Người CỰU CHIẾN BINH già
(VĨNH TOÀN)
Rồi đêm dài cũng hết, liếc
thấy đă gần 11 giờ 30, tôi thu dọn lại những
việc riêng của ḿnh để sửa soạn ra băi
đậu, đóng sổ và kiểm tiền cho mấy
người sắp hết ca về nghỉ.
Trời khuya vắng lặng, tất
cả chuyến bay đến đều đă đáp xong.
Trong băi đậu, một hai nhóm khách nhận hành lư trễ
đang rảo bước t́m về xe của họ với
hành lư kéo lê rồn rột theo sau. Áng chừng phải mất
10 phút cho đám khách nầy lấy xe và lái ra cổng trả
tiền, tôi thong thả rảo bước ṿng quanh mấy
trạm xem lại cửa nẻo. Mây vần vũ, gió lạnh,
thế nào đêm nay cũng mưa to và bên trong booth, tức
là cái trạm của người thâu tiền, máy móc và các hộc
tiền sẽ ướt sũng nếu cửa để
hở, v́ khu vực phi trường trống trải, gió lồng
lộng, chỉ cần mở hé cửa chừng một
ngón tay, nước mưa sẽ vung văi đầy trên các
máy móc tính tiền và hệ thống đó hôm sau ắt gặp
đủ thứ trở ngại.
Sau khi tắt hết các đèn chiếu
sáng lối ra, cảnh vật trở nên âm u, chỉ c̣n
đèn trong booth hắt xuống thành vệt dài trên nền
xi măng xám xịt. Tôi chợt giật nẩy người
khi suưt đụng vào một đống đen thui đang
ngồi bệt xuống thềm, dựa lưng vào thành sắt
đằng sau cái booth, thở ph́ pḥ, "hắn" phải
mệt nhọc lắm mới ngồi đại xuống
thềm xi măng lạnh lẽo đang ướt đẫm
sương đêm. Một người da đen, trong chiếc
áo bông bù xù, không rơ đàn ông hay đàn bà, đội chiếc
mũ vải có vành nhỏ chung quanh như của mấy
người lính biệt kích năm xưa hay đội, trời
tối quá không nh́n được rơ mặt, tôi e ngại
bước lui lại, hỏi:
- Sao "you" lại ngồi ở
đây? You có cần giúp ǵ không?
Hơi thở ph́ pḥ đáp lại:
- Tôi không t́m được xe của
ḿnh ..
rồi ngưng một chút như
để lấy hơi thêm, hắn cáu kỉnh:
- Cái phi trường chết tiệt
của mấy ông rắc rối quá, làm người ta lẫn
lộn lung tung!
- Không đâu ..
Tôi nói
và chỉ vào hàng xe đang tiến đến gần cổng
trả tiền, tôi bảo hắn:
- You có thấy mấy người
kia không, họ t́m ra xe ḿnh rất dễ dàng.
Hắn nói gần như lẩm bẩm
trong miệng:
- Tôi không giống như họ.
Dĩ nhiên rồi, tôi thầm nghĩ,
và để chấm dứt đôi co, tôi hỏi ngay:
- Xe you đậu ở đây bao lâu
rồi?
- 7 ngày.
- OK, nhưng you có chắc là đậu
trong băi nầy không, phi trường c̣n có nhiều băi đậu
khác nhau nữa đó.
Hắn im lặng, tỏ vẻ phân
vân, tôi hỏi tiếp:
- Vé gởi xe của you màu ǵ?
- Chẳng biết nữa, nó ở
trong xe. Cái xe th́ màu xanh, dark blue, Chevy 2000.
Sợ hắn nổi giận tôi
không dám nói là ở trong nầy, dark blue Chevy 2000 có cả
trăm chiếc như thế.
- Thôi cho tôi bảng số xe, tôi sẽ
t́m ra nó nằm ở đâu rồi chỉ đường
cho you đến đó, OK?
- Bảng số xe ư?
- Vâng, chúng tôi kiểm kê xe hằng
đêm, bằng bảng số. You có vẻ không nhớ số
xe ḿnh hả?
- No way ..
Những ngày đầu mới vào
làm ở đây, tôi rất ghét những người chỉ
có bảng số xe của ḿnh
mà cũng không nhớ được, nhưng sau một thời
gian, tôi mới hiểu ra là họ có thể có nhiều xe,
và thay đổi xe luôn chứ không phải chỉ đi có
một chiếc, và cũng không phải khi nào xe chạy hết
nổi mới đổi chiếc khác như ḿnh nên tôi mới
hết thấy bực ḿnh về chuyện đó, c̣n giờ
đây, một người mà sức khỏe tàn tệ
như thế nầy th́ việc không nhớ được
số xe ḿnh cũng là điều dễ hiểu, không
đáng phải thắc mắc lắm.
Nh́n đoàn xe ra cổng đă gần
hết, tôi sắp phải làm việc nên bảo người
da đen:
- Gọi phone về nhà you xem có ai nhớ
được số xe không rồi cho tôi hay, tôi phải
đóng sổ cho người cashier nầy ra về đă rồi
quay lại với you sau nhé.
Hắn nh́n tôi lo lắng:
- C̣n ai ở nhà nữa đâu, chỉ
có vợ tôi mà cũng đang ở đây với tôi.
- Thế th́ tôi chịu thua luôn, làm
sao giúp you được.
Rồi nh́n hắn ái ngại, tôi nói
thêm cầu may:
- Trước khi đi, you ráng t́m xem
có cái thứ giấy ǵ có thể có số xe ở trong
đó không, giấy đăng bộ xe của DMV, giấy
mua bảo hiểm xe .. cố gắng lên, đó là cách sau
cùng để có thể giúp ông được đấy -
bây giờ th́ tôi biết hắn là đàn ông rồi.
Hắn lồm cồm đứng dậy,
một người đàn ông đen, mặt mày thô kệch,
râu bạc lún phún đầy 2 bên má, chắc cũng phải
6, 70 tuổi hoặc hơn nữa, bước chân nặng
nề đến bên quầng sáng của ánh đèn, khó
khăn lắm mới móc ra được cái ví dày cộm,
rồi lần lượt lôi ra các thứ giấy tờ.
Tôi vừa làm việc ḿnh vừa liếc nh́n giùm cho hắn,
thấy cái giấy in chữ xanh quen thuộc của DMV, tôi
thở phào: Nó ḱa. Nhưng không phải, đó chỉ là cái
giấy chứng nhận người đàn ông là handicap
thôi, một người thương tật, thảo nào
đi đứng khập khiễng,
chậm chạp. H́nh như một bàn tay cũng không sử
dụng được, chỉ để chận cái ví cho
tay kia lục lọi giấy tờ mà thôi. Tôi ái ngại nói
với bà cashier người Mễ cũng đang theo dơi câu
chuyện:
- Nầy Rosa, thôi bà đếm tiền
đi nhé, tôi phải giúp hắn một tay đây.
- OK, dĩ nhiên, trông "him" cũng
đáng thương quá, nhưng bà níu tay tôi nói nhỏ: mà ông
coi chừng trễ giờ của tôi nhé, gần 12 giờ rồi
đấy.
- Không sao đâu Rosa, tôi quay lại với
bà ngay.
Trong cái mớ giấy tờ hỗn
độn của gă đàn ông da đen nầy, tôi thoáng thấy
được một loại giấy làm tôi rất xúc
động, mà nếu không nh́n thấy nó, chưa chắc
tôi đă hết sức giúp đỡ ông lúc ấy, loại
giấy đó là cái thẻ DAV Goldcard Membership. DAV là Disabled
American Veterans, Cựu chiến binh tàn phế Mỹ. Không biết
ông ta có phải là một cựu chiến binh hay không,
nhưng đă đóng góp giúp đỡ cho hội CCB nầy,
đóng góp khá lâu và có thể là khá nhiều nên mới có thẻ
Goldcard như thế, chia sẻ tiền trợ cấp tàn
phế của ḿnh cho những người tàn phế khác,
thật cảm động, ông già da đen nầy cao
hơn những ǵ tôi đă đánh giá về ông, "đừng đánh giá một con
người qua bề ngoài của họ", bài học
nầy đă được dạy tự bao giờ mà cứ
vấp phải hoài. Tôi thấy ngượng, không dám nh́n vào
mặt ông trong lúc ông cứ nh́n tôi chờ đợi. Tôi nhẹ
nhàng nói :
- Giữ chặt những thứ nầy
ông nhé, không th́ gió thổi bay mất.
Sau khi bà Rosa xong việc và rời khỏi
booth, thấy ông già có vẻ tin cậy ḿnh và thân thiện
hơn, tôi hỏi:
- Vợ ông đang đợi ở
đâu?
- Trước cửa thang máy tầng
3, tôi cứ ngỡ là ḿnh đậu xe ở đó.
- Được rồi, ông có nghĩ
là c̣n loại giấy tờ nào liên quan đến chiếc
xe nữa không?
Ông già lục
lọi thêm nữa rồi đưa ra một cái giấy ..
chỉ có số VIN.
Thấy
ông t́m giấy tờ một cách quá khó khăn và chậm chạp,
tôi hỏi:
- Tôi có thể t́m giúp ông được
không?
- Why not? .. please!.
Cầm lấy cái ví và mớ giấy
tờ hỗn độn vào trong cho khỏi bị gió thổi
bay, tôi cẩn thận xếp cất lại những giấy
tờ không cần thiết, và do đó ngỡ ngàng thấy
được thêm một phần trái tim bao la nữa của
ông lăo tàn tật, đó là một phong b́ có in sẵn địa
chỉ của PVA, và xuyên qua ánh đèn sáng trắng, tôi thấy
đă có một tấm check nằm sẵn ở bên trong. Tấm
check kư bao nhiêu tiền th́ tôi không biết, nhưng PVA và cái
logo có h́nh người ngồi xe lăn th́ với tôi không lạ
ǵ, đó là Paralyzed Veterans of America, Cựu chiến binh bại
liệt Hoa Kỳ. Hoá ra ông già đen đúa xấu xí nầy
đây là ân nhân của cả 2 hội Cựu chiến binh Mỹ.
Tôi không biết rơ lắm những hoạt động của
2 hội nầy v́ không bao giờ đọc hết những
giấy tờ của họ gởi, nhưng tôi biết họ
là những cựu chiến binh, phục vụ giúp đỡ
lại cho những cựu chiến binh khác yếu đuối,
tàn phế hơn ḿnh, hay nói theo cách những người Việt
ḿnh hay nói, tàn nhưng không phế.
Chúng tôi đứng nh́n nhau, đầy
thiện cảm. Tôi nh́n ông, và không giấu diếm sự
ngưỡng mộ nhưng không dám nói ra v́ ḿnh coi lén giấy
tờ riêng tư của người khác, c̣n ông th́ nh́n tôi
tin cậy, nghĩ là chắc tôi sẽ t́m ra được
chiếc xe của ông, tuy vậy, cuối cùng vẫn không có
một chi tiết ǵ hơn về chiếc xe của ông cả,
tôi quyết định phải chở ông đi ṿng quanh các
băi đậu để cho ông nh́n từng chiếc một,
và như vậy tôi có thể về nhà trễ hơn thường
ngày chừng nửa giờ.
Tôi bảo ông gọi cho bà vợ, dặn
cứ chờ tại chỗ và hỏi bả xem có nhớ
được ǵ thêm về việc đậu xe hay không rồi
cho biết khi tôi trở lại, v́ tôi phải vào văn
pḥng nộp hết báo cáo của
cashier mới chấm dứt nhiệm vụ của
ḿnh hôm nay. Hơn 20 phút sau, quay lại với xe riêng của
ḿnh th́ bà vợ của ông cũng đă đến đó, với
mớ hành lư hỗn độn. Bà cũng là một người da đen, nhỏ con, nói năng nhỏ
nhẹ dịu dàng thật khác hẳn với anh chồng .
Họ
tự giới thiệu: Paul và Helena, trong lúc chúng tôi đă
yên vị trên xe.
- Gọi
tôi là Tony ông bà nhé.
- Okedo.
Paul bật ra tiếng OK mà những
người lính hay dùng làm tôi nghe mà xúc động, tưởng
như nghe bạn ḿnh đang nói trên tần số vô tuyến
như những ngày nào.
Họ có vẻ rất yên tâm, thoải
mái hẳn ra, c̣n tôi rất vui được có dịp giúp
đỡ những người có tấm ḷng tốt như
họ.
Paul không phải là người vui
chuyện kể lể ba hoa như những người da
đen khác, ông nói ít giọng trầm trầm có lẽ tại
tuổi già, tôi khơi chuyện của ḿnh trước mà cũng
có ư ngầm t́m hiểu thêm về Paul :
- Ở tuổi của ông chắc có
nghe nói đến chiến tranh Việt Nam, quê hương của
tôi đó Paul, tôi rời quê sang đây đă 15 năm .
Cả
2 người im lặng hồi
lâu, rồi Paul cất giọng khàn khàn.
- Tôi đă ở đó .. đơn vị tôi đóng đâu
đó trên vùng cao nguyên, tên là An Khê.
- Thật thế ư, c̣n tôi th́ ở
Pleiku, không xa nơi đó là bao nhiêu, chắc ông cũng
thường được yểm trợ từ phi
trường Pleiku chứ.
- Vâng, dĩ nhiên .. hầu như mỗi
ngày, và rồi một lần
.. chuyện chết tiệt ấy xảy ra cho tôi, họ
mang tôi về Mỹ, cưa cụt chân, và để tôi rời
quân đội từ đó, năm 1967.
Sợ
nhắc đến chuyện cũ làm ông không vui, tôi hỏi
qua hướng khác :
- Năm 67, chắc ông c̣n trẻ lắm,
lúc ấy đă có bồ chưa ?
- Vào ngày giải ngũ, tôi vừa
đúng 20. Helena c̣n ở lại Việt Nam, nàng là một y
tá, về Mỹ năm sau rồi lại phải sang Âu châu.
Tôi trở lại trường Đại học, nhưng
không học hành được ǵ, chỉ tối ngày biểu
t́nh phản chiến, rồi nghiện ngập, chán chường,
suưt tự tử. May sao đó là lúc Helena trở về ..
Paul không biết diễn tả ǵ
hơn nữa, chỉ chậm răi gật gù, nói thêm nhè nhẹ
:
- Nàng là một thiên thần, đối
với tôi.
- Dĩ nhiên rồi, tôi thấy bà rất
dịu dàng đối với ông ..
và muốn nói thêm với Paul : Ông cũng
là một thiên thần, tuy rằng đă găy cánh, nhưng vẫn
cứ là một thiên thần đối với những
người bất hạnh khác. Nhưng tôi đă yên lặng.
Paul chắc là loại người không thích những lời
khen.
Chạy ṿng chầm chậm qua các
dăy xe, chúng tôi lại nói chuyện, Paul và Helena
có vẻ thân mật, tin cậy hơn, họ kể
thêm về cuộc sống gia đ́nh, kể về tiểu
bang Alabama, nơi ông và Helena lớn lên. Không văn hoa màu mè,
Paul thành thực kể lại nỗi đau của những
người lính trở về, nhất là những cựu
chiến binh da đen như ông, những người nổi
loạn bị cảnh sát đánh đập, dân t́nh cũng
hất hủi, đến nỗi ông phải bỏ xe
lăn tập đi nạng, rồi phải bỏ nạng
đi bằng chân giả, cắn răng nuốt xuống nỗi
đau vừa tâm hồn vừa thể xác để đi
học, cố kiếm lấy mảnh bằng chỉ để
làm giáo viên thôi, v́ một bàn tay ông cứ tê liệt dần
và rồi th́ không c̣n cử động mấy ngón tay
được nữa ..
Tôi cố gắng trở lại cái
điều mà tôi muốn hỏi :
- Là một cựu chiến binh, hẳn
ông hiểu họ nhiều lắm nhỉ ?
- Đương nhiên rồi, tôi hiểu
họ lắm ông Tony ạ, v́ tôi đă từng là họ. Làm
xong bổn phận của một người lính, cho dù có
là một anh hùng đi chăng nữa, cụt chân trở về,
cởi trả quân phục, họ như những con chim bị
vặt trụi hết lông, không có ngay đến lớp áo
để tự vệ, mà cũng không thể giấu ḿnh
hoài trong tổ được, phải chui ra ngoài để
kiếm ăn nữa chứ ..
.. giọng ông vẫn trầm trầm
như thương cảm cho những người cựu
chiến binh nào đó, không hề có ẩn giấu một
chút ǵ cay đắng cho chính số phận của ḿnh ..
- Tôi
luôn luôn cố gắng làm một cái ǵ cho họ, nhưng có
làm được ǵ nhiều đâu, lâu lâu mới giúp
được một món quà nhỏ trong cái trợ cấp
của ḿnh, thế thôi.
- Thế là đă nhiều lắm
đối với ông rồi, Paul ạ. Càng thiếu thốn
sự chia sẻ của ông mới càng cao quí. Thế bây giờ
ông có làm một công việc ǵ thêm nữa không - tôi nói nửa đùa nửa thật
- chỗ chúng tôi đang c̣n cần
nhiều cashier lắm đó.
Paul b́nh thản trả lời :
- Làm ǵ c̣n th́ giờ nữa ông, mẹ
của Helena cảm ơn Chúa bà vẫn c̣n sống, Helena th́
dạy học cho lũ trẻ và làm việc ở nhà thờ,
tôi phải ở nhà chăm sóc bà cụ một buổi, c̣n
buổi chiều vào Bệnh viện quân đội giúp việc
thiện nguyện. Chúng tôi sống tạm đủ, có cần
tiền vào việc ǵ nữa đâu ..
T́m được chiếc xe của
Paul không khó lắm, tôi phụ giúp 2 ông bà chuyển đồ
đạc sang xe họ, khi tôi vừa đóng nắp thùng xe
th́ 2 người đă đứng sát sau lưng. Trong tay cầm
sẵn mấy tờ giấy bạc, bà Helena trang trọng
nói :
- Cảm ơn Tony, nếu không có ông
giúp th́ đêm nay chúng tôi không biết sẽ ra sao trong cái phi
trường rộng lớn nầy, chúng tôi hết sức
biết ơn sự giúp đỡ của ông mặc dù ông
chưa bao giờ biết chúng tôi, Chúa sẽ phù hộ cho
ông .
Hít một hơi dài trấn tĩnh,
tôi giữ chặt trong tay ḿnh những bàn tay đen đúa của
họ, nói chậm răi :
- Hai người đừng bận
tâm, tôi chỉ làm công việc thường ngày của ḿnh
thôi. Vâng, tôi chưa hề gặp
ông bà lần nào, nhưng ông Paul đây cũng đâu có biết
một người Việt Nam nào mà ông vẫn sang chiến
đấu cho quê hương chúng tôi, đổ máu trên đất
nước chúng tôi, và cuối cùng đă bỏ lại những
phần thân thể trên đất nước không phải
là của ông mà là của chúng tôi, v́ vậy tôi mới là
người phải nói lên những lời cảm tạ và
biết ơn quí bạn về việc đó ..
Paul hẳn là không thích nghe người khác ca tụng
ḿnh, ông lắp bắp :
- Thôi .. thôi Tony, đó chỉ là làm
nhiệm vụ thôi, đă ở trong quân đội th́ ông cũng
biết rồi.
- Vâng, cứ cho là như vậy, c̣n
bây giờ th́ sao, khi ông vẫn tiếp tục giúp đỡ
đồng đội, những cựu chiến binh
thương tật khác. C̣n có nhiều người như
ḿnh nữa, ông Paul ạ, nghĩa là những cựu chiến
binh như chúng ta, nhưng họ có làm như ông đâu. Khi
nh́n thấy tấm thẻ DAV và PVA của ông, tôi kính phục
tấm ḷng của ông lắm, mặc cho chuyện ǵ đă xảy
ra, ông vẫn không quên các quân nhân, các đồng đội,
ghét chiến tranh nhưng yêu mến chiến binh ông nhỉ.
Ông bà rất xứng đáng được Chúa phù hộ và
bảo vệ. Số tiền nầy nếu ông bà muốn
cho tôi th́ cho phép tôi đóng góp vào phần giúp đỡ của
ông bà cho họ nhé.
Thôi đă quá khuya rồi, xin tạm
biệt, chúc hai ông bà lên đường b́nh an.
Cả hai người đều xúc
động, họ cầm tay tôi khàn khàn nói tiếng cảm
ơn, trong cái ôm vai của những người không quen biết
nhưng đă hiểu nhau, tôi thấy mắt Paul đẫm
ướt, nhưng chỉ một bên thôi, c̣n con mắt bên
kia vẫn trong sáng, vô hồn. Ô, hoá ra những ǵ mà Paul bỏ
lại trên quê hương tôi năm nào, không phải chỉ
có một bàn tay, một bàn chân mà c̣n có thêm một con mắt
nữa.
Ông Paul ơi, cơ thể ông
thương tổn như vậy mà tấm ḷng th́ bao la vô
cùng. Xin chân thành cảm ơn ông.
VĨNH TOÀN
(ThuyNguyen
sưu tầm, Vương H. chuyển)