12C3 - KHÔNG MỜ NHẠT
(Tác giả: Nguyễn Trung Tây)
12C3 là chuyện một lớp học thời
đổi đời xẩy đàn tan nghé từ 1979, miểng
văng bốn lục địa, từ Sàig̣n tới San
Jose, Bắc Úc rồi Bắc Âu. Tác giả đă nhận giải
Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2010. Ông là một
Linh mục ḍng truyền giáo Ngôi Lời thuộc tỉnh
ḍng Chicago, đang ở Alice Springs, lo cho thổ dân vùng sa mạc
đất đỏ Úc Châu.
* * *
Vẫn là một điều không hiểu, bởi từ bao
lâu nay có những người tôi đă gặp gỡ trên một
khoảng đường đời, nhưng khuôn mặt,
tính t́nh, và ngay cả tên tuổi xuất hiện trong tâm trí
mờ nhạt. Nếu phải nói về họ, thông thường
tôi ấp úng ngớ ngẩn, bởi không nhớ. Ngược
lại, có những người tôi nhớ dáng đứng,
lời nói; tên của họ tôi nhớ chính xác, đủ họ
và tên.
Những người mờ nhạt, có một thời tôi
nghĩ bởi ḿnh không có nhiều kỷ niệm. Nhưng
thấy cũng không đúng lắm, bởi có người
tôi đă chia sẻ một đoạn đường
năm năm chung trường, hay mười năm hàng
xóm, rơ ràng một khoảng thời gian dài; nhưng quên vẫn
quên! Riêng những người tôi nhớ, có người chỉ
gặp khoảng ba năm thôi, nhưng nhớ, nhớ hoài,
tôi muốn nói tới bạn học lớp 12C3 năm 1979 của
Nguyễn Thượng Hiền; hoặc đặc biệt
hơn chỉ vỏn vẹn một năm, nhưng sau
hơn ba mươi năm không gặp mặt, mở miệng
ra tôi vẫn đọc đúng họ và tên, tôi muốn nói tới
Thầy Cung Vĩnh Viễn của 12C3 Nguyễn Thượng
Hiền.
Lớp 12C3 của chúng tôi học chung với nhau từ 10C3
năm 1976. Tôi mù mờ với tên và khuôn mặt giáo viên dậy
Văn lớp 10 và 11. Nhưng đầu năm lớp 12,
chúng tôi học Văn với Thầy Cung Vĩnh Viễn.
Ngoài dậy Văn, Thầy c̣n là Giáo viên Chủ Nhiệm
12C3. Tôi không hiểu các bạn khác th́ sao, nhưng Thầy xuất
hiện nổi bật trong tôi với hàng râu mép, giọng Bắc
ấm áp, dáng phong trần với điếu thuốc lá
lăng đăng khói trắng, đặc biệt Thầy giảng
bài rất hấp dẫn.
Năm 77, 78, 79, C là lớp chuyên Toán Lư. Học sinh khối C
thông thường không thích Văn. Nhưng lớp 12C3 mê Thầy
Cung Vĩnh Viễn, đặc biệt nhóm con trai, chuyên viên
cúp học giờ Văn lớp 10 và 11C3. Nhưng lên lớp
12C3, tự nhiên tên nào cũng nghiêm chỉnh ngồi học
giờ Văn, bởi thầy dậy Văn là Thầy Cung
Vĩnh Viễn.
Tôi không biết Thầy có hấp lực ǵ để
đám con trai 12C3 không bỏ lớp đi hoang nữa.
Nhưng giờ ngồi nhớ lại, tôi đoán có lẽ
đám con trai tụi tôi khoái Thầy bởi nơi Thầy
có một chút lăng mạng của Đồng Xanh (The
Greenfield), "Đồng xanh là chốn
đây, thiên đàng cỏ cây, là nơi bầy thú hoang
..", một chút lạ lùng Lê Uyên Phương, "Theo em xuống phố trưa nay theo ḍng nước
cuốn lêu bêu ..", một chút triết lư hiện
sinh Jean Paul Sartre trong Buồn Nôn, muốn đạp đổ
tất cả .. Đặc biệt nhất, những khi
"phải" giảng những điều "không thật",
Thầy không bao giờ nh́n tụi tôi, nhưng quay lên bảng,
giả vờ viết một vài chữ ǵ đó. Tụi tôi
thấy hết. Và tụi tôi nói với nhau về những
cái quay lưng đặc biệt của Thầy. Cứ thế
.. Cuối cùng Thầy lấy được niềm tin của
chúng tôi, đặc biệt đám con trai.
Tuổi 16, 17, con trai chúng tôi cần những thần tượng
để nh́n lên, để bám lấy và để tin
tưởng. Nhưng sau một cuộc bể dâu, chúng tôi mất
Sài G̣n và thần tượng. Và riêng niềm tin, chúng tôi ngỡ
ngàng nh́n thấy cha anh bị dối lừa dẫn vào trại
tập trung cải tạo. Thời năm 79 phía Bắc mặt
trận biên giới nổ ra; phía Tây Nam lính Khờ Me đỏ
với mă tấu, súng AK Trung Cộng lăm le đợi chờ
chúng tôi, tuổi thanh niên 18. Nhiều người bạn
cùng thời đă bỏ xác tại chiến trường
Cam Bốt, di ảnh để lại trên bàn thờ
hương khói. Thời năm 79 c̣n là thời bạn bè
thân thiết âm thầm lên thuyền vượt biên, tối
qua c̣n uống càfe với nhau, mấy ngày sau, biệt
tăm. Có tên tới đảo, có tên bỏ xác đáy biển.
Sống trong hoàn cảnh đặc biệt của một
giai đoạn bể dâu, Thầy Viễn hiện ra như
một luồng gió thổi hây hây nhẹ vào đêm hè lửa
đỏ! Thầy trở thành một h́nh ảnh, một
niềm tin để chúng tôi trông lên, bám vào. Sau giờ học,
đám con trai bên tách ly càfe hút thuốc lá Ara Con Két và Hoa Mai
nói rất nhiều về Thầy, đặc biệt ḷng tự
trọng của một kẻ sỹ! ..
Tuổi 17, 18 cũng là tuổi nổi loạn. Sáng hôm
đó chúng tôi đứng bên hành lang cửa lớp giờ
ra chơi, một tên bật miệng đề nghị 12C3
bỏ lớp dẫn nhau đi chơi. Không ngờ, cả
bọn gật đầu đồng ư. Sau những âm thầm
bàn luận, sáng hôm đó, chúng tôi cũng vẫn mang sách cặp
tới trường, nhưng cả lớp, gái cũng
như trai, đứng tụ tập ngay trước cửa
trường. Chúng tôi ồn ào nói với nhau và "thông
báo" với các bạn học của trường bản
tin 12C3 Nguyễn Thượng Hiền hôm nay bỏ học!
Tiếng chuông giờ học buổi sáng reo vang sân trường
cũng là giây phút chúng tôi lái xe đạp dẫn nhau bỏ
đi. Cả lớp đạp xe tới Vườn Lái
Thiêu.
Sáng hôm sau, chúng tôi xách cặp vô lớp để gặp Thầy
Viễn đứng đó, yên lặng chờ đợi. Cuối
cùng Thầy nói, trầm tĩnh trong từng câu. Tôi cảm
nhận trong từng chữ từng lời, Thầy rất
thận trọng đắn đo để không
thương tổn chúng tôi, tuổi trẻ mới lớn
lạc loài ngay trên quê hương. Sáng hôm đó chúng tôi không
phải học nữa, nhưng Thầy thông báo, theo lệnh
thầy Hiệu Trưởng, chúng tôi phải mang phụ
huynh lên gặp Thầy, khi đó mới được tới
lớp. Tụi tôi đứng dậy xách cặp đi về.
Và đương nhiên, tụi tôi, có tên tới nhà người
quen, năn nỉ họ giả làm phụ huynh; có tên túng kế,
quay ra lề đường nhờ tài xế xe xích lô
đóng vai anh lớn tới trường gặp Thầy.
Kết quả cho một lần nổi loạn là 12C3 bị
giải thể. Chúng tôi bị chia thành từng nhóm nhỏ
"di cư" sang những lớp hàng xóm, 12C1, C2, C4 .. Giải
thể, nhưng tụi tôi vẫn gặp lại Thầy trong
giờ Văn của những lớp 12C hàng xóm. Thầy vẫn
thế, lăng mạn, triết gia, điếu thuốc kẹp
tay, và có một chút ǵ đó bất cần, một nét rất
nhà thơ ..
Mặc dù 12C3 đă bị giải thế, giờ ra
chơi, chúng tôi vẫn đứng với nhau. Mỗi lần
Thầy Viễn đi ngang qua, chúng tôi vẫn nghiêm trang mở
miệng chào Thầy. Thầy nh́n chúng tôi, một thoáng nụ
cười. Tôi không hiểu Thầy nghĩ ǵ khi thấy
12C3, lớp Thầy Chủ Nhiệm, bị giải thể,
nhưng riêng tôi, tôi biết Thầy vẫn là Thầy Chủ
Nhiệm, Thầy vẫn dậy Văn lớp 12C3.
Cuối năm 79, chúng tôi thi Tú Tài, ra trường. Tiệc
cuối năm không tổ chức bởi lớp đă bị
giải thể. Cánh cửa Nguyễn Thượng Hiền
đóng lại sau lưng. 12C3 chúng tôi có tên Thanh Niên Xung Phong;
có tên bị lệnh Tổng Động Viên năm 79 cuốn
trôi sang chiến trường Tây Nam; có tên vượt biên;
có tên thi đậu vô đại học, Bách Khoa, Kinh Tế,
Nông Nghiệp. Nhưng khi có dịp, tụi tôi vẫn gặp
nhau như ngày nào, vẫn xưng danh 12C3; con trai vẫn nhậu,
vẫn uống càfe, hút thuốc Ara Con Két và Hoa Mai cháy khét;
12C3, một tên bị bắt nạt, cả nhóm con trai vẫn
xúm vào bênh vực bạn (bất kể bạn đúng hay
sai!); 12C3 con gái vẫn áo dài trắng ngồi ăn chè. Tụi
tôi vẫn gặp nhau, băn khoăn chuyện tương
lai, th́ thào chuyện vượt biển .. Và Thầy dậy
Văn, như một ước lệ, vẫn được
nhắc nhở tới. Đám con trai có tên vẫn ghé nhà
thăm Thầy. Bởi thế năm 1981, lớp 12C3 nhận
được tin thuyền gỗ có Thầy được
tàu Na Uy vớt. Tự nhiên tôi trầm ngâm mấy phút, tôi
mơ bước chân xuống thuyền gỗ như Thầy,
lênh đênh trên sóng biển như Thầy, và được
tàu Na Uy vớt như Thầy.
Ḍng thời gian đẩy tới, năm 82 tôi xuống thuyền
gỗ tại Rạch Giá. Chuyến tàu định mệnh
mang nhiều bất hạnh khi vượt qua vịnh Thái
Lan .. Nhưng cuối cùng thuyền cũng cặp bến
Marang của Mă Lai. Và thuyền gỗ (không số) Rạch
Giá khoác vào mă số PB 706 trên đảo Bidong. Tôi, Sài G̣n, Việt
Nam khoác lên người áo tỵ nạn! Cao Ủy Tỵ Nạn
cấp thẻ Căn Cước Người Vô Tổ Quốc
(Displaced Person). Năm 84 tôi tái định cư tại Thung
Lũng Hoa Vàng, San Jose, California.
Và thật là mầu nhiệm, chúng tôi, 12C3 gặp lại
nhau trên vùng đất mới. Trên đảo tỵ nạn
Pulau Bidong, tôi gặp Ngô thị Mai Phương. Tại Thung
Lũng Hoa Vàng San Jose, tôi gặp Đỗ Thụy Tú và Nguyễn
Đ́nh Thuần. Tại Brisbane, Úc Châu tôi gặp vợ chồng
Nguyễn Kế Khôi và Nguyễn Kim Yến, Lê Đức Thảo.
Tại Mỹ nhận được email và tin tức của
Trần Quốc Bảo, Hoàng Đ́nh An, Nguyễn Hồng
Kha, Nguyễn thị Thanh Vân, Ngô thị Giáng Tiên, Trần thị
Mộng Thuư, Vương Thành Vinh, Hoàng "Ngựa". Hội
ngộ 12C3 chưa dừng lại ở đó, năm 2005,
tôi bay về Việt Nam 20 năm ngày giỗ Bố, tôi gặp
lại gần như đủ mặt lớp 12C3, Hồ
thị Ngọc Truyền, Nguyễn Ư Nhi, Trương thị
Trâm Anh, Hoàng Quốc Thái, Thiều Văn Thành, Trần
Văn Tráng, Trần Kính Lữ, Nguyễn Thành Phương,
Nguyễn Đ́nh Tuyển và nhiều bạn học khác.
Chúng tôi, 12C3, vẫn đủ mặt, vẫn 12C3 của
năm 1979, vẫn là bạn thân của mày và tao, vẫn chửi
tục ồn ào như ngày nào, vẫn càfe đen đắng
nghét, vẫn là học sinh áo trắng lớp 12C3 Nguyễn
Thượng Hiền. Và Thầy Cô của ba năm, 10C3,
11C3, 12C3 vẫn được chúng tôi nhắc tới. Thầy
Cung Vĩnh Viễn vẫn là một cái tên, lớp 12C3 không
quên.
Cứ thế, hằng năm 12C3 gặp nhau, hoặc ở
Úc Châu, hoặc ở Mỹ, hoặc ở Việt Nam.
Tháng 9 năm 2014, tôi có dịp
công tác tại Ḥa Lan. Sau đó tôi bay vào thủ đô Oslo của
Na Uy ghé thăm người bạn thời chung trường
tại Chicago, Phố Gió. Thật bất ngờ, vợ bạn
tôi mang về nhà tờ đặc san Cộng đồng Việt
Nam tại Oslo. Tôi mở ra, đọc thấy mấy bài
thơ kư tên Cung Vĩnh Viễn. Tôi không tin vào cặp mắt
ḿnh! Hóa ra Thầy Cung Vĩnh Viễn đang sống ở
Oslo. Sáng hôm đó, tôi nhờ vợ bạn tôi liên lạc. Tối
hôm đó, tôi được nói chuyện với Thầy.
Sáng hôm sau, bạn tôi lái xe mang tôi tới nhà của Thầy.
Trời mùa đông Na Uy giá rét, mưa đông phủ mờ
kính xe hơi che cản đường. Nhưng rồi cũng
tới. Cánh cửa gỗ mở lớn, Thầy Cung Vĩnh
Viễn hiện ra, bằng xương bằng thịt. Thầy
vẫn nét phong trần lăng tử, vẫn hàng râu mép, vẫn
ánh mắt tinh anh. Tôi cúi đầu chào Thầy. Thầy ôm
vai tôi. Giây phút linh thiêng của Thầy và tṛ. Cuối cùng,
sau hơn 30 năm (1979-2014), tôi gặp lại Thầy.
Quà tôi biếu Thầy là một chai rượu đỏ
Tây Ban Nha. Thầy mở ra ngay mừng ngày hội ngộ.
Thầy và Cô nấu cơm. Tôi hân hạnh ngồi ăn
trưa với Thầy. Chuyện xưa của 12C3, chuyện
lớp xẩy đàn tan nghé, chuyện thuyền gỗ lênh
đênh trên biển, chuyện tỵ nạn, chuyện đời
Na Uy và Hoa Kỳ. Chuyện miên man! Chuyện bất tận!
Hồi xưa Thầy dậy tôi văn chương Việt
Nam. Thầy nuôi tôi thức ăn tinh thần nguyên một
năm dài. Ngày gặp lại Thầy, Thầy nấu
cơm, đích thân đứng dọn mâm cơm Việt Nam
nhiệt đới trên đất Na Uy, Bắc Âu.
Tôi biết tôi là người học sinh duy nhất của
12C3 gặp lại Thầy sau khi thuyền gỗ của Thầy
cặp bến. Thầy nói với tôi, "Đó là một
cái duyên!" Thầy tiếp, có những người sống
với họ, ở với họ cả một khoảng
thời gian, nhưng nếu không duyên, cả hai vẫn không
gặp nhau. Có đó, nhưng cũng vẫn là không!
Tôi ngồi đó, chăm chú lắng nghe. Tôi thấy ḿnh vẫn
chỉ là một tên học sinh 12C3 ngày nào. Vẫn là Thầy
đang đứng lớp. Vẫn là tôi đang ngồi
đó nghe Thầy giảng bài. Bài giảng chữ Duyên ngày
hôm đó đi thẳng vào hồn tôi. Chữ Duyên Thầy dậy
cũng đă trả lời cho tôi biết tại sao có những
người tôi mù mờ về h́nh dáng, giọng nói, tên tuổi
dù đă từng đi với nhau cả một khoảng
đường dài. Hệ quả của một chữ
Duyên.
Hữu duyên thiên lư năng tương ngộ,
Vô duyên đối diện bất tương phùng.
Tạm dịch:
Có duyên ngh́n dặm xa c̣n gặp.
Không duyên trước mặt vẫn cách ḷng.
Lớp 12C3, tôi nhớ tên các bạn, nhớ không quên, nhớ
khuôn mặt, nhớ tiếng nói dù đă là một con số
dài tính từ năm 79. Lớp 12C3 hồi đó dù bị giải
thể, nhưng bởi chữ Duyên, chúng tôi vẫn thế,
nguyên vẹn h́nh hài, bạn vẫn là bạn, 12C3 vẫn là
12C3. Có dịp, chúng tôi bỏ qua mọi thứ, cương
quyết gặp nhau mặc dù đời cơm áo nhiều
khi quay nhanh nhanh, quay xoay xoay, quay chóng mặt! ..
Thầy Cung Vĩnh Viễn, từ những ngày năm 1979
cho tới ngày hôm nay 2014, vẫn là Thầy. Gặp lại
Thầy, tôi lại mặc áo trắng, tay ôm sách vở, hạnh
phúc bước qua khung cửa, ngồi xuống bàn gỗ lớp
học tường vôi 12C3 ngày nào. Vẫn là tàng lá me xanh xanh
đong đưa bên khung cửa lớp. Thầy đứng
đó trước bảng đen, tay cầm phấn trắng,
giọng trầm hùng dậy tôi về ư nghĩa chữ
Duyên.
Cám ơn Thầy cho những dậy dỗ một thời
tiếng Việt mến yêu. Cám ơn Thầy đă xuất
hiện vào một thời mất thần tượng và mất
niềm tin. Cám ơn Thầy đă rót rượu đổ
tràn đầy ly của em. Cám ơn Thầy và Cô cho một
bữa ăn trưa quê hương trên vùng trời Bắc
Âu mùa đông. Và cám ơn Thầy cho bài giảng chủ
đề chữ Duyên của ngày hôm đó.
Vâng! Vẫn là câu chuyện của Không Mờ Nhạt bởi
chữ Duyên.
Sydney, 2014
NGUYỄN TRUNG TÂY
(Trịnh Gia sưu tầm và chuyển)