Home | SU'U TÂ`M THO' | SU'U TÂ`M THO' [tt] | TÂ'M L̉NG VÀNG | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | TA.P GHI 48 | TA.P GHI 49 | TA.P GHI 50 | CU'̉'I CHÚT CHO'I | CU'̉'I CHÚT CHO'I [tt] | TÀI T̀NH | -DÔ.C -DÁO | NGHE NHA.C HAY | THÚ VI. | LINKS | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | VN @ HA?I NGOA.I | NGHI.CH LƯ | NGHI.CH LƯ [tt] | NGHI.CH LƯ 1 | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | CÂ?N THÂ.N | -DE.P | PHIM HAY | SHOW CA NHA.C | TH̉'I SU'.

TA.P GHI 11

 

 

Tạ Ơn Người, Tạ Ơn Đời

 

(Lê Nguyn Hng)

 

 

Tháng 11 là mùa Lễ Tạ Ơn, mời đọc bài của Lê Nguyễn Hằng viết về người bảo trợ. Tác giả đă nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà là một cây bút nữ, cư dân San Jose, có viết chung với Nguyễn Thạch Hăn bài "Ḍng Sông Êm Đềm", một chuyện t́nh tuổi nhỏ thất lạc nhiều năm, t́m lại được nhau trên đất Mỹ nhờ các sinh hoạt hội đoàn, họp mặt đồng hương.

 

 

* * *

 

Viết cho Carol và John Steele

 

Năm 1975, sau vài lần chuyển từ trại tạm trú này qua trại tạm trú khác ở đảo Guam, gia đ́nh tôi được đưa đến Fort Chaffee ở Arkansas chờ bảo lănh.

 

Mặc dù biết là ḿnh đă đến bến bờ tự do và đang tạm thời được hưởng cuộc sống an nhàn ở một đất nước giàu mạnh nhất thế giới, thế mà trong ḷng vẫn canh cánh, vẫn thấp thỏm sợ hăi khi nghĩ đến một tương lai mờ mịt. Chúng tôi như những con thú hoang, bị bắt vào trong cũi và thả đến nơi xa lạ. Nh́n cái ǵ cũng nghi ngờ và băn khoăn, lo lắng. Rồi những lời đồn đăi càng làm tăng thêm mối âu lo. Nào là vài ngày nữa, sau khi làm xong danh sách, chính phủ Mỹ sẽ đem những người tỵ nạn đến một mảnh đất hay một ḥn đảo hoang vu, cung cấp một ít dụng cụ làm ruộng làm vườn để đám dân tỵ nạn tự lực cánh sinh bắt đầu một cuộc sống mới; nào là họ sẽ phân phối lực lượng lao động này đi làm lao công cho những hăng xưởng hay nông trại xa xôi hẻo lánh trong khi phần lớn chúng tôi không quen những công việc này. Tệ hơn nữa là họ sẽ dùng người tỵ nạn làm tù binh để trao đổi với phía bên kia cho những điều họ muốn.

 

Những ư tưởng tiêu cực đó cứ loanh quanh măi trong đầu tôi cho đến ..

 

Một buổi trưa hè nóng bức, tôi đang đứng dưới gốc cây chờ xe buưt đi lấy sữa cho con th́ một người Mỹ, chắc là làm việc trong trại, thấy vẻ mặt buồn buồn của tôi, anh ta chỉ tay ra ngoài xa và hỏi:

 

- Cô có thân nhân nào ngoài kia không?

 

- Không, ông ạ.

 

- Cô có muốn điện thoại cho ai không?

 

- Tôi chẳng quen ai và cũng không biết cách gọi.

 

- Tôi sẽ giúp cô gọi cho bạn hay bà con của cô.

 

Tôi lưỡng lự:

 

- Tôi chỉ biết bà xếp cũ của tôi tên là Carol Steele ở McLean, Virginia. Nhưng v́ vợ chồng bà ấy được lệnh rời Việt Nam cấp tốc nên không kịp cho tôi địa chỉ và số điện thoại.

 

- Không sao, tôi sẽ ḍ trong cuốn niên giám và gọi thử, tôi sẽ gọi "collect" nhá.

 

Tôi như người chết đuối vớ được một khúc củi mục đang trôi lơ lủng trên ḍng sông, chẳng cần biết ra sao, cũng cố với tay bám vào nó. Tôi chẳng hiểu "collect" là ǵ nhưng cũng gật đầu. Thế là người bạn mới quen bắt đầu quay số. Đến lần thứ ba th́ may mắn gặp được người xếp cũ của tôi khi c̣n làm cho Cơ Quan Viện Trợ Mỹ, trực thuộc ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Saigon.

 

Khi người đàn ông đưa điện thoại cho tôi, tôi chỉ kịp xưng tên rồi ̣a lên khóc. Những nỗi niềm hoang mang u uẩn chất đầy trong ḷng được dịp tuôn trào. Carol ở đầu giây bên kia cũng khóc. Tôi cố nén nỗi xúc động, kể sơ qua cho Carol nghe về hoàn cảnh hiện tại. Carol nói:

 

- Tôi vẫn cố ư dọ hỏi tin tức về Hằng lâu nay mà chưa được, bây giờ biết gia đ́nh bà ra khỏi nước b́nh yên và đang ở Arkansas rồi, sáng mai tôi sẽ làm giấy bảo lănh tất cả bẩy người về đây với chúng tôi ở Virginia.

 

Tôi vội vàng từ chối:

 

- Cám ơn ḷng tốt của Carol, nhưng khi nào bà t́m được việc làm cho tôi th́ gia đ́nh tôi mới rời trại, ít nhất ở trong này chúng tôi không phải lo miếng ăn.

 

Carol bảo:

 

- Ở nước Mỹ này, ai cũng phải xin mới có việc làm, thôi cứ ra đây rồi tới đâu hay tới đó, đừng sợ.

 

Sáng hôm sau mới mười giờ đă có loa gọi tôi đến văn pḥng lănh điện tín, đó là giấy bảo lănh của vợ chồng người xếp cũ, Carol và John Steele. Chỉ một tuần sau, ngày thứ sáu, 13 tháng 6 năm 1975, gia đ́nh tôi, gồm hai vợ chồng và 3 đứa con nhỏ dại cùng hai người em, lên máy bay đi định cư ở tiểu bang Virginia.

 

Carol và John ra đón chúng tôi ở phi trường. Hai bên đường từ Washington Dulles Airport về thành phố McLean, Virginia, cây cối xanh tươi mát mẻ, những cây đào cành mảnh khảnh, thanh nhă, nghiêng ngả mang những cánh hoa màu tím, nhạt có, đậm có, vài cây hoa màu trắng mùi hương thoang thoảng dịu dàng, tôi có cảm tưởng như ḿnh đang lạc vào một rừng hoa cho đến khi Carol bảo: "Ḿnh đă đến nhà rồi".

 

Đó là một căn nhà hai tầng có 5 pḥng ngủ và "basement". Ở miền đông xứ tuyết mà phần lớn nhà không có garage nhưng có tầng dưới mặt đất dùng để chứa đồ đạc hoặc sửa lại thành một pḥng ngủ hay pḥng giải trí.

 

John, Carol và Chris, đứa con trai 18 tháng tuổi, ở hai pḥng trên tầng nh́. Sau khi dẫn chúng tôi xem 3 pḥng dành cho gia đ́nh tôi ở tầng trệt, vào bếp tôi thấy ngay một bao gạo thật lớn ở dưới đất và chai nước mắm trên mặt bàn. Carol giải thích: "Tôi biết người Việt Nam ăn cơm hằng ngày và gia vị chính là nước mắm nên vợ chồng tôi đă đi lùng bao nhiêu chợ Á Châu mới t́m ra được chai nước mắm này đây."

 

Sáng thứ hai, tôi đang sửa soạn bữa ăn sáng cho các con, Carol đến gần lúc lắc trong tay một tờ báo với những khoanh tṛn xanh đỏ, bà ta nói:

 

- Hằng, thay quần áo đi xin việc làm. Tôi đă làm sẵn Resume và điện thoại xin hẹn được ba chỗ cho bà rồi, sửa soạn nhanh lên kẻo trễ giờ.

 

Vừa mới ra khỏi trại tỵ nạn vỏn vẹn được hai ngày, c̣n chưa hoàn hồn, nên tôi thật sự hoang mang và lo sợ nhưng cũng vội vàng chuẩn bị sơ sài cho kịp.

 

Trên đường đi, ḷng tôi rối như tơ ṿ, dù Carol đă giải thích sơ qua lề lối xin việc ở nước Mỹ. Tôi vẫn cứ băn khoăn lo lắng, không biết người phỏng vấn ḿnh là đàn ông hay đàn bà, dễ hay khó, có hỏi những câu hắc búa không và ḿnh phải trả lời làm sao. Để đỡ run, tôi ráng b́nh tĩnh bằng cách ngắm hoa hai bên đường. Trời vừa chớm xuân nên chỗ nào cũng toàn là hoa, sao hoa ở đâu mà nhiều và đẹp thế. Giá như b́nh thường chắc tôi đă đ̣i ngừng xe cho ḿnh xuống thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên. Nhưng bây giờ, giật ḿnh nghe Carol bảo: "Đă đến nơi hẹn đầu tiên", rồi thứ hai và thứ ba ..

 

Liên tiếp bốn hôm, mọi sự tái diễn y như thế. John và Carol đă phải lấy ngày nghỉ phép để chở hai vợ chồng tôi đi xin việc làm, hai người thay phiên nhau vất vả đưa bẩy người chúng tôi đi làm mọi thủ tục cần thiết để sống ở nước Mỹ như đi nhà thương khám sức khỏe, nha sĩ khám răng, xin thẻ an sinh xă hội, rồi đi xin trường lớp cho mọi người đi học ban ngày lẫn ban đêm, đi chợ và c̣n phải hướng dẫn chúng tôi cách đi xe buưt, tập lái xe hơi, sử dụng những đồ dùng trong nhà, từ ḷ nướng đến máy rửa bát, máy giặt, máy sấy .. Mỗi tối, John dạy ba đứa nhỏ học, c̣n Carol lo chỉnh sửa cách phát âm tiếng Mỹ của bốn người lớn.

 

Những chỗ tôi nộp đơn xin việc và đă được phỏng vấn đều hứa sẽ gọi lại trong tuần nhưng đến 5 giờ chiều ngày thứ sáu vẫn không thấy tăm hơi.

 

Tôi bắt đầu nản chí và đề nghị với Carol là thôi không xin việc văn pḥng nữa mà chú trọng vào việc bồi bàn hay trong nhà bếp. Carol bảo rằng: "Bà đă thấy những người chạy bàn bưng mấy cái khay chồng một đống bát đĩa nặng trĩu, bà có bưng nổi không? C̣n trong bếp, người ta cầm những cái chảo gang một tay, c̣n tay kia lật hoặc đảo thức ăn, bà có làm được không?"

 

Những tiếng "nổi không, được không" vang nặng nề, chát chúa trong đầu tôi. Quả thật, tôi mảnh khảnh nhỏ bé làm sao kham nổi những công việc tưởng dễ mà lại vô cùng khó như vậy. Mọi hy vọng t́m được việc làm kiếm sống nuôi gia đ́nh bỗng tiêu tan.

 

Đột nhiên điện thoại reo lanh lảnh và tiếng John: "Hằng, có người gọi này". Tôi cầm điện thoại, tiếng trả lời của tôi càng lúc càng run: "Vâng .. vâng .. vâng .. cám ơn ông."

 

Cúp máy xong tôi bảo Carol: "Hồi năy là ông James, Giám Đốc hăng National Council on Alcoholism, h́nh như .. ông ấy .. nhận tôi làm việc, chẳng biết có đúng vậy không, tôi run quá nên không chắc."

 

Carol bèn gọi lại ông ấy để hỏi cho đích xác. Một lúc sau Carol trở lại ôm chầm lấy tôi lắc lấy lắc để "chúc mừng công việc làm đầu tiên ở nước Mỹ, thôi không phải đi nấu bếp, làm bồi bàn hay rửa bát nữa nhé", cả bốn chúng tôi đều ràn rụa nước mắt trong vui mừng và hạnh phúc.

 

Lâm, chồng tôi, xin được chân rửa bát trong một tiệm ăn của Ư. Giờ giấc trái ngược làm vợ chồng khó có dịp gặp nhau. Thế là Lâm xin những việc ban ngày như khuân vác, sắp xếp mặt hàng cho tiệm thuốc tây, đứng tính tiền cho tiệm giặt ủi .. John thường nói với vợ chồng tôi là ông ấy rất khâm phục Lâm khi anh ấy quyết tâm làm việc để nuôi gia đ́nh dù là những việc hoàn toàn dưới khả năng.

 

Sau hai tháng, John và Carol bàn rằng: "Hai vợ chồng qua đây để có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc có nhau chứ không phải như thế này. Bây giờ Lâm nghỉ việc đi học lại, một ḿnh Hằng đi làm ăn tiêu tần tiện cũng tạm đủ. Sau khi Lâm ra trường có việc làm vững chắc th́ đến lượt Hằng nghỉ làm đi học." Lời bàn thật hợp lư, thế là lúc đó chỉ một ḿnh tôi tiếp tục kiếm cơm, 6 người c̣n lại trong gia đ́nh gồm chồng tôi, em trai, em gái và ba đứa con đều đi học.

 

Những khi đi chợ, Carol không cho tôi trả tiền. John và Carol lúc nào cũng bảo rằng: "Ráng dành dụm để sau này mua một căn nhà nho nhỏ." Từ ngày ở đây, tôi luôn luôn nấu món ăn Việt Nam cho cả gia đ́nh mười người. Cậu bé Chris ăn quen rồi bỏ luôn thức ăn Mỹ. Sau này Carol thường nói: "Khi nhận bảo lănh gia đ́nh Hằng, mối lo lắng nhất của tụi tôi là tiền ăn cho mười người, nhưng khi Hằng đảm trách phần nấu ăn th́ đă cho mọi người ăn những món ăn Việt thật ngon mà lại chỉ tốn kém bằng khi chúng tôi nấu theo kiểu Mỹ cho 3 người ăn. Quả là tuyệt vời!"

 

Một hôm thật bất ngờ, vợ chồng tôi nhận được một lá thư của Ṭa Bạch Ốc. Cầm cái phong b́ trong tay mà lạnh xương sống, không biết có chuyện ǵ đây, chắc hẳn dữ nhiều hơn lành, điều sợ nhất là bị trả về Việt Nam. Không ngờ Tổng Thống Gerald Ford mời chúng tôi đến dự một phiên họp về vấn đề đồng bào tỵ nạn Việt Nam, họ muốn nói chuyện trực tiếp với "người tỵ nạn" như chúng tôi.

 

Hồi mới tới Hoa Kỳ chưa đầy một tháng, mọi sự đều c̣n rất lạ, có lần đến giờ ăn trưa, vợ chồng tôi bỡ ngỡ, rụt rè đi theo những người Mỹ vào "cafeteria", nh́n trước ngó sau, họ làm ǵ th́ ḿnh làm theo. Sau khi lấy thức ăn, chúng tôi thấy mọi người đều t́m bàn rồi ngồi xuống ăn. Nh́n quanh không thấy ai trả tiền nên ḿnh cũng đặt khay thức ăn xuống một cái bàn trống. Bỗng nghe tiếng gọi sau lưng:

 

- Miss .. miss ..

 

Quay lại, thấy một phụ nữ Mỹ đang hấp tấp chạy lại phía bàn ḿnh. Tôi hoảng hốt tưởng rằng họ bắt ḿnh về việc không trả tiền ăn. Tôi bối rối và ngượng ngập nói:

 

- We are so sorry ..

 

Người đàn bà bảo rằng:

 

- Sao bà lại "sorry"? Trời ơi, bà mặc cái "áo dài" đẹp quá! Tôi muốn hỏi bà mua hay may ở đâu v́ bạn trai của tôi trước đây đi lính chiến đấu bên Việt Nam, anh ấy ca ngợi hết lời về sự tha thướt của cái áo dài và người phụ nữ Việt Nam cho nên tôi muốn có một cái mặc cho bồ tôi ngạc nhiên.

 

- Thế mà bà làm tôi suưt đứng tim. Áo này tôi đem theo từ Việt Nam. Chúng tôi mới định cư ở đây, chưa quen biết lắm nên rất tiếc không giúp được bà.

 

Ba tháng sau, khi việc làm của tôi đă vững vàng, chúng tôi ngỏ ư muốn dọn ra ở riêng, John và Carol đă tự nguyện đứng tên thuê hộ một apartment v́ chúng tôi không có credit và làm việc chưa được một năm nên không có khả năng làm chuyện đó.

 

Ngày dọn nhà, John tặng chúng tôi một bức tranh màu nâu có h́nh chiếc thuyền buồm do một họa sĩ Việt Nam vẽ và bảo rằng bức tranh này họ mua ở Saigon mấy năm rồi, lâu nay vẫn treo ở pḥng khách nhưng hôm đi phi trường đón chúng tôi về th́ họ dấu bức tranh trong nhà kho v́ sợ chúng tôi trông thấy sẽ buồn và nhớ nhà. Hôm ấy họ nghĩ là chúng tôi đă nguôi ngoai nên mới tặng để có một cái ǵ của Việt Nam và từ Việt Nam. Chúng tôi cám ơn món quà và sự tế nhị của vợ chồng John. Chúng tôi đă treo bức tranh đó ở mọi chung cư và nhà chúng tôi ở trong suốt bốn mươi năm qua với ḷng yêu thương và tự hào.

 

Carol cũng loan báo trong nhà thờ rằng họ mới bảo trợ một gia đ́nh Việt Nam nên những người trong họ đạo đă đem đến cho chúng tôi tất cả mọi thứ cần dùng trong nhà cho một gia đ́nh 7 người, kể cả giường nệm, chăn mền, bát đĩa, xoong nồi, dao muỗng, thêm cả quần áo tương đối mới và rất sạch cùng một số tiền mặt. Nhờ đó chúng tôi có tiền deposit nhà và không phải mua sắm một món ǵ khi dọn vào.

 

Không biết Carol ngoại giao thế nào mà một tuần sau, xe chở hàng của Lee Clothing đến giao cho chúng tôi ba thùng quần áo mới và hăng Pillsbury cho mấy chục hộp bột làm bánh ngọt.

 

Một năm sau, chồng tôi xin được làm kế toán cho một hệ thống tiệm ăn, cuộc sống tạm ổn, các con học hành chăm chỉ và ngoan ngoăn. Cuối tuần chúng tôi tụ họp với bạn bè kể chuyện xưa tích cũ, thật ấm ḷng!

 

Tuy thế, khí hậu ở Virginia vào mùa đông quá lạnh cho những người sinh ra và lớn lên ở vùng nhiệt đới, nên vợ chồng tôi cùng một số bạn quyết định dọn về vùng nắng ấm California.

 

Mùa hè năm 1978, Lâm xin thôi việc, một ḿnh bay sang California thăm ḍ từ San Diego lên San Francisco, cuối cùng dừng bước giang hồ tại San Jose. Lâm xin được việc làm, thuê chỗ ở sẵn. Vào dịp lễ Giáng Sinh năm đó, tôi xin nghỉ việc ở Virginia và cùng ba đứa con nhỏ khăn gói quả mướp một lần nữa dọn nhà, từ miền đông qua miền tây nước Mỹ, hai người em của tôi ở lại Virgnia tiếp tục việc học.

 

Thêm một lần dời cư là thêm một lần phải bỡ ngỡ học hỏi để hội nhập vào đời sống nơi cư trú mới, nhưng chúng tôi rất vui v́ được ở một nơi khí hậu quá lư tưởng cho người Việt, lại đông đồng hương cũng như chợ búa hàng Á Châu. Điều quan trọng hơn hết là lúc bấy giờ hiện tượng điện tử ở vùng Thung Lũng Hoa Vàng đang nở rộ, hăng xưởng mọc lên như nấm nên xin việc khá dễ dàng.

 

John và Carol lại nhận nhiệm sở mới ở ngoại quốc và di chuyển đến nhiều quốc gia như Kenya, Jordan, Swaziland và El Salvador, nên chúng tôi không thư từ qua lại một thời gian dài.

 

Khi sửa soạn làm đám cưới cho con gái năm 1992, nh́n đống thiệp mời, tôi bỗng thấy như thiếu thiếu một cái ǵ rất quan trọng, cuối cùng nghĩ ra là trong danh sách không có vợ chồng John và Carol Steele mà bao nhiêu năm nay cả hai bên đều bận rộn v́ miếng cơm manh áo đă mất liên lạc với nhau.

 

Tôi gọi điện thoại đến mấy người bạn cũ làm cho USAID để hỏi thăm về gia đ́nh nhà Steele nhưng không ai rơ họ đang ở đâu. Tôi chẳng biết làm cách nào hơn là gửi thư có ghi số điện thoại nhà để nhờ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ chuyển cho họ với hy vọng thật mỏng manh.

 

Ba tuần sau, như một phép lạ, bất ngờ Carol gọi cho tôi từ El Salvador, chúng tôi mừng mừng tủi tủi nói chuyện không dứt và hứa từ nay về sau sẽ thăm hỏi nhau thường xuyên.

 

Năm 1995, John và Carol đă trở về nghỉ hưu ở Mỹ, vợ chồng tôi bay lên Nehalem, một thành phố bé tí ở Oregon chỉ có 222 người dân, thăm gia đ́nh người bảo trợ sau bao năm xa cách.

 

Từ đó đến nay, chúng tôi thường xuyên gặp nhau, khi th́ John và Carol lái xe xuống San Jose, lúc th́ gia đ́nh chúng tôi bay lên Oregon. Vợ chồng tôi cũng xuống San Diego dự đám cưới của Chris, cậu bé ngày nào mới 18 tháng tuổi, nay đă là một thanh niên trưởng thành, đẹp trai và có việc làm tốt.

 

Một lần tôi đă ṭ ṃ hỏi John và Carol:

 

- Năm 1975, lúc đó hai người chỉ hơn 30 tuổi, vừa chân ướt chân ráo từ Việt Nam về Mỹ, mới mua được căn nhà đầu tiên mà sao dám liều lĩnh bảo lănh một gia đ́nh 7 người trong đó có 3 đứa con nít? Hai người có biết là sẽ phải nuôi chúng tôi bao lâu không? Nhỡ chúng tôi không thể tự túc hay cứ ù ĺ ra đó th́ sao?

 

Carol đáp không cần suy nghĩ:

 

- Khi biết bà không có thân nhân ở Mỹ và cần người băo lănh ra khỏi trại tỵ nạn, chúng tôi đă không hề suy tính ngần ngại v́ đó là "một việc phải làm", chúng tôi muốn làm một cái ǵ cho người Việt Nam và đất nước Việt Nam, nơi chúng tôi đă được ưu đăi với việc làm đầu tiên trong đời. Chúng tôi thương yêu và quư mến đất nước và người dân Việt Nam, bà lại là người đă làm việc với chúng tôi cả hai năm trời nên tôi đă biết bà là người như thế nào, do đó đây là một dịp tốt cho chúng tôi thực hiện những điều ḿnh mong muốn. Bà nói đúng, dĩ nhiên chúng tôi không biết chắc sẽ phải lo cho gia đ́nh bà bao lâu, có thể là vài tháng hoặc vài năm, cho nên vợ chồng tôi đă đồng ư với nhau là nếu cần, sẽ cầm cái nhà này để lấy tiền cung cấp cho gia đ́nh bà và chúng tôi đă sẵn sàng để làm chuyện ấy.

 

Lời nói đó làm vợ chồng tôi nước mắt đoanh tṛng. Tôi chợt nhớ một điều và hỏi Carol:

 

- Khi tôi cám ơn ông James, xếp của tôi ở National Council on Alcolism, đă cho tôi cái job đầu tiên ở nước Mỹ, ông ấy bảo: "Thật ra tôi chẳng cho bà một đặc ân ǵ mà bà nên cám ơn bà Steele, người bảo trợ của bà th́ đúng hơn, đó mới là người bạn tốt của bà", tôi vẫn thắc mắc câu nói đó.

 

Carol mới "bật mí" rằng:

 

- Thật ra khi thấy công việc của văn pḥng này rất tốt và hợp với khả năng của bà, tôi đă đánh bạo viết cho ông James một lá thư: "Cám ơn ông đă phỏng vấn người bạn của tôi ngày hôm qua, đây là một trong hai người đàn bà đă được ông Tổng Trưởng Xă Hội trao tặng huy chương năm 1970 v́ đă làm việc hăng say, hữu hiệu và hết ḷng, không quản ngại hiểm nguy trong công tác giúp đồng bào tỵ nạn Việt Nam tại những nơi đầu tên mũi đạn. Xin ông một đặc ân, cho bà ấy cơ hội làm việc thử trong hai tuần lễ, nếu ông không vừa ḷng th́ cứ cho bà ấy nghỉ việc, chúng tôi sẽ không dám thắc mắc ǵ. Nhưng tôi bảo đảm với ông rằng ông sẽ không thất vọng v́ tôi đă biết khả năng và ḷng tự trọng của Hằng khi bà ấy làm việc cho tôi ở Việt Nam".

 

- À ra thế, hèn ǵ ông ấy đă điện thoại cho tôi chiều thứ sáu hôm đó v́ Carol đă là một "very best reference."

 

- Chắc Hằng cũng không biết rằng hai tuần sau, chính ông James gọi điện thoại cám ơn tôi đă giới thiệu cho ông ấy một nhân viên tốt.

 

- Thật cảm ơn Carol, "vạn sự khởi đầu nan" đă được quư nhân phù trợ, nhờ vậy mà sau đó tôi xin việc khác dễ dàng v́ đă có kinh nghiệm làm việc ở Mỹ và cơ hội tiến thân.

 

Vợ chồng tôi đă kể cho con cháu nghe chi tiết của những ngày đầu tiên ở nước Mỹ và những lư do tại sao chúng tôi mang ơn John và Carol Steele.

 

Càng gần gũi, hai gia đ́nh càng thương yêu, quư mến nhau hơn. John và Carol thường nói với bạn hữu và những người trong nhà thờ rằng chúng tôi là một phần của gia đ́nh họ. Chúng tôi cũng luôn luôn nghĩ họ là khúc nối dài của gia đ́nh chúng tôi trên quê hương thứ hai đầy t́nh người này.

 

John và Carol đă trở thành ông bà ngoại của những đứa cháu của chúng tôi và hai vợ chồng tôi bỗng nhiên có một đứa cháu nội "trắng tinh" khi Chris Steele sanh được thằng con trai. Như vậy vợ chồng tôi có cả thảy 5 đứa cháu, hai đứa hoàn toàn Việt Nam, hai đứa lai Mỹ 50% và một đứa Mỹ trắng 100%.

 

Sau ngày lễ Thanksgiving này, tôi sẽ lo chuẩn bị những món ăn Việt Nam mà John và Carol thích như phở, bún ḅ, bánh xèo, thịt kho, gỏi .. và nhất là cà phê "cái nồi ngồi trên cái cốc". Thêm nữa, như thường lệ, vợ chồng tôi sẽ cặm cụi làm 200 cái chả gị sẵn sàng cho vợ chồng John và Carol đem về Oregon khi họ xuống đây ăn lễ Giáng Sinh với chúng tôi.

 

Gia đ́nh tôi không biết phải nói như thế nào để tỏ ḷng biết ơn với John và Carol. Họ không là bà con, không cùng gịng giống, chẳng nợ nần ǵ chúng tôi mà họ đă đem chúng tôi về nhà, nuôi nấng, chăm sóc, hướng dẫn từng ly từng tư, đưa các em và các con chúng tôi đến trường xin học, đến căi nhau với chủ tiệm ăn khi họ không trả đủ tiền lương cho chồng tôi, rồi khôn khéo bảo đảm việc làm đầu tiên cho tôi, lại c̣n đứng tên thuê apartment cho chúng tôi ở. Hơn nữa c̣n dám sẵn sàng cầm cố căn nhà để giúp đỡ gia đ́nh chúng tôi nếu cần.

 

Sau 39 năm sống ở Hoa Kỳ, gia đ́nh chúng tôi cũng như bao nhiêu người Việt Nam tỵ nạn đă nỗ lực học hành và làm việc cật lực để tự gây dựng một cuộc sống đầy đủ, các con cháu ăn học nên người và chúng tôi rất hănh diện đóng góp trả ơn cho quê hương thứ hai này. Là công dân Hoa Kỳ, chúng tôi vui với sự thịnh vượng và cũng rất đau ḷng khi thiên tai hay hoạn nạn xảy ra cho nước Mỹ.

 

Cám ơn John và Carol, những người Mỹ và đất nước Mỹ đă mở rộng ṿng tay cưu mang gia đ́nh chúng tôi cũng như bao nhiêu người Việt Nam tỵ nạn khác. Cám ơn Trời Đất đă che chở những cánh chim Việt lạc đàn, phải từ bỏ tổ ấm, nơi chôn nhau cắt rốn, lại may mắn t́m được quê hương thứ hai đầy ḷng nhân ái và bao dung. Cám ơn những cộng đồng Việt Nam tỵ nạn trên khắp thế giới, đă yêu thương, khắng khít, đùm bọc lẫn nhau để làm nên một khối Người Việt Tự Do vững mạnh.

 

 

Mùa Tạ Ơn 2014

 

LÊ NGUYN HNG

 

(Khánh Dung sưu tầm và chuyển)

 

 

website counter