Tạ Ơn
Người, Tạ Ơn Đời
(Lê Nguyễn Hằng)
Tháng 11 là mùa Lễ Tạ Ơn, mời
đọc bài của Lê Nguyễn Hằng viết về
người bảo trợ. Tác giả đă nhận giải
Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà là một
cây bút nữ, cư dân San Jose, có viết chung với Nguyễn
Thạch Hăn bài "Ḍng Sông Êm Đềm", một chuyện
t́nh tuổi nhỏ thất lạc nhiều năm, t́m lại
được nhau trên đất Mỹ nhờ các sinh hoạt
hội đoàn, họp mặt đồng hương.
* * *
Viết
cho Carol và John Steele
Năm 1975, sau vài lần chuyển từ
trại tạm trú này qua trại tạm trú khác ở đảo
Guam, gia đ́nh tôi được đưa đến Fort
Chaffee ở Arkansas chờ bảo lănh.
Mặc dù biết là ḿnh đă đến
bến bờ tự do và đang tạm thời được
hưởng cuộc sống an nhàn ở một đất
nước giàu mạnh nhất thế giới, thế mà
trong ḷng vẫn canh cánh, vẫn thấp thỏm sợ hăi
khi nghĩ đến một tương lai mờ mịt.
Chúng tôi như những con thú hoang, bị bắt vào trong cũi
và thả đến nơi xa lạ. Nh́n cái ǵ cũng nghi ngờ
và băn khoăn, lo lắng. Rồi những lời đồn
đăi càng làm tăng thêm mối âu lo. Nào là vài ngày nữa,
sau khi làm xong danh sách, chính phủ Mỹ sẽ đem những
người tỵ nạn đến một mảnh đất
hay một ḥn đảo hoang vu, cung cấp một ít dụng
cụ làm ruộng làm vườn để đám dân tỵ
nạn tự lực cánh sinh bắt đầu một cuộc
sống mới; nào là họ sẽ phân phối lực
lượng lao động này đi làm lao công cho những
hăng xưởng hay nông trại xa xôi hẻo lánh trong khi phần
lớn chúng tôi không quen những công việc này. Tệ
hơn nữa là họ sẽ dùng người tỵ nạn
làm tù binh để trao đổi với phía bên kia cho những
điều họ muốn.
Những ư tưởng tiêu cực
đó cứ loanh quanh măi trong đầu tôi cho đến ..
Một buổi trưa hè nóng bức,
tôi đang đứng dưới gốc cây chờ xe buưt
đi lấy sữa cho con th́ một người Mỹ, chắc
là làm việc trong trại, thấy vẻ mặt buồn buồn
của tôi, anh ta chỉ tay ra ngoài xa và hỏi:
- Cô có thân nhân nào ngoài kia không?
- Không, ông ạ.
- Cô có muốn điện thoại
cho ai không?
- Tôi chẳng quen ai và cũng không biết
cách gọi.
- Tôi sẽ giúp cô gọi cho bạn
hay bà con của cô.
Tôi lưỡng lự:
- Tôi chỉ biết bà xếp cũ
của tôi tên là Carol Steele ở McLean, Virginia. Nhưng v́ vợ
chồng bà ấy được lệnh rời Việt
Nam cấp tốc nên không kịp cho tôi địa chỉ và
số điện thoại.
- Không sao, tôi sẽ ḍ trong cuốn
niên giám và gọi thử, tôi sẽ gọi "collect"
nhá.
Tôi như người chết đuối
vớ được một khúc củi mục đang trôi
lơ lủng trên ḍng sông, chẳng cần biết ra sao, cũng
cố với tay bám vào nó. Tôi chẳng hiểu
"collect" là ǵ nhưng cũng gật đầu. Thế
là người bạn mới quen bắt đầu quay số.
Đến lần thứ ba th́ may mắn gặp được
người xếp cũ của tôi khi c̣n làm cho Cơ Quan
Viện Trợ Mỹ, trực thuộc ṭa Đại Sứ
Hoa Kỳ ở Saigon.
Khi người đàn ông đưa
điện thoại cho tôi, tôi chỉ kịp xưng tên rồi
̣a lên khóc. Những nỗi niềm hoang mang u uẩn chất
đầy trong ḷng được dịp tuôn trào. Carol ở
đầu giây bên kia cũng khóc. Tôi cố nén nỗi xúc
động, kể sơ qua cho Carol nghe về hoàn cảnh
hiện tại. Carol nói:
- Tôi vẫn cố ư dọ hỏi
tin tức về Hằng lâu nay mà chưa được,
bây giờ biết gia đ́nh bà ra khỏi nước b́nh
yên và đang ở Arkansas rồi, sáng mai tôi sẽ làm giấy
bảo lănh tất cả bẩy người về đây
với chúng tôi ở Virginia.
Tôi vội vàng từ chối:
- Cám ơn ḷng tốt của Carol,
nhưng khi nào bà t́m được việc làm cho tôi th́ gia
đ́nh tôi mới rời trại, ít nhất ở trong này
chúng tôi không phải lo miếng ăn.
Carol bảo:
- Ở nước Mỹ này, ai cũng
phải xin mới có việc làm, thôi cứ ra đây rồi
tới đâu hay tới đó, đừng sợ.
Sáng hôm sau mới mười giờ
đă có loa gọi tôi đến văn pḥng lănh điện
tín, đó là giấy bảo lănh của vợ chồng
người xếp cũ, Carol và John Steele. Chỉ một
tuần sau, ngày thứ sáu, 13 tháng 6 năm 1975, gia đ́nh
tôi, gồm hai vợ chồng và 3 đứa con nhỏ dại
cùng hai người em, lên máy bay đi định cư ở
tiểu bang Virginia.
Carol và John ra đón chúng tôi ở phi
trường. Hai bên đường từ Washington Dulles
Airport về thành phố McLean, Virginia, cây cối xanh
tươi mát mẻ, những cây đào cành mảnh khảnh,
thanh nhă, nghiêng ngả mang những cánh hoa màu tím, nhạt có,
đậm có, vài cây hoa màu trắng mùi hương thoang thoảng
dịu dàng, tôi có cảm tưởng như ḿnh đang lạc
vào một rừng hoa cho đến khi Carol bảo: "Ḿnh
đă đến nhà rồi".
Đó là một căn nhà hai tầng
có 5 pḥng ngủ và "basement". Ở miền đông xứ
tuyết mà phần lớn nhà không có garage nhưng có tầng
dưới mặt đất dùng để chứa đồ
đạc hoặc sửa lại thành một pḥng ngủ
hay pḥng giải trí.
John, Carol và Chris, đứa con trai 18
tháng tuổi, ở hai pḥng trên tầng nh́. Sau khi dẫn
chúng tôi xem 3 pḥng dành cho gia đ́nh tôi ở tầng trệt,
vào bếp tôi thấy ngay một bao gạo thật lớn ở
dưới đất và chai nước mắm trên mặt
bàn. Carol giải thích: "Tôi biết người Việt
Nam ăn cơm hằng ngày và gia vị chính là nước mắm
nên vợ chồng tôi đă đi lùng bao nhiêu chợ Á Châu mới
t́m ra được chai nước mắm này đây."
Sáng thứ hai, tôi đang sửa soạn
bữa ăn sáng cho các con, Carol đến gần lúc lắc
trong tay một tờ báo với những khoanh tṛn xanh đỏ,
bà ta nói:
- Hằng, thay quần áo đi xin việc
làm. Tôi đă làm sẵn Resume và điện thoại xin hẹn
được ba chỗ cho bà rồi, sửa soạn nhanh
lên kẻo trễ giờ.
Vừa mới ra khỏi trại tỵ
nạn vỏn vẹn được hai ngày, c̣n chưa hoàn
hồn, nên tôi thật sự hoang mang và lo sợ nhưng cũng
vội vàng chuẩn bị sơ sài cho kịp.
Trên đường đi, ḷng tôi rối
như tơ ṿ, dù Carol đă giải thích sơ qua lề lối
xin việc ở nước Mỹ. Tôi vẫn cứ
băn khoăn lo lắng, không biết người phỏng
vấn ḿnh là đàn ông hay đàn bà, dễ hay khó, có hỏi
những câu hắc búa không và ḿnh phải trả lời làm
sao. Để đỡ run, tôi ráng b́nh tĩnh bằng cách
ngắm hoa hai bên đường. Trời vừa chớm
xuân nên chỗ nào cũng toàn là hoa, sao hoa ở đâu mà nhiều
và đẹp thế. Giá như b́nh thường chắc tôi
đă đ̣i ngừng xe cho ḿnh xuống thưởng thức
cảnh đẹp thiên nhiên. Nhưng bây giờ, giật
ḿnh nghe Carol bảo: "Đă đến nơi hẹn
đầu tiên", rồi thứ hai và thứ ba ..
Liên tiếp bốn hôm, mọi sự
tái diễn y như thế. John và Carol đă phải lấy
ngày nghỉ phép để chở hai vợ chồng tôi
đi xin việc làm, hai người thay phiên nhau vất vả
đưa bẩy người chúng tôi đi làm mọi thủ
tục cần thiết để sống ở nước
Mỹ như đi nhà thương khám sức khỏe, nha sĩ
khám răng, xin thẻ an sinh xă hội, rồi đi xin
trường lớp cho mọi người đi học
ban ngày lẫn ban đêm, đi chợ và c̣n phải hướng
dẫn chúng tôi cách đi xe buưt, tập lái xe hơi, sử dụng
những đồ dùng trong nhà, từ ḷ nướng đến
máy rửa bát, máy giặt, máy sấy .. Mỗi tối, John dạy
ba đứa nhỏ học, c̣n Carol lo chỉnh sửa cách
phát âm tiếng Mỹ của bốn người lớn.
Những chỗ tôi nộp
đơn xin việc và đă được phỏng vấn
đều hứa sẽ gọi lại trong tuần
nhưng đến 5 giờ chiều ngày thứ sáu vẫn
không thấy tăm hơi.
Tôi bắt đầu nản chí và
đề nghị với Carol là thôi không xin việc văn
pḥng nữa mà chú trọng vào việc bồi bàn hay trong nhà bếp.
Carol bảo rằng: "Bà đă thấy những người
chạy bàn bưng mấy cái khay chồng một đống
bát đĩa nặng trĩu, bà có bưng nổi không? C̣n
trong bếp, người ta cầm những cái chảo gang
một tay, c̣n tay kia lật hoặc đảo thức
ăn, bà có làm được không?"
Những tiếng "nổi không,
được không" vang nặng nề, chát chúa trong
đầu tôi. Quả thật, tôi mảnh khảnh nhỏ
bé làm sao kham nổi những công việc tưởng dễ
mà lại vô cùng khó như vậy. Mọi hy vọng t́m
được việc làm kiếm sống nuôi gia đ́nh bỗng
tiêu tan.
Đột nhiên điện thoại
reo lanh lảnh và tiếng John: "Hằng, có người
gọi này". Tôi cầm điện thoại, tiếng trả
lời của tôi càng lúc càng run: "Vâng .. vâng .. vâng .. cám
ơn ông."
Cúp máy xong tôi bảo Carol: "Hồi
năy là ông James, Giám Đốc hăng National Council on Alcoholism, h́nh
như .. ông ấy .. nhận tôi làm việc, chẳng biết
có đúng vậy không, tôi run quá nên không chắc."
Carol bèn gọi lại ông ấy
để hỏi cho đích xác. Một lúc sau Carol trở lại
ôm chầm lấy tôi lắc lấy lắc để
"chúc mừng công việc làm đầu tiên ở nước
Mỹ, thôi không phải đi nấu bếp, làm bồi bàn
hay rửa bát nữa nhé", cả bốn chúng tôi đều
ràn rụa nước mắt trong vui mừng và hạnh
phúc.
Lâm, chồng tôi, xin được
chân rửa bát trong một tiệm ăn của Ư. Giờ giấc
trái ngược làm vợ chồng khó có dịp gặp nhau.
Thế là Lâm xin những việc ban ngày như khuân vác, sắp
xếp mặt hàng cho tiệm thuốc tây, đứng tính
tiền cho tiệm giặt ủi .. John thường nói với
vợ chồng tôi là ông ấy rất khâm phục Lâm khi anh ấy
quyết tâm làm việc để nuôi gia đ́nh dù là những
việc hoàn toàn dưới khả năng.
Sau hai tháng, John và Carol bàn rằng:
"Hai vợ chồng qua đây để có một cuộc
sống đầy đủ và hạnh phúc có nhau chứ
không phải như thế này. Bây giờ Lâm nghỉ việc
đi học lại, một ḿnh Hằng đi làm ăn tiêu
tần tiện cũng tạm đủ. Sau khi Lâm ra trường
có việc làm vững chắc th́ đến lượt Hằng
nghỉ làm đi học." Lời bàn thật hợp lư,
thế là lúc đó chỉ một ḿnh tôi tiếp tục kiếm
cơm, 6 người c̣n lại trong gia đ́nh gồm chồng
tôi, em trai, em gái và ba đứa con đều đi học.
Những khi đi chợ, Carol không
cho tôi trả tiền. John và Carol lúc nào cũng bảo rằng:
"Ráng dành dụm để sau này mua một căn nhà nho
nhỏ." Từ ngày ở đây, tôi luôn luôn nấu món
ăn Việt Nam cho cả gia đ́nh mười người.
Cậu bé Chris ăn quen rồi bỏ luôn thức ăn Mỹ.
Sau này Carol thường nói: "Khi nhận bảo lănh gia
đ́nh Hằng, mối lo lắng nhất của tụi
tôi là tiền ăn cho mười người, nhưng khi
Hằng đảm trách phần nấu ăn th́ đă cho mọi
người ăn những món ăn Việt thật ngon mà
lại chỉ tốn kém bằng khi chúng tôi nấu theo kiểu
Mỹ cho 3 người ăn. Quả là tuyệt vời!"
Một hôm thật bất ngờ, vợ
chồng tôi nhận được một lá thư của
Ṭa Bạch Ốc. Cầm cái phong b́ trong tay mà lạnh
xương sống, không biết có chuyện ǵ đây, chắc
hẳn dữ nhiều hơn lành, điều sợ nhất
là bị trả về Việt Nam. Không ngờ Tổng Thống
Gerald Ford mời chúng tôi đến dự một phiên họp
về vấn đề đồng bào tỵ nạn Việt
Nam, họ muốn nói chuyện trực tiếp với
"người tỵ nạn" như chúng tôi.
Hồi mới tới Hoa Kỳ
chưa đầy một tháng, mọi sự đều c̣n
rất lạ, có lần đến giờ ăn trưa, vợ
chồng tôi bỡ ngỡ, rụt rè đi theo những
người Mỹ vào "cafeteria", nh́n trước ngó
sau, họ làm ǵ th́ ḿnh làm theo. Sau khi lấy thức ăn,
chúng tôi thấy mọi người đều t́m bàn rồi
ngồi xuống ăn. Nh́n quanh không thấy ai trả tiền
nên ḿnh cũng đặt khay thức ăn xuống một
cái bàn trống. Bỗng nghe tiếng gọi sau lưng:
- Miss .. miss ..
Quay lại, thấy một phụ nữ
Mỹ đang hấp tấp chạy lại phía bàn ḿnh. Tôi
hoảng hốt tưởng rằng họ bắt ḿnh về
việc không trả tiền ăn. Tôi bối rối và
ngượng ngập nói:
- We are so sorry ..
Người đàn bà bảo rằng:
- Sao bà lại "sorry"? Trời
ơi, bà mặc cái "áo dài" đẹp quá! Tôi muốn
hỏi bà mua hay may ở đâu v́ bạn trai của tôi
trước đây đi lính chiến đấu bên Việt
Nam, anh ấy ca ngợi hết lời về sự tha
thướt của cái áo dài và người phụ nữ Việt
Nam cho nên tôi muốn có một cái mặc cho bồ tôi ngạc
nhiên.
- Thế mà bà làm tôi suưt đứng
tim. Áo này tôi đem theo từ Việt Nam. Chúng tôi mới
định cư ở đây, chưa quen biết lắm
nên rất tiếc không giúp được bà.
Ba tháng sau, khi việc làm của tôi
đă vững vàng, chúng tôi ngỏ ư muốn dọn ra ở
riêng, John và Carol đă tự nguyện đứng tên thuê hộ
một apartment v́ chúng tôi không có credit và làm việc chưa
được một năm nên không có khả năng làm
chuyện đó.
Ngày dọn nhà, John tặng chúng tôi một
bức tranh màu nâu có h́nh chiếc thuyền buồm do một
họa sĩ Việt Nam vẽ và bảo rằng bức
tranh này họ mua ở Saigon mấy năm rồi, lâu nay vẫn
treo ở pḥng khách nhưng hôm đi phi trường đón
chúng tôi về th́ họ dấu bức tranh trong nhà kho v́ sợ
chúng tôi trông thấy sẽ buồn và nhớ nhà. Hôm ấy họ
nghĩ là chúng tôi đă nguôi ngoai nên mới tặng để
có một cái ǵ của Việt Nam và từ Việt Nam. Chúng
tôi cám ơn món quà và sự tế nhị của vợ chồng
John. Chúng tôi đă treo bức tranh đó ở mọi chung
cư và nhà chúng tôi ở trong suốt bốn mươi
năm qua với ḷng yêu thương và tự hào.
Carol cũng loan báo trong nhà thờ rằng
họ mới bảo trợ một gia đ́nh Việt Nam
nên những người trong họ đạo đă đem
đến cho chúng tôi tất cả mọi thứ cần
dùng trong nhà cho một gia đ́nh 7 người, kể cả
giường nệm, chăn mền, bát đĩa, xoong nồi,
dao muỗng, thêm cả quần áo tương đối mới
và rất sạch cùng một số tiền mặt. Nhờ
đó chúng tôi có tiền deposit nhà và không phải mua sắm một
món ǵ khi dọn vào.
Không biết Carol ngoại giao thế
nào mà một tuần sau, xe chở hàng của Lee Clothing
đến giao cho chúng tôi ba thùng quần áo mới và hăng
Pillsbury cho mấy chục hộp bột làm bánh ngọt.
Một năm sau, chồng tôi xin
được làm kế toán cho một hệ thống tiệm
ăn, cuộc sống tạm ổn, các con học hành
chăm chỉ và ngoan ngoăn. Cuối tuần chúng tôi tụ họp
với bạn bè kể chuyện xưa tích cũ, thật ấm
ḷng!
Tuy thế, khí hậu ở Virginia
vào mùa đông quá lạnh cho những người sinh ra và lớn
lên ở vùng nhiệt đới, nên vợ chồng tôi cùng
một số bạn quyết định dọn về
vùng nắng ấm California.
Mùa hè năm 1978, Lâm xin thôi việc, một
ḿnh bay sang California thăm ḍ từ San Diego lên San Francisco, cuối
cùng dừng bước giang hồ tại San Jose. Lâm xin
được việc làm, thuê chỗ ở sẵn. Vào dịp
lễ Giáng Sinh năm đó, tôi xin nghỉ việc ở
Virginia và cùng ba đứa con nhỏ khăn gói quả
mướp một lần nữa dọn nhà, từ miền
đông qua miền tây nước Mỹ, hai người em
của tôi ở lại Virgnia tiếp tục việc học.
Thêm một lần dời cư là
thêm một lần phải bỡ ngỡ học hỏi
để hội nhập vào đời sống nơi
cư trú mới, nhưng chúng tôi rất vui v́ được
ở một nơi khí hậu quá lư tưởng cho người
Việt, lại đông đồng hương cũng
như chợ búa hàng Á Châu. Điều quan trọng hơn hết
là lúc bấy giờ hiện tượng điện tử
ở vùng Thung Lũng Hoa Vàng đang nở rộ, hăng xưởng
mọc lên như nấm nên xin việc khá dễ dàng.
John và Carol lại nhận nhiệm sở
mới ở ngoại quốc và di chuyển đến nhiều
quốc gia như Kenya, Jordan, Swaziland và El Salvador, nên chúng tôi
không thư từ qua lại một thời gian dài.
Khi sửa soạn làm đám cưới
cho con gái năm 1992, nh́n đống thiệp mời, tôi bỗng
thấy như thiếu thiếu một cái ǵ rất quan trọng,
cuối cùng nghĩ ra là trong danh sách không có vợ chồng
John và Carol Steele mà bao nhiêu năm nay cả hai bên đều
bận rộn v́ miếng cơm manh áo đă mất liên lạc
với nhau.
Tôi gọi điện thoại đến
mấy người bạn cũ làm cho USAID để hỏi
thăm về gia đ́nh nhà Steele nhưng không ai rơ họ
đang ở đâu. Tôi chẳng biết làm cách nào hơn là
gửi thư có ghi số điện thoại nhà để
nhờ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chuyển cho họ với
hy vọng thật mỏng manh.
Ba tuần sau, như một phép lạ,
bất ngờ Carol gọi cho tôi từ El Salvador, chúng tôi mừng
mừng tủi tủi nói chuyện không dứt và hứa từ
nay về sau sẽ thăm hỏi nhau thường xuyên.
Năm 1995, John và Carol đă trở về
nghỉ hưu ở Mỹ, vợ chồng tôi bay lên Nehalem,
một thành phố bé tí ở Oregon chỉ có 222 người
dân, thăm gia đ́nh người bảo trợ sau bao
năm xa cách.
Từ đó đến nay, chúng tôi
thường xuyên gặp nhau, khi th́ John và Carol lái xe xuống
San Jose, lúc th́ gia đ́nh chúng tôi bay lên Oregon. Vợ chồng
tôi cũng xuống San Diego dự đám cưới của
Chris, cậu bé ngày nào mới 18 tháng tuổi, nay đă là một
thanh niên trưởng thành, đẹp trai và có việc làm tốt.
Một lần tôi đă ṭ ṃ hỏi
John và Carol:
- Năm 1975, lúc đó hai người
chỉ hơn 30 tuổi, vừa chân ướt chân ráo từ
Việt Nam về Mỹ, mới mua được căn
nhà đầu tiên mà sao dám liều lĩnh bảo lănh một
gia đ́nh 7 người trong đó có 3 đứa con nít? Hai
người có biết là sẽ phải nuôi chúng tôi bao lâu
không? Nhỡ chúng tôi không thể tự túc hay cứ ù ĺ ra
đó th́ sao?
Carol đáp không cần suy nghĩ:
- Khi biết bà không có thân nhân ở Mỹ
và cần người băo lănh ra khỏi trại tỵ nạn,
chúng tôi đă không hề suy tính ngần ngại v́ đó là
"một việc phải làm", chúng tôi muốn làm một
cái ǵ cho người Việt Nam và đất nước Việt
Nam, nơi chúng tôi đă được ưu đăi với
việc làm đầu tiên trong đời. Chúng tôi
thương yêu và quư mến đất nước và
người dân Việt Nam, bà lại là người đă
làm việc với chúng tôi cả hai năm trời nên tôi
đă biết bà là người như thế nào, do đó
đây là một dịp tốt cho chúng tôi thực hiện
những điều ḿnh mong muốn. Bà nói đúng, dĩ
nhiên chúng tôi không biết chắc sẽ phải lo cho gia
đ́nh bà bao lâu, có thể là vài tháng hoặc vài năm, cho
nên vợ chồng tôi đă đồng ư với nhau là nếu
cần, sẽ cầm cái nhà này để lấy tiền
cung cấp cho gia đ́nh bà và chúng tôi đă sẵn sàng để
làm chuyện ấy.
Lời nói đó làm vợ chồng
tôi nước mắt đoanh tṛng. Tôi chợt nhớ một
điều và hỏi Carol:
- Khi tôi cám ơn ông James, xếp của
tôi ở National Council on Alcolism, đă cho tôi cái job đầu
tiên ở nước Mỹ, ông ấy bảo: "Thật
ra tôi chẳng cho bà một đặc ân ǵ mà bà nên cám ơn
bà Steele, người bảo trợ của bà th́ đúng
hơn, đó mới là người bạn tốt của
bà", tôi vẫn thắc mắc câu nói đó.
Carol mới "bật mí" rằng:
- Thật ra khi thấy công việc của
văn pḥng này rất tốt và hợp với khả
năng của bà, tôi đă đánh bạo viết cho ông
James một lá thư: "Cám ơn ông đă phỏng vấn
người bạn của tôi ngày hôm qua, đây là một
trong hai người đàn bà đă được ông Tổng
Trưởng Xă Hội trao tặng huy chương năm
1970 v́ đă làm việc hăng say, hữu hiệu và hết
ḷng, không quản ngại hiểm nguy trong công tác giúp đồng
bào tỵ nạn Việt Nam tại những nơi đầu
tên mũi đạn. Xin ông một đặc ân, cho bà ấy
cơ hội làm việc thử trong hai tuần lễ, nếu
ông không vừa ḷng th́ cứ cho bà ấy nghỉ việc,
chúng tôi sẽ không dám thắc mắc ǵ. Nhưng tôi bảo
đảm với ông rằng ông sẽ không thất vọng
v́ tôi đă biết khả năng và ḷng tự trọng của
Hằng khi bà ấy làm việc cho tôi ở Việt Nam".
- À ra thế, hèn ǵ ông ấy đă
điện thoại cho tôi chiều thứ sáu hôm đó v́
Carol đă là một "very best reference."
- Chắc Hằng cũng không biết
rằng hai tuần sau, chính ông James gọi điện thoại
cám ơn tôi đă giới thiệu cho ông ấy một nhân
viên tốt.
- Thật cảm ơn Carol, "vạn
sự khởi đầu nan" đă được quư
nhân phù trợ, nhờ vậy mà sau đó tôi xin việc khác
dễ dàng v́ đă có kinh nghiệm làm việc ở Mỹ
và cơ hội tiến thân.
Vợ chồng tôi đă kể cho
con cháu nghe chi tiết của những ngày đầu tiên ở
nước Mỹ và những lư do tại sao chúng tôi mang
ơn John và Carol Steele.
Càng gần gũi, hai gia đ́nh càng
thương yêu, quư mến nhau hơn. John và Carol thường
nói với bạn hữu và những người trong nhà thờ
rằng chúng tôi là một phần của gia đ́nh họ.
Chúng tôi cũng luôn luôn nghĩ họ là khúc nối dài của
gia đ́nh chúng tôi trên quê hương thứ hai đầy
t́nh người này.
John và Carol đă trở thành ông bà ngoại
của những đứa cháu của chúng tôi và hai vợ
chồng tôi bỗng nhiên có một đứa cháu nội
"trắng tinh" khi Chris Steele sanh được thằng
con trai. Như vậy vợ chồng tôi có cả thảy 5
đứa cháu, hai đứa hoàn toàn Việt Nam, hai đứa
lai Mỹ 50% và một đứa Mỹ trắng 100%.
Sau ngày lễ Thanksgiving này, tôi sẽ
lo chuẩn bị những món ăn Việt Nam mà John và Carol
thích như phở, bún ḅ, bánh xèo, thịt kho, gỏi .. và nhất
là cà phê "cái nồi ngồi trên cái cốc". Thêm nữa,
như thường lệ, vợ chồng tôi sẽ cặm
cụi làm 200 cái chả gị sẵn sàng cho vợ chồng
John và Carol đem về Oregon khi họ xuống đây
ăn lễ Giáng Sinh với chúng tôi.
Gia đ́nh tôi không biết phải
nói như thế nào để tỏ ḷng biết ơn với
John và Carol. Họ không là bà con, không cùng gịng giống, chẳng
nợ nần ǵ chúng tôi mà họ đă đem chúng tôi về
nhà, nuôi nấng, chăm sóc, hướng dẫn từng ly từng
tư, đưa các em và các con chúng tôi đến trường
xin học, đến căi nhau với chủ tiệm ăn
khi họ không trả đủ tiền lương cho chồng
tôi, rồi khôn khéo bảo đảm việc làm đầu
tiên cho tôi, lại c̣n đứng tên thuê apartment cho chúng tôi ở.
Hơn nữa c̣n dám sẵn sàng cầm cố căn nhà
để giúp đỡ gia đ́nh chúng tôi nếu cần.
Sau 39 năm sống ở Hoa Kỳ,
gia đ́nh chúng tôi cũng như bao nhiêu người Việt
Nam tỵ nạn đă nỗ lực học hành và làm việc
cật lực để tự gây dựng một cuộc
sống đầy đủ, các con cháu ăn học nên
người và chúng tôi rất hănh diện đóng góp trả
ơn cho quê hương thứ hai này. Là công dân Hoa Kỳ,
chúng tôi vui với sự thịnh vượng và cũng rất
đau ḷng khi thiên tai hay hoạn nạn xảy ra cho nước
Mỹ.
Cám ơn John và Carol, những người
Mỹ và đất nước Mỹ đă mở rộng
ṿng tay cưu mang gia đ́nh chúng tôi cũng như bao nhiêu
người Việt Nam tỵ nạn khác. Cám ơn Trời
Đất đă che chở những cánh chim Việt lạc
đàn, phải từ bỏ tổ ấm, nơi chôn nhau cắt
rốn, lại may mắn t́m được quê hương
thứ hai đầy ḷng nhân ái và bao dung. Cám ơn những
cộng đồng Việt Nam tỵ nạn trên khắp thế
giới, đă yêu thương, khắng khít, đùm bọc
lẫn nhau để làm nên một khối Người Việt
Tự Do vững mạnh.
Mùa Tạ
Ơn 2014
LÊ NGUYỄN HẰNG
(Khánh Dung sưu tầm
và chuyển)