NGHĨ TỪ NHỮNG ĐỐNG
RÁC
Tác giả: Lars
Eighner
Trương Mỹ-Vân dịch
Lời người dịch: Bài
này được dịch từ nguyên tác "My Daily Dives in
the Dumpsters" (1990) của Lars Eighner, văn sĩ Mỹ
sinh năm 1948 tại Texas. Hồi kư này phản ảnh tâm
trạng tác giả sau khi mất việc trợ tá tại bệnh
viện Austin, Texas, và trở thành vô gia cư năm 1988. Ông
sáng tác nhiều nhưng nổi tiếng với quyển hồi
kư "Travels with Lizbeth - Three Years on the Road and on the
Streets", nói về thực trạng vô gia cư trong xă hội
Mỹ. Từ năm 1994, ông là thành viên của Văn-Học-Viện
tiểu bang Texas.
Tôi bắt đầu lượm
rác khoảng một năm trước khi thất nghiệp
và từ đó trở thành kẻ không nhà, lượm rác kiếm
ăn. Tôi không ngại dùng chữ này v́ thật t́nh tôi sống
nhờ vào đồ phế thải của người
khác. Tuy nhiên nếu có thể, tôi vẫn muốn một cuộc
sống thoải mái của những người tiêu thụ
nhưng có lẽ tôi sẽ bớt
hoang phí hơn, một phần do kinh nghiệm
bản thân đă từng lượm rác kiếm ăn của
tôi.
Tất cả áo quần tôi,
ngoại trừ quần jeans, đều do tôi lượm từ
các thùng rác. Những thứ khác như radio, đèn nến,
khăn trải giường, thuốc men, sách vở, một
con búp bê c̣n mới toanh, và tiền lẻ đôi khi khá bộn,
tất cả đều do các thùng rác cung cấp cho tôi. Ngay
cả thức ăn tôi cũng nhặt từ đó.
Tiến
tŕnh của người lượm rác kiếm ăn
thường trải qua những giai đoạn rơ rệt.
Trước hết hắn ta cảm thấy ghê tởm và tự
khinh ghét ḿnh. V́ nhục nhă, hắn không muốn người
khác bắt gặp, do đó hắn hay t́m cách lẩn trốn
hoặc có khi hắn lượm rác ban đêm. Nhưng thật
ra điều này không cần thiết v́ mọi người
theo bản năng đều ngoảnh mặt không muốn
nh́n khi thấy những kẻ lượm rác như hắn.
Đối
với hắn dường như mọi thứ trong thùng
rác đều hôi hám. Mỗi hạt cơm là một con gịi
và dẫu hắn có chùi sạch vết dơ trên nắp hộp,
hắn vẫn không thể nào xóa hết sự tủi hổ,
nhục nhằn của kẻ phải lượm rác kiếm
ăn.
Dần
dà theo kinh nghiệm, hắn vượt qua giai đoạn
đầu. Một hôm hắn t́m được đôi giày
thể thao c̣n mới toanh và vừa chân hắn như in. Hôm
khác hắn t́m được cái máy tính bỏ túi c̣n tốt
và một hộp kem sữa đông lạnh chưa khui. Và hắn
bắt đầu hiểu, th́ ra người ta vứt
đi nhiều thứ c̣n tốt, nhiều món đồ c̣n
mới toanh. Đến giai đoạn này, hắn bắt
đầu bước vào ngă rẽ mới và không bao giờ
nh́n lui nữa.
Hầu
như những người lượm rác tôi quen đều
mắc phải tật muốn giữ tất cả những
ǵ họ t́m được và họ lư luận: "Của
không mất tiền mua, tại sao lại bỏ phí đi thế?"
Dĩ nhiên thái độ này không thực tế và họ sớm
nhận ra rằng chỉ nên giữ lại những ǵ có thể
xài được ngay mà thôi.
Việc
t́m thấy những món đồ c̣n tốt trong thùng rác
đang dần dà trở thành một thứ nghệ thuật
của người dân tỉnh thành. Ngay đến những
người khả kính, có công ăn việc làm đàng
hoàng, một đôi khi cũng bắt gặp vài món đồ
hấp dẫn trong thùng rác, và một số người khác
không phải loại vô gia cư sẵn sàng khoe rằng họ
đă t́m được món đồ này hay vật dụng
nọ trong thùng rác nào đó.
Thế
nhưng lượm rác kiếm ăn là hành động phân
biệt kẻ tài tử với người chuyên nghiệp.
Muốn ăn những thứ lượm được
trong thùng rác mà không nguy đến tính mạng, người
lượm rác phải biết ba nguyên tắc chính. Thứ
nhất là dùng giác quan và sự phán đoán thông thường
để thẩm định giá trị của thức
ăn vừa t́m được. Thứ hai là phải biết
rơ những thùng rác trong vùng và phải đi rảo thường
xuyên. Và thứ ba là phải tự trả lời câu hỏi
"Tại sao người ta lại vứt đi thức
ăn này?"
Có lẽ
những người có nhà cửa và cuộc sống đầy
đủ đă có lần ăn hết nửa cái sandwich mới
chợt khám phá ra miếng bánh ḿ bị mốc, hay uống
nhầm ngụm sữa vào miệng mới biết sữa
đă chua. Những điều này không bao giờ xảy ra
đối với những người lượm rác kiếm
ăn v́ họ luôn luôn nhớ rằng những thức
ăn phế thải kia đều có lư do của chúng.
Tuy
nhiên có những thức ăn c̣n tốt vẫn bị
người ta ném vào thùng rác như thường, thí dụ
như đồ hộp là loại thức ăn tôi thường
gặp nhất, và hầu như ai cũng sẵn sàng ăn
những thứ đồ hộp này mà không cảm thấy
lo ngại quá đáng. Thế nhưng tôi hơi e sợ khi bắt
gặp những thức ăn khô như bánh ngọt, bánh mặn,
ngũ cốc ăn sáng, khoai tây chiên và ḿ khô nếu những
thứ này c̣n nguyên vẹn và không mang dấu vết ô nhiễm
nào. Những thứ trái cây c̣n nguyên vỏ đối với
tôi hoàn toàn đều ăn được, ngoại trừ
quá cũ hay đă úng thối. Nhiều khi chúng bị vứt
đi chỉ v́ có vài chỗ bầm dập nên chỉ cần
cắt bỏ đi là ăn được. Kẹo sô-cô-la
thường bị phế thải chỉ v́ đă nhạt
màu v́ chất cô-cô bị biến thể nhưng hoàn toàn vô hại.
Có lần
tôi lượm bánh pizza ở thùng rác đàng sau tiệm bán
pizza của người Ư. Tôi thường cẩn thận
khi gặp những thức ăn nấu sẵn, nhưng
trong trường hợp này tôi biết mấy giờ
đêm tiệm đóng cửa, và v́ thế tôi đến
đó đúng lúc người công nhân cuối cùng vừa ra về.
V́ những
người thợ làm việc ở tiệm này thiếu
kinh nghiệm nên bánh pizza họ làm thường không đúng
mẫu khách hàng gọi, hoặc họ đun ḷ sai nhiệt
độ, hoặc để nguội khách hàng không mua. Những
chiếc bánh này tuy không bán được nhưng họ vẫn
cho vào hộp v́ hằng đêm người chủ tiệm
đếm số hộp trống c̣n lại để kiểm
kê hàng hóa trong tiệm. Sau đó những chiếc bánh không
hoàn hảo này đều bị phế thải, và thế
là mỗi đêm tôi luôn luôn có sẵn bữa ăn tối bằng
bánh pizza mới làm, đôi khi c̣n nóng hổi!
Trong
vùng tôi thường lượm rác có nhiều sinh viên đại
học con nhà khá giả v́ thế không phải t́nh cờ tôi
chọn vùng này mà v́ những thùng rác ở đây chứa nhiều
món đồ có giá trị.
Đám
sinh viên này thường vứt đi nhiều thứ thật
tốt, trong đó có thức ăn, nhất là vào mỗi cuối
học khóa lúc trường đóng cửa và sinh viên nghỉ
hè. V́ thế tôi thường để ư nhớ những
ngày lễ và đầu khóa học của trường v́
đây là những cơ hội tốt cho tôi.
Tôi
thường nhặt được nửa lon bơ đậu
phụng c̣n ăn được hoặc thỉnh thoảng
tôi gặp một miếng phó-mát tuy bị mốc vài chỗ
nhưng không làm tôi lo ngại bằng một miếng phó-mát
c̣n nguyên vẹn lại bị vứt đi trong trường
hợp này. Món tôi thích nhất là những lọ yogurt c̣n
nguyên tuy đă quá hạn một vài ngày nhưng vẫn c̣n
ăn được.
Thường
tôi tránh những thức ăn ngoại quốc mà tôi không
quen thuộc v́ tôi không biết những thức ăn này khi
c̣n tốt mùi vị như thế nào th́ làm sao tôi đoán
được khi chúng bị phế thải.
Mặc
dầu hết sức cẩn thận nhưng tôi vẫn bị
đau bụng ít nhất mỗi tháng một lần và tôi
không muốn tỏ ra quá lạc quan v́ nghề lượm
rác kiếm ăn cũng có những yếu điểm của
nó.
Tuy tôi
quen thuộc với số thùng rác trong vùng và cảm thấy
như chúng thuộc về tôi, tôi sẵn sàng chia sẻ với
những người lượm rác khác. Tôi chỉ ghét nhất
đám bươi thùng rác để kiếm lon bia và hộp
thiếc đựng nước ngọt.
Có lần
tôi thử đi nhặt lon bia với một người bạn,
và mặc dầu đi suốt ngày nhưng chúng tôi chỉ
kiếm được nhiều nhất là vài đô-la; trong
lúc đó tôi có thể nhặt được những thứ
cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của tôi từ
những thùng rác này. Và v́ thế những kẻ lượm
lon bia và lon nước ngọt thường là những kẻ
nghiện rượu và x́-ke, cần tiền lẻ để
mua ma-túy và mua rượu.
Thật
t́nh không phải tôi không muốn những người nghiện
rượu cùng lượm rác với tôi nhưng v́ họ
có tật hay bới tung những thùng rác này làm xáo trộn
rác rưới bên trong cũng như làm rơi văi rác rưới
tứ tung bên ngoài. Đám người lượm rác kiếm
ăn như chúng tôi hiếm khi lịch sự với nhau
nhưng hầu như tất cả đều ngầm hiểu
một ước lệ chung là để dành những
đồ vật ḿnh không cần cho những người
khác, thí dụ một đôi giày c̣n mới, áo quần hoặc
đồ ăn hộp. Những người thực thụ
lượm rác kiếm ăn thường không muốn phí
phạm đồ vật c̣n tốt nên những ǵ không cần
họ đều để riêng một bên cho những
người lượm rác khác. Trái lại, những người
nghiện x́-ke thường bới tung mọi thứ trong
thùng rác khiến những món đồ c̣n tốt như giày
dép hay áo quần thường bị dồn xuống tận
đáy và lẫn lộn với những thứ rác rưới
hôi tanh khác. Những người này thường chỉ muốn
kiếm tiền nên họ không cần biết ǵ ngoài lon bia
và lon nước ngọt và chẳng cần đếm xỉa
ǵ đến những thứ khác như đồ ăn hộp
hay những vật c̣n dùng được.
Những
người nghiện x́-ke này thường lượm rác ở
các thùng rác trước tư gia và thường làm rơi
văi rác rưới tứ tung khiến cả đám chúng tôi bị
mang tiếng xấu lây. Thế nhưng điều tôi phản
đối nhất là lượm rác ở các thùng rác tư
gia v́ dường như xâm phạm đến đời sống
riêng tư của người khác.
Mặc
dầu lượm rác ở các thùng rác công cộng nhưng
tôi thường bắt gặp những món đồ riêng
tư như sổ trương mục ngân hàng, hóa
đơn, thư từ, thuốc men, và các giấy tờ
cá nhân khác. Tôi thường không muốn nghĩ đến
đời sống riêng tư của chủ nhân những
món đồ tôi nhặt được v́ tôi nghĩ làm
như vậy trái đạo đức, mặc dầu khái
niệm đạo đức đem áp dụng trong trường
hợp này thật không khỏi kém phần mỉa mai.
Đôi
khi một vài món đồ tôi t́m được là chứng
nhân của những câu chuyện thầm kín riêng tư. Có lần
tôi bắt gặp trong một bịch giấy nhỏ vài cái
"áo mưa" (condom), nhiều ống thuốc diệt
trùng, một hộp thuốc ngừa thai chưa dùng hết,
và cạnh đó là bức ảnh một người thanh
niên đă bị xé vụn thành nhiều mảnh. Chủ nhân
của những món đồ này rơ ràng đă dứt khoát với
anh chàng nọ và có lẽ muốn dứt hẳn chuyện gối
chăn.
Những
đồ vật t́m được trong các thùng rác thường
là kết quả của những câu chuyện buồn
như những chú gấu nhồi bông bị phế thải,
h́nh đám cưới bị xé tan thành trăm mảnh, cũng
như nhật kư và lưu bút kỷ niệm. Đám sinh viên
thường vứt đi những bài luận văn của
họ, và tôi không ngờ những bài luận như thế
lại có thể được điểm "A".
Nghề
lượm rác kiếm ăn thường có những ngạc
nhiên đầy thích thú v́ không ǵ khoái bằng t́nh cờ t́m
được món đồ ḿnh đang muốn. Sau mười
năm làm việc cho chính phủ và trở thành một con ốc
vô danh trong guồng máy vĩ đại, tôi thoải mái khi
thấy nỗ lực cá nhân ḿnh được đền
đáp. Dĩ nhiên tôi vẫn muốn có công việc đàng
hoàng, nhưng hiện tại tôi không đến nỗi nào.
Kinh
nghiệm lượm rác cho tôi hai bài học quư giá. Thứ
nhất là chỉ giữ lấy những ǵ tôi cần v́ những
thứ tôi không cần thiết đối với tôi đều
vô dụng mặc dầu chúng có giá trị đến
đâu. Ở đây tôi muốn nói đến hữu dụng
và vô dụng trong ư nghĩa tổng quát của nó, v́ nghệ
thuật đối với tôi dĩ nhiên luôn luôn có giá trị.
Bài học
thứ hai là vật chất chỉ có giá trị tạm thời
thôi. Tôi không hàm ư rằng tư tưởng là bất tử
nhưng dù sao tư tưởng cũng có giá trị lâu dài
hơn vật chất. Những thứ tôi lượm
được từ những bức thư t́nh đến
những con búp bê của bao nhiêu người phế thải
đă nhắc nhở tôi bài học này. Đă bao nhiêu lần
tôi bị mất hết đồ đạc trong các chuyến
du lịch, chỉ c̣n bộ quần áo tôi đang mặc, v́
thế bây giờ tôi không thể nhặt được món
đồ ǵ mà không khỏi nghĩ đến ngày tôi phải
vứt nó. Và đối với tôi đây là một thái độ
không hẳn hoàn toàn nghịch lư v́ những món đồ tôi
đang dùng hiện nay đều do người khác phế
thải.
Tôi cũng
nhận thấy không c̣n ham muốn chiếm hữu vật
chất như trước nữa v́ tôi biết ngoài kia luôn luôn có những thứ
tôi cần. Chung quanh tôi trái lại
c̣n đầy dẫy những kẻ chạy theo tiền của,
lẫn lộn vật chất với chính tâm linh họ, và
hằng đêm họ xem truyền h́nh, đổi từ
đài này sang đài nọ nhưng không hề biết họ
đang làm ǵ.
Tôi thấy
thương hại họ.
LARS EIGHNER
TRƯƠNG MỸ-VÂN
dịch từ "My Daily Dives in
the Dumpster" đăng trên tạp chí Harper's.
(Diễm Xưa sưu tầm và chuyển)