Home | SU'U TÂ`M THO' | SU'U TÂ`M THO' [tt] | TÂ'M LÒNG VÀNG | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | TA.P GHI 17 | TA.P GHI 18 | TA.P GHI 19 | TA.P GHI 20 | TA.P GHI 21 | TA.P GHI 22 | TA.P GHI 23 | TA.P GHI 24 | TA.P GHI 25 | TA.P GHI 26 | TA.P GHI 27 | TA.P GHI 28 | TA.P GHI 29 | TA.P GHI 30 | TA.P GHI 31 | TA.P GHI 32 | TA.P GHI 33 | TA.P GHI 34 | TA.P GHI 35 | TA.P GHI 36 | TA.P GHI 37 | TA.P GHI 38 | TA.P GHI 39 | TA.P GHI 40 | TA.P GHI 41 | TA.P GHI 42 | TA.P GHI 43 | TA.P GHI 44 | TA.P GHI 45 | TA.P GHI 46 | TA.P GHI 47 | TA.P GHI 48 | TA.P GHI 49 | TA.P GHI 50 | CU'Ò'I CHÚT CHO'I | CU'Ò'I CHÚT CHO'I [tt] | TÀI TÌNH | -DÔ.C -DÁO | NGHE NHA.C HAY | THÚ VI. | LINKS | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BÀI VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | SUY NGÂM~ | SUY NGÂM~ [tt] | SUY NGÂM~ 1 | SUY NGÂM~ 2 | SUY NGÂM~ 3 | SUY NGÂM~ 4 | SUY NGÂM~ 5 | SUY NGÂM~ 6 | SUY NGÂM~ 7 | VN @ HA?I NGOA.I | NGHI.CH LÝ | NGHI.CH LÝ [tt] | NGHI.CH LÝ 1 | HU'U~ ÍCH | HU'U~ ÍCH [tt] | HU'U~ ÍCH 1 | HU'U~ ÍCH 2 | CÂ?N THÂ.N | -DE.P | PHIM HAY | SHOW CA NHA.C | THÒ'I SU'.

TA.P GHI 1

1chumbonbon_lansium_domesticum.jpg

 

ĐI HÁI BÒN BON

(Cung Diễm)

 

 

Sàng đầu lưu Bắc phiến

Giang thượng lạc Nam Trân

TÚ QUỲ

 

Nói đến bòn bon, lẽ ra phải nói rằng bòn bon thuộc họ nào và tên khoa học gọi là gì thì mới đúng bài bản nhưng lại nghĩ rằng đã có những nhà thực vật học làm cái việc ấy nên cái khoản mà mình không rành hay nói đúng hơn là không biết thì cứ "dựa cột" là chắc ăn.

Người Quảng Nam ít ai gọi là bòn bon mà đa số đều gọi là lòn bon, ngay trong câu hát ru em từ thế hệ này đến thế hệ khác cũng cứ:

À ơi lụt nguồn trôi trái Lòn bon

Cha thác mẹ còn nên chịu chữ mồ côi.

Cây bòn bon không phải riêng ở Quảng Nam mới có mà trong miền Nam cũng rải rác ở miệt Tây Ninh nhưng có điều trái bòn bon trong Nam nhỏ mà lại chua tuy không đến nỗi chua "lét" nhưng so với bòn bon Quảng Nam thì thua xa. Quảng Nam có hai nơi có loại quả này là vùng rừng thuộc huyện Đại Lộc và huyện Quế Sơn, tuy nhiên cây bòn bon ở Quế Sơn chỉ có một ít gần các nơi người Thượng ở như Làng Da và Làng Rô. Ở miệt này cứ đến mùa bòn bon là dân các làng như Dùi Chiêng, Bình Yên, Phú Gia cứ mang muối, rựa vào đổi bòn bon đem về ăn hoặc bán. Bòn bon ra trái từng chuỗi chứ không từng chùm như nho, khi chín có màu vàng nhạt như mỡ gà nom rất đẹp. Quả có từng múi, mỗi múi mang một hột bên trong. Hạt bòn bon rất đắng nên khi ăn ta chỉ nhấp nhấp để thưởng thức cái mùi vị thơm ngọt của bòn bon rồi nuốt luôn cả hột bởi vì không tách riêng được múi với hạt. Đặc biệt ở làng Dùi Chiêng có nhiều người đã đem cây bòn bon về trồng ở vườn nhà cùng với các loại cây ăn trái khác. Nổi tiếng nhất là vườn bòn bon của bà Bát Lợi, nhờ chăm sóc, cây xum xuê, cho nhiều quả và ngọt không kém mấy so với bòn bon rừng.

Nếu so với bòn bon Đại Lộc thì Quế Sơn chẳng thấm vào đâu. Đại Lộc từ ngã sông Con đi lên có nhiều cây bòn bon mọc thành rừng và nổi tiếng ngon. Nếu Hưng Yên có nhãn ngon để "tiến" vua - gọi là nhãn tiến = thì quả Nam Trân của Quảng Nam cũng chẳng chịu nhường. Tương truyền rằng khi Đức Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn tức vua Gia Long khi còn chống với Tây Sơn đã có lần nhờ trái bòn bon của Đại Lộc để đỡ đói trên bước đường bôn tẩu. Các ông bà già lão còn nói rằng trong múi của trái bòn bon có một vết bấm đó là vết móng tay của vua khi xưa. Lúc còn bé, mỗi lần ăn bòn bon là tôi cố tìm cho được cái vết ấy để rồi vênh mặt lên kể cho mấy thằng bạn hàng xóm về cái "hiểu biết" của mình. Quả là .. trẻ con.

Như đã nói trên, bòn bon Đại Lộc mọc thành rừng, dân chúng không được vào ra trừ dịp vào hái trái khi bòn bon đã chín. Để bảo vệ khi còn Pháp thuộc - huyện sở tại chọn một người tại địa phương làm chức Quản Viên để coi sóc. Mỗi năm khi đến mùa hái quả Quản Viên hái một ít mang trình quan huyện sở tại, huyện lại đưa về Tỉnh để xem xét, việc làm này gọi là "chạy kiểu". Khi quan Tỉnh thấy bòn bon đã thu hoạch được thì thông sức cho địa phương chọn hái những loại ngon, ngọt, lớn trái đóng vào những giỏ lớn mang ra Huế dâng Vua. Xong việc này, huyện địa phương báo cho Quản Viên biết là thông sức cho xã biết ngày giờ nhập viên để hái quả. Khi được thông báo, dân chúng ai muốn đi hái thì chuẩn bị cơm ghe bè bạn, ngược sông Con để đến nơi ấn định mà Quản Viên đã cho biết. Sông Con là một nhánh sông nhỏ chảy xuống từ Thượng nguồn huyện Thượng Đức và gặp sông Thu Bồn ở Giao Thủy để cùng đổ ra cửa Đại Chiêm. Đã là sông Con nên càng về thượng nguồn càng hẹp dần. Tất cả những ghe thuyền đi hái bòn bon đều dừng lại ở thác Trưởng để đợi lệnh nhập viên, Thác Trưởng không chảy xiết lắm và có một loại cây mọc dưới nước gọi là Rì ngang qua sông từ bờ này đến bờ kia. Có nhiều đàn khỉ cứ nương theo cây rì để qua sông kiếm ăn, do đó dân địa phương mới gọi là Thác Trưởng, thậm chí còn gọi là thác ông Trưởng chỉ vì muốn tránh tiếng khỉ nên gọi né đi. Sở dĩ như thế vì giống họ nhà khỉ vốn liếng thoắng, tọc mạch phá phách nên dân quanh vùng không dám gọi đích danh. Khi không có người trong thuyền, họ hàng nhà khỉ rủ nhau vào lục lạo từ niêu cơm, trả cá, thức gì ăn được thì chúng giành giựt nhau chí chóe, cái gì không bỏ vào mồm được như con dao, cái rựa .. chúng bèn quăng tung cả xuống sông. "Ông Trưởng". Té ra những loại chuyện phá hại nồi cơm chén mắm của dân chúng đều được dân chúng tôn bằng Ông cả. Ông Cọp, ông Voi, ông Trưởng, ông Tí, ông Sói .. và còn rất nhiều "ông" khác nữa.

 

Những người đi hái bòn bon đều chuẩn bị gồng gánh và một cái "xà lắc" còn gọi là cái "gùi" mang sau lưng để đựng khi leo lên cây. Vào giờ Dần, khoảng từ 4 đến 6 giờ sáng, ngày đã định, Viên Quản Viên cho đánh một hồi lại ba dùi trống lớn, tan hồi trống, mọi người ùa nhau vào vườn đề mong vớ được những cây sai quả. Có điều không phải tất cả đều là cây bòn bon mà còn có các loại cây khác mọc chen vào. Vào cái giờ ấy, giờ Dần, trời chưa tờ mờ mà rừng cây lại rậm rạp thì cứ kể như là còn tối như om, nên mọi người sờ soạng và ôm đại một gốc để choán phần rồi chờ sáng rõ mới trèo lên để hái. Vui nhất là những người chưa có kinh nghiệm cứ ôm khư khư một gốc cây đến khi sáng ra xem lại thì chẳng phải là cây bòn bon mà lại là một cây rừng khác. Người có kinh nghiệm khi ôm gốc cây lúc trời còn tối đều gặm vỏ cây nếm thử để xem có đúng là cây bòn bon hay không, nếu chẳng phải thì lập tức tìm một cây khác. Người dân Quảng Nam vốn ăn chắc mặc bền, tính bộc trực có răng nói rứa nhưng rất tốt bụng, có điều khi tranh luận điều gì thì "phe ta" nhất định phải cho ra ngô ra khoai mới chịu. Quảng Nam hay cãi là thế. Những người không may vớ phải những cây không phải là bòn bon dĩ nhiên là không hái được để mang về thì được bà con chia cho mỗi người một ít nên không đến nỗi phải đi không về rồi.

Thế rồi tại các chợ như Ái Nghĩa, Quảng Huế, Phú Thuận, Phường Đông .. đều có bòn bon do các người đi hái được mang về bán. Lại có người không đi hái được thì bỏ tiền mua sỉ để xuôi về Hội An trước là bán kiếm lời sau lại có dịp thưởng thức một vài tô Cao Lầu, Hoành Thánh, hai món nổi tiếng của Faifo hoặc ít ra cũng "làm" một bụng "mì ghe" - mì bán trên sông - để nghe giọng rao ngọt lịm của cô hàng: A .. a .. a .. i .. mì .. hô .. ô .. ông.

 

Đây là chuyện đi hái bòn bon vào những năm xưa dễ chừng non nửa thế kỷ, còn về sau này thì không còn như thế nữa. Thời cuộc thay đổi, rừng núi cũng đổi thay, lớp người trẻ nghe kể lại cứ há mồm, vểnh tai như nghe một Chuyện Cổ Tích. Hiện thời, bòn bon Đại Lộc vẫn còn nhưng không tú mậu như thuở xa xưa. Cây cằn cỗi, trái nhỏ đi, đến mùa quả chín, chính quyền địa phương cho đấu thầu, ai đấu được thì vào rừng thu hoạch rồi lại mang đi Đà Nẵng, Vĩnh Điện, Hội An để bán kiếm lời và cũng kiếm một số bòn bon hoặc để cho bạn bè, biếu xén và cũng để cho con cháu ăn tóp tép .. vui mồm.

 

CUNG DIỄM

 

(Rose KD sưu tầm và chuyển)


website counter