có
người xa xứ 15 năm chưa một lần
trở lại quê nhà nhận những ḍng thư sau thật
vui thật phấn khởi : "con ơi đất nước
giờ đổi khác lắm rồi không c̣n ai lo đói
nữa ! giờ người ta chỉ nghĩ tới ăn
ngon mặc đẹp thôi", anh khoe tôi. Tôi chỉ biết cười buồn không
muốn làm anh mất vui, niềm vui hiếm hoi của
người khắc khoải nghĩa sinh thành không bao
giờ được nói ra. Anh
cần tin như vậy v́ nó là niềm an ủi, bố anh
cũng cần tin như vậy để an ủi anh con,
không dám nói ra rằng giá con chỉ gửi về dăm
trăm đôla thôi cũng thay đổi nhiều lắm
cho cuộc sống của gia đ́nh.
Cái thiếu thời nay thật lạ !
Người ta khuyên nhau: đừng chọn rau ngon, mua rau
nào sâu sâu 1 chút đừng thấy non là mà thích nhé, thuốc
trừ sâu đấy ! Eo ơi, phở họ cho thêm thuốc
ướp xác. Họ kể chuyện cho nhau nghe: cái lăo
chột khôn nứt mắt hắn giàu v́ bán rượu,
rượu ngon không ngon vào tay hắn thành ngon hết chỉ một
đầu tăm thuốc trừ sâu vào chai rượu
thôi, rượu đục cũng thành trong, rượu
nhạt cũng thành đậm. Bà Trương Lan Anh, phó
chủ nhiệm Câu Lạc Bộ Nước Chấm Sài G̣n
kiêm chủ nhiệm Hợp Tác Xă Thuận Phát, nhận
định, hơn 90% các cơ sở sản xuất
nước tương theo công nghệ thủy phân nên chắc
chắn độc tố 3-MCPD sẽ có trong nước
tương. Bà Phạm Kim Phương, Giám Đốc Trung Tâm
Dịch Vụ Phân Tích Thí Nghiệm (ASE) cho biết, một
doanh nghiệp sản xuất đă gửi đến trung
tâm 9 mẫu sản phẩm để xét nghiệm. Trong 5
mẫu xét nghiệm đầu tiên đều phát hiện
có đến gần 10% độ đạm urê trong các
sản phẩm này .Phát minh vĩ đại bón phân urê vào
nước mắm . Sự vô lư không thể tưởng
tượng được trên đất nước có
đủ các thứ thực phẩm giả
, sự vô lư không thể chấp
nhận được trong đủ loại các thực
phẩm sản xuất từ tư nhân tới quốc
doanh chứa đủ các loại độc tố, ai
cũng biết ai cũng nghe, ai đó có chết v́
độc tố là do không may và rồi hầu như ai
cũng chấp nhận dù khuất mắt trông coi hay
thậm chí ván bài lật ngửa. Tôi thấy một chị
trên ḿnh đủ các loại thừng vàng chen nhau khoe sắc theo
kiểu thời nào cũng mốt, vàng tây, vàng ta lại
cả vàng bạch kim, đập lên đập xuống
miếng thịt cao giọng, sao đắt thế. Dạ !chị ơi không
đắt đâu giá phải chăng, miếng này ngon
nhất chợ ! Giọng cô hàng thịt nhũn như con
chi chi. Không nhất chợ th́ chị tưởng tôi mua
đấy hả ! Nhưng cắt cổ người ta
vừa vừa thôi, bớt đi ! Cái thiếu bám chặt
lấy con người tạo cho người ta có thói quen
giành giật, nó chen vào từng chân tơ kẽ tóc của
mỗi cử chỉ.
Chỉ ngó qua một khía cạnh
nhỏ cuộc sống là miếng ăn thôi đă thấy nó đủ thứ
nhọc nhằn, bất an, bế tắc. Sự chấp
nhận sự chịu đựng một cách triền miên
thành thói quen gần như vô phương cứu chữa. Có
một cơ may hiếm hoi không phải ai cũng có đó
là xuất ngoại. Nếu cơ may đó đến
người ta nắm lấy thực hiện nó bằng mọi
giá. Nhưng trong số đó không phải ai cũng
đủ trâng tráo hay đủ thành thật để
đọc thành thơ như thằng Chí thời nay:
Đất
nước đẹp vô cùng nhưng chẳng có ǵ ăn Cho con được một lần
xuất ngoại
ANH CHÍ
-
Cộng ḥa Séc, 18/8/2005-
(NGƯỜI SÀI G̉N
sưu tầm)
LẠI CHUYỆN "MÀY, TAO"
LẠI CHUYỆN "MÀY, TAO"
(Chu Tất Tiến)
Trong những bài viết
trước đây, cũng về chữ "mày, tao",
người viết đă có dịp tŕnh bầy lại
những nét văn hóa tuyệt hay của văn chương,
chữ nghĩa Việt Nam mà không có một dân tộc nào có
được.
Khi vừa tán nàng, th́ anh nói "thưa cô, cô
cho phép tôi được làm quen nhé?" Nếu nàng không
chịu đèn, nàng trả lời: "Tôi không
huởn!" Trường hợp mà ông nọ lại
cỡ "sồn sồn", mà nàng mới chưa tới
ba mươi, nàng có thể nhoẻn miệng cười:
"Thưa Chú, cháu không dám ạ !" Hoặc: "Thưa
Ông, tôi không hiểu Ông nói ǵ!" Nhưng nếu nàng
thấy cũng có chút chút cảm t́nh, th́ nói: "Lan .. không
biết đâu!". Nàng dùng tên ḿnh để xưng hô. Nếu
chịu hơn một chút, lại nói: "Em .. em .. tùy anh
đấy!" Chàng được thể, cũng lập
tức xưng "anh" và gọi nàng bằng "em"
luôn ! Rồi hẹn ḥ, bồ bịch, chàng âu yếm
gọi nàng: "Bà xă ơi! ra đây ông xă biểu nè!"
Sau khi trầu cau, rồi mấy tí nhau ra đời, chàng
gọi nàng bằng "bà nó" và nàng gọi chàng bằng
"ông nó". Vui miệng, chàng kêu: "Má cu Tư đâu, ra tui
biểu !" Người Bắc đôi khi gọi vợ
bằng "mợ", gọi chồng bằng
"cậu". Như thế, văn nói của
người ḿnh, phải công nhận là độc đáo
lắm, hay lắm, dễ thương lắm.
Vậy mà, một số đông
người, khi dịch chữ "I, YOU" lại
biến thành "mày, tao" ráo trọi ! Gọi mấy tên bạn
Mỹ bằng "mày, tao" th́ "Ô Kê" nhưng
bảo những người Mỹ gọi ḿnh bằng
"mày, tao" th́ quái dị quá!
Một ông kể chuyện cho
bạn bè nghe: "Hôm nọ, tự nhiên, con mẹ xếp
tao, gọi tao lên nói Mày làm việc giỏi lắm, tao
tăng lương cho mày đấy !" Nghe một bà
đầm Mỹ xưng "mày, tao" với đàn ông
Việt thật rất tức cười, rất
"oải", nhưng nếu ghép mấy chữ "mày,
tao" vào miệng mấy nhân vật chính trị lại
càng lạ lẫm hơn!
Bữa hổm, nghe một nhân
vật chính trị kể chuyện về cuộc gặp
gỡ với một chính khách Mỹ. "Ổng" nói:
"Ông X. nói với tôi là cộng đồng mày cứ yên
chí đi, tao sẽ giúp tối đa cho tụi mày!" Nghe
xong câu này, mọi người đều thấy lỗ tai
lùng bùng, không tin nổi là có những danh xưng thân mật
đó được dành cho câu chuyện trên. Bởi v́
những chữ "mày, tao" đó được dùng
để trả lời cho một câu hỏi rất
trịnh trọng của nhân vật kia: "Thưa Ông X.,
về vấn đề mà cộng đồng chúng tôi
đang đề cập đến, ông nghĩ sao?"
Như vậy, chẳng hóa ra là ông X. kia coi thường
người hỏi như một kẻ thuộc cấp
dưới tay, nên mới dùng chữ "tao, mày"?
Hoặc là ông kia đă thân mật từ mấy kiếp, nên
vừa gặp đă vỗ vai "mày, tao"?
Không c̣n "Ông, bà, anh, chị"
nữa sao ? Không c̣n chút lịch sự tối thiểu nào
với nhau nữa sao ? Bà Giám đốc một cơ quan
chính phủ được gọi là "con mẹ",
một cộng đồng được gọi là
"tụi mày", nghe rất kỳ lạ. Nếu
những câu trên mà được dịch là: "Hôm nọ,
bà xếp tôi gọi tôi lên, nói Anh làm việc giỏi
lắm, tôi tăng lương cho anh" và "Anh cứ
yên chí đi, tôi sẽ giúp tối đa cho các anh" th́
cả người nói và người nghe thấy thoải
mái hơn nhiều.
H́nh như sang Mỹ rồi,
một số người Việt ḿnh nẩy sinh ra mặc
cảm tự ti, v́ nghĩ rằng ḿnh đi sang đây,
phải nhờ vả người ta, tâm lư lúc nào cũng
không ổn. Nên gọi luôn người chủ nhà bằng
"mày", và xưng "tao" cho đỡ mặc
cảm. Kể như là họ thân mật với ḿnh,
kể như là họ bằng vai vế với ḿnh,
hoặc là muốn ra cái điều ta hơn họ, nên
mới gọi họ bằng "mày". Điều
ngạc nhiên là những danh xưng thân mật lố
bịch này lại phát xuất từ nhiều người
có học đầy đủ nữa. Không phải chỉ
là những em nhỏ đang học Việt ngữ, chưa
rành tiếng Việt nên mới nói rằng "Má con đi
chơi bời rồi !" hoặc " Mấy anh em con
nhà nó đến thăm bố tao .."; không chỉ là những
người bạn thân mật "mày, tao", những
người ít để ư đến văn học, văn
hóa, văn chương; mà các nhân vật trịnh trọng
cũng hay dùng danh xưng "mày, tao" nữa. Dĩ
nhiên, cũng có nhiều trường hợp, người
dịch bất ngờ không kịp t́m ra danh xưng thích
hợp, nên mới tạm dùng hay chữ này thay thế.
Nhưng điều này, nếu có, chỉ xẩy ra thoáng
chốc mà không lặp lại. Việc tiếp tục
lặp đi lặp lại như một thói quen hai
chữ "mày, tao" mới thật cần sửa
đổi.
Văn hóa Việt Nam có nhiều
nét đặc thù mà chúng ta thấy cần phải hănh
diện. Như ngôn ngữ thông dụng có nhiều biến
đổi lạ lùng mà rất ít người ngoại
quốc học được, như những tác phẩm
văn chương vĩ đại mà thế giới
phải khâm phục (Đoạn Trường Tân Thanh, Cung
Oán Ngâm Khúc, những bài hịch của Nguyễn Trăi,
Trần Hưng Đạo ..) như chất
"thơ" đă thấm nhập vào hầu hết
mọi người lớn tuổi đang sống ở
Việt Nam, hoặc sống ở quê hương nhiều
hơn ở nước ngoài, (từ cô gái chèo ghe,
đến anh trai làng, anh thợ mộc, thợ nề,
giới trẻ đến lớp già .. cũng biết làm
thơ hoặc thích nghe thơ), như vậy, nếu ḿnh có
thể trân trọng, bảo vệ và phát huy nền văn
hóa này đến lớp trẻ, thế hệ thứ hai
th́ chẳng phải là công việc đáng làm ư ?
Trong việc bảo vệ và phát
huy nền văn hóa trong sáng này, có một công việc
giản dị mà ai làm cũng được, đó là
việc xử dụng đúng cách, đúng chỗ những
Nhân xưng đại danh từ, nhất là hai chữ
"mày, tao", để cho thế hệ trẻ không có ư
nghĩ rằng văn hóa ḿnh đang đi xuống. Nếu
hai người đang yêu nhau, không thể gọi nhau
bằng "mày, tao", th́ tuyệt đối cũng không
có những vị giáo sư gọi học tṛ Việt
bằng "mày", lại càng không thể cho chính khách
ngoại quốc gọi cộng đồng ḿnh bằng
"chúng mày" được.
CHU TẤT TIẾN
(NGƯỜI SÀI G̉N
sưu tầm)
Xin gửi lên quư vị, bài đọc phân tích về
sự dối trá trong tác phẩm "Nỗi Buồn
Chiến Tranh" của Bảo Ninh
Xin gửi lên quư vị,
bài đọc phân tích về sự dối trá trong tác
phẩm "Nỗi Buồn Chiến Tranh" của
Bảo Ninh.
Bài viết phản bác
từ người lính viết văn Trần Hoài Thư,
người sỹ quan thám báo QLVNCH.
Nhà văn Trần Hoài
Thư, thế hệ đàn anh của cá nhân ḿnh, sống
sót trong trận chiến.
Nhà văn Trần Hoài
Thư, thường xuyên viết trong các tạp chí văn
học như Văn, Bách Khoa v..v. trước 1975.
Hiện thời đang chủ trương
Thư Ấn Quán, một cơ sở xuất bản
"Book On Demand".
(NGUYỄN ĐĂNG TUẤN)
********
ĐỐI
THOẠI VỚI NHÀ VĂN BẢO NINH
(Trần Hoài
Thư)
Từ lâu,
người ta đă chờ đợi những tác phẩm
viết về chiến tranh Việt Nam bằng ng̣i bút trung
thực, vượt khỏi định kiến, guồng
máy, lập trường, từ những nhà văn miền
Bắc. Tại sao là miền Bắc ? Bởi v́, những
người viết của miền Nam ít ra, đă thả
dàn biểu lộ hầu hết những ǵ mà họ đă
tham dự hay nhân chứng, mà không bị ràng buộc bởi
bất cứ một ai, bất cứ một thế
lực nào. Chính v́ sự mong mỏi ấy, những tác
phẩm của Dương Thu Hương, Trần Mạnh
Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, vân vân .. đă
được đón nhận từ trong nước,
đến ngoại quốc, và cả người Mỹ
lưu tâm về Việt Nam và đă được xem là
hiện tượng. Trong số những tác phẩm này, tôi
được đọc hai truyện dài: Ly thân
của Trần Mạnh Hảo, và Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh. Tôi xin được
góp ư về Nỗi buồn chiến tranh (NBCT) v́
truyện này đă nhắc thường trực về
những người lính thám báo VNCH, mà tôi là một thành
viên. Hơn nữa NBCT hiện nay là một đề tài
thảo luận sôi nổi trên internet, qua những Newsgroups
và Usernet. Ngoài ra, truyện đă được dịch sang
tiếng Anh (Bao Ninh, The Sorrow of War. Vietnamese original Hanoi,
1991; English translation London: Martin Secker & Warburg, 1993; New York:
Pantheon), phổ biến trong các đại học Mỹ,
tác động nhiều trong tâm trí của những
người tuổi trẻ hải ngoại, không
đủ khả năng đọc Việt ngữ. Nguyên
bản bằng tiếng Việt đă được in
ở Mỹ do Nam Việt xuất bản, Phạm Việt
Cường viết tựa, với kết luận như
sau:"Nỗi buồn chiến tranh là một thành
tựu văn học vô cùng lớn lao, là một tác phẩm
sâu sắc nhất về chiến tranh Việt Nam từ
trước đến giờ, và chắc chắn sẽ
tồn tại lâu dài trong kho tàng văn học Việt
Nam".
Thưa nhà văn Bảo Ninh,
Trước
hết tôi phải cám ơn anh v́ nhờ đọc Nỗi
buồn chiến tranh tôi mới hiểu rơ hơn về
tâm tư của một thế hệ và giai đoạn mà
tôi cũng như anh là những người trong cuộc.
Anh viết về sự đổ vỡ và phá sản bi
thảm của tuổi trẻ miền Bắc trong cuộc
chiến đấu mà chế độ từng nói là
cuộc chiến đấu thần thánh chống Mỹ
cứu nước. Anh đă kể về những
đồi ma chập chùng ở miền cao nguyên nồng
nặc tử khí. Lính Mỹ. Lính miền Nam. Lính miền
Bắc. Anh viết về những chiếc T54 nghiến
trên những người lính sư đoàn 18. Anh viết
về những lưỡi dao găm thọc vào tim máu
phụt thành tia ṿi. Anh viết về nỗi tuyệt
vọng của những người lính trinh sát qua Kiên, hay
của những bè bạn của anh ta, đào ngũ, dao
động, hoang mang cùng cực. Anh lại kể về
trận đánh ở Ban Mê Thuột vào một trung tâm
cảnh sát, cùng những người nữ cảnh sát viên
thuộc hàng ngũ miền Nam, và nhất là sự có
mặt hầu như ám ảnh suốt truyện về
những toán thám báo. Anh đă tả lại một toán thám
báo vào mật khu, bắt theo 3 cô gái, hăm hiếp và sau đó
giết họ rồi vất xuống sông. Anh nêu đích
danh tay chỉ huy là một trung úy.
Nói tóm lại anh đă lột tả trần trụi
nỗi kinh hoàng của chiến tranh, không che đậy,
giấu giếm. Ngoài ra anh cũng vén cái màn dối trá
từ lâu đă bao trùm cả xă hội và tuổi trẻ
miền Bắc. Đó là điều hiếm có cho nền
văn học trong chế độ xă hội chủ
nghĩa.
*
Thưa nhà văn Bảo Ninh,
Tôi đă rưng
nước mắt trên những trang giấy về nỗi
chán chường cùng cực của một thế hệ
bị đẩy vào ḷ nướng, nhưng tôi không thể
không phẫn nộ khi anh dùng nỗi buồn chiến tranh
ấy để cố ư xuyên tạc bôi nhọ một hàng
ngũ thất thế.
Xin đọc lại đoạn tả một trung úy thám
báo bị phe các anh bắt làm tù binh: "Tên nom to con
nhất trong bọn, mắt trái bị báng súng dộng ḷi
ra, máu ḥa nước mưa nhuộm đỏ nửa
mặt, đưa con mắt lành nh́n Kiên cười
khẩy, và khàn khàn nói, nhe hàm răng trắng ởn. - Ba
nhỏ đó tŕnh quí anh, tụi này làm thịt cúng hà bá
rồi ..Mấy nhỏ la
khóc quá trời .." (NBCT, trang 51, 52). Rơ ràng anh có một
trí óc sáng tạo có một không hai. Anh tốt nghiệp khóa 3
trường viết văn Nguyễn Du mà. Nhưng anh
đă không hiểu ǵ về vai tṛ của thám báo. Nhiệm
vụ của thám báo là ḍ thám, lấy tin. Trinh sát, viễn
thám, thám báo, biệt kích, những danh xưng, dù có khác nhau,
nhưng nhiệm vụ là phải tuyệt mật. Chúng tôi
chỉ dùng tai và mắt để nghe ngóng và ŕnh ṃ và báo cáo
về Bộ Chỉ huy. Toán trưởng thường
thường mang cấp bậc thiếu úy hay chuẩn úy.
Riêng cấp bậc trung úy chỉ dành cho trung đội
trưởng mà cấp số thường trên hai
mươi người. Như vậy, không tên lính thám báo
nào lại ngu độn đến nỗi xâm nhập vào
một mật khu, lại bắt mang theo ba cô chị nuôi,
để cho các anh theo dơi bắt lại. Riêng anh cho
người chỉ huy là trung úy, th́ rơ ràng anh có một
chủ ư thấy rơ. Cứ tưởng tượng
đến một nhóm bảy người dưới
sự chỉ huy của một tên trung úy vào mật khu
để bắt ba con mồi, thúc súng đằng sau, hét
ḥ, bận bịu để mang ra khỏi rừng, giữa
lúc quân chính qui các anh th́ dầy đặc, rơ ràng là một
câu chuyện hoang tưởng và xuyên tạc có chủ ư.
Trung úy ở hàng ngũ chúng tôi cũng học nhiều
trường, từ trường học, đến
trường lính. Tối thiểu họ cũng có tú tài.
Họ có học thức. Với cấp bậc trung úy, ít ra
họ cũng có kinh nghiệm chiến trường. Họ
không ngu độn như vậy đâu. Ngay lời nói
của viên trung úy tù binh kia cũng đủ cho biết cái
dối trá, phóng đại. "Ba nhỏ đó tụi
này làm thịt cúng hà bá rồi. Mấy nhỏ la khóc quá
trời". Nội câu trả lời kia cũng
đủ cho thấy cái chủ ư, cái căm thù hằn
học, mà chỉ có những cai tù trong trại học
tập mới dành cho những con người thất
thế. Hễ là thầy giáo th́ phải hăm hiếp nữ
sinh. Hễ là sĩ quan tác chiến là phải mổ mật
mổ tim nhân dân cách mạng. Th́ ra đầu óc anh vẫn
c̣n bị nhồi sọ bởi cái luận điệu tuyên
truyền của chế độ. Hay cũng v́ nhờ
những đoạn này mà nhà nước đă cho NBCT
được xuất bản và được cho phổ
biến rộng răi ?
Cái tàn bạo trong cuộc chiến là lẽ dĩ nhiên. Tôi
không khẳng định ai ai trong hàng ngũ miền Nam
cũng đều là anh hùng quân tử. Tuy nhiên sự tàn
bạo ấy anh đă vẽ nên không phải lúc, phải
chỗ, không phải vai tṛ, khiến bất cứ
người nào đă từng tham dự vào cuộc
chiến cũng phải ph́ cười.
Xin anh hăy công bằng khi viết. Hơn nữa chính anh
đă kể về người tù binh thám báo mời lính
trinh sát các anh hút thuốc Ruby. Nịnh hay là một
bản tính đôn hậu, chân thật, thân ái của
những người trẻ tuổi miền Nam chúng tôi ?
*
Thưa nhà văn
Bảo Ninh,
Trong bất
cứ một tập thể nào cũng có kẻ xấu
người tốt. Tuy nhiên, tôi xin nói với anh một
điều, chúng tôi có học, học từ t́nh yêu
thương của Chúa và Phật, chứ không phải
học từ Ban Tuyên huấn, từ ông Tố Hữu hay
Chế Lan Viên, chỉ biết ngợi ca sắt máu, căm
thù người cùng màu da như anh và tôi. Họ c̣n
đấu tố cả cha mẹ họ huống hồ
đối với những người khác hàng ngũ. Anh
đă không can đảm để nói lên sự thật
như Trần Mạnh Hảo đă nói trong Ly thân.
Tại sao, sau chiến tranh, một nhà thơ trẻ tài ba -
một thương binh cũng nguyên gốc trinh sát là
Trần Khuất Nguyên, lại t́m được một
người bạn tri kỷ cuối đời là một
người thương binh thuộc hàng ngũ chúng tôi ?
Tại sao anh ta không có một người bạn nào khác
trong một tập thể thắng trận là các anh ?
Thứ hai, khi đề cập đến nỗi chán
nản cực độ, anh đă cho nhân vật Kiên đi
như đi vào chỗ không người, khi đụng
trận với thám báo (lại thám báo): "Kiên chẳng
buồn khom người xuống, thong thả đi
tới, vẻ khinh miệt đầy uể oải.Tên
địch hấp tấp bắn. Hắn cuống.
Đạn nổ đinh tai. Song cả ba chục viên
đạn quạt căng rát kỳ thay không một viên găi
vào Kiên. Anh không bắn trả, chỉ c̣n cách con mồi vài
bước nữa, vẫn không bắn. Tuồng như anh
muốn ban cho tên địch cơ hội sống c̣n:
kịp thay băng, nhắm kỹ mà bắn gục anh.
Nhưng chính sự chán chường táo tợn của Kiên
đă làm xiêu lạc hồn phách hắn. Run bần bật,
hắn đánh rơi khẩu tiểu liên. - Đồ
cứt đái! Kiên chửi gằn và khinh bỉ siết c̣.
(NBCT, trang 31, 32).
Đúng là nhà văn Bảo Ninh lại mâu thuẫn với
chính anh. Trong phần trên, anh đă vẽ nên toán thám báo tung
hoành trong mật khu, đằng đằng sát khí, sau khi
bị bắt, vẫn lạnh lùng, thách thức, gan dạ,
tàn bạo th́ bây giờ anh lại cho những người
lính thám báo kia quá tội nghiệp, thỏ đế, con gà
nuốt dây thun. Anh dựng nhân vật rất hay nhưng quá
giả tạo như kiểu cao bồi cải
lương. Có tên lính nào ngu đần khi hắn vào thám báo.
Có tên lính nào cách kẻ địch vài buớc (nhắc
lại: vài bước) quạt M16 mà sợ đến
độ té đái trong quần. Và có tên lính nào vừa
đi vừa đếm 30 viên đạn như Kiên.
Thưa anh Bảo Ninh, hắn đă tha mạng Kiên
đấy. Hắn đă tội nghiệp giùm cho một
người tuổi trẻ miền Bắc đấy.
Hắn đă tha như tôi và bè bạn tôi đă tha
đồng đội các anh. Chúng tôi đă mời họ
những điếu thuốc. Chúng tôi đă băng vết
thương họ, kêu trực thăng mang họ về
bệnh xá. Anh nhớ lại xem, những tù binh phe các anh,
sau khi các anh vào, người nào người nấy mập
và trắng, tiêu chuẩn đầu người bốn,
năm đô la mỗi ngày, và luôn luôn được
chiếu cố bởi hội Hồng Thập tự
Quốc tế ..
Vâng, những người lính mà anh rẻ rúng khinh miệt
ấy, trong ấy có tôi, họ không hèn đâu. Chính trong NBCT,
anh cũng đă thú nhận, năm Mậu Thân, hàng ngũ
của anh đă tơi tả, tả tơi, có đơn
vị thiệt hại đến 70, 80 phần trăm.
Mắt tôi thấy các anh chạy như một lũ
chuột thoát thân, mà chẳng cần xin pháo dập theo, hay
đuổi tiếp. Ngay cả những người nữ
cảnh sát viên (lại phóng đại nữa, trời
ạ. Ban Mê Thuột tôi đă từng ở mấy năm,
đi t́m nát nước, nào thấy một người
nữ cảnh sát viên nào đâu. Nhưng cũng xem là
thật đi) mà anh viết, họ là đàn bà phụ
nữ, nhưng họ vẫn chiến đấu
đến viên đạn cuối cùng. Chiến đấu
bằng súng lục (như anh kể trong truyện) trước
quân đội chính qui của các anh. Đàn bà yếu
đuối mà c̣n dũng cảm như beo hùm, huống
hồ là đám thám báo chúng tôi. Họ tha Kiên chết
đấy. Và anh phải thay mặt Kiên để cảm
ơn họ mới phải. Đó là lư do tại sao nhà
thơ Trần Khuất Nguyên trong Ly thân đă t́m
đến người thương binh của hàng ngũ
chúng tôi mà kết bạn trong những ngày đen tối
nhất của đời ảnh, mà không t́m đến các
anh.
Đă hai mươi năm sau chiến tranh, những tên
đồ tể buôn bán xương máu tuổi trẻ
Việt Nam đă ló dạng trước ánh sáng của
lịch sử. Dù kẻ bại dù kẻ thắng, chúng ta
cũng vẫn là nạn nhân từ những mỹ từ,
nhân danh, mà những chuyên viên xúi giờ đây đang
uống sâm nhung để chờ ngày thoi thóp. Lẽ ra chúng
ta không nên khơi dậy những thảm kịch của
quá khứ, nhất là gây thêm cái khoảng cách giữa
những người thuộc hai phe, dù Bắc, dù Nam.
Tôi cũng viết lai rai, và có trăm ngàn chuyện
để viết về mấy năm làm trung đội
trưởng thám kích. Nhưng mỗi lần đặt bút
lên là ḷng tôi lại quặn đau. Tôi không dám kể hết
về những ǵ mà chiến tranh đă gây nên. Tôi không
thể không quằn quại khi khui lại, mở lại
những sợi gân đă buộc chặt vết
thương. Tôi sợ mang nỗi buồn cho con cháu tôi.
Bởi vậy tôi phục anh v́ anh dám mở toác loác cái
vết thương. Tôi đă đau từng ḍng anh
viết. Tôi yêu văn nồng nàn chất liêu trai của anh.
Anh quả là một nhà văn tài hoa chữ nghĩa. Có
điều, một nhà văn có tài, không phải là tài ở
những chuyện bịa đặt, phóng tác có chủ ư,
để lường gạt những người ngây
thơ nhẹ dạ, hay không có kinh nghiệm. Ông ta phải
biết thành thật, cho chính ông, và độc giả
của ông và cả kẻ từng thù địch với ông
nữa.
Xin đừng dùng nỗi buồn mà thóa
mạ một cách cố ư những kẻ bị thất
thế.
(Nguồn: Đại
đội cũ và trang sách cũ, Thư Ấn Quán
xuất bản, 2002)