MÙA
RƯƠI
(Minh Tâm)
Trên
chuyến máy bay từ Sài G̣n đi Mỹ lần đầu
trong một tua du lịch, t́nh cờ tôi gặp một
người cùng làng: Ông Thực. Ông trở lại Mỹ
sau lần đầu tiên về thăm quê. Suốt một
chặng bay dài, hai người ngồi cạnh nhau, trở
nên thân mật sau khi nhận ra nhau là người cùng sinh ra ở
mảnh đất chiêm trũng gần bảy mươi
năm trước. Khi mới 15 tuổi, ông Thực di
cư vào Nam năm 1954, sau giải phóng 1975 phải đi cải
tạo hơn mười năm, năm 1992 sang Mỹ theo
diện HO. Ông nói với tôi: "Tưởng chả bao giờ
quay về mảnh đất chôn rau cắt rốn ,
nhưng chú em viết thư bảo phải về xây mộ
cho ông bà nội nên không thể không về ..". Câu chuyện
trở lại quê nhà sau hơn nửa thế kỷ của
ông Thực làm tôi xúc động, xin phép ghi lại theo lời
kể của ông.
Bao
năm đi xa, h́nh ảnh làng An vẫn không phai mờ trong
tâm trí tôi. Giờ trở lại giữa mùa thu, khí trời
hơi se lạnh, gió heo may báo hiệu con nước mùa
rươi, tôi càng bần thần nhớ cảnh cũ
người xưa ..
Chú Thập,
người em con ông chú ruột, dẫn tôi ra quán rượu
đầu cầu Son lên gác xép ngồi bên cửa sổ nh́n
xuống ḍng sông Son .
Năm
mươi năm trước, đây là quán thịt chó Chú
Ph́. Ngày ấy quán vách đất, mái lợp tranh, treo chiếc
nia sứt cạp viết ba chữ nguệch ngoạc bằng
vôi "Thịt chó Chú Ph́" trước dàn mơ lông và mấy
khóm riềng . Chú Ph́ đau mắt kinh niên, hai mắt toét
nhèm, nhưng chặt thịt chó nhanh như chớp, miếng
nào miếng nấy đều tăm tắp. Chiếc thớt
gỗ nghiến của Chú Ph́ đen bóng như sừng, chặt
thịt châng chấc, không ra tí mùn nào. Hễ có người
khen chiếc thớt, là Chú Ph́ lại vênh mặt lên đầy
kiêu hănh: "C̣n phải nói! Cái thớt nghiến này từ
thời ông nội tao truyền lại. Của gia bảo
đấy! Hàng ngàn chú khuyển đă lên thớt rồi".
Thập
nói với tôi:
- Chú
Ph́ chết cách đây hơn ba chục năm rồi. Mua con
chó điên về làm thịt bán, bị nó đớp cho một
phát! Có người con trai, theo nghề ông cha truyền lại,
nhưng được ít lâu phải bỏ ra Quảng Ninh
nhặt than thổ phỉ.
- Tại
sao lại bỏ nghề gia truyền đi nhặt than? Tôi
hỏi.
Chú Thập
nói:
- Tay ấy
hai mắt to như hai cái bóng đèn, nhưng chỉ soi vào
túi tiền khách mà không soi vào miếng thịt của ḿnh. Ai
đời hắn bày nguyên cả miếng thịt c̣n lông
lên đĩa cho khách ăn .. Với lại thời buổi
này chỉ rượu thịt chó suông đếch câu
được khách!
Bây giờ
quán "Thịt chó Ph́" đă đổi tên thành
"Returran Gió Mới". Tấm bảng làm bằng mê ca
thay chiếc nia sổ cạp.
Ngôi
nghà gạch có gác xép thay căn nhà đất lụp xụp.
Giàn mơ lông và bụi riềng cũng biến mất, thay
vào đó là ḥn non bộ và con T́ Hưu đắp bằng xi
măng. Ngôi nhà nghễu nghện như chú gà trống khoe
bóng xuống sông, tường xây c̣n để thô, rêu bám
loang lổ . Con T́ Hưu đắp vụng, giống hệt
con chó, cũng nhếch nhác như ngôi nhà. Chú Thập bảo
tôi:
- Thằng
Quất con lăo Côi xóm Dè, đi làm thuê nước ngoài kiếm
được ít tiền, về sang quán, đổi món
rượu thịt chó thành thịt chó bia ôm. Thấy
đông khách, có cả khách Tây, Tàu, hóa làm giàu.
Giữa
buổi chiểu mưa rét, quán vắng teo, chỉ có hai anh
em tôi. Quất khoảng ngoài bốn mươi, đầu
đinh, răng vổ, h́nh thù ngổ ngáo, hỏi:
- Hai
bác xơi ǵ ?
Chú em
tôi nói:
- Cho một
xị rượu đế với đĩa lạc rang !
Quất
cười bỗ bă :
- Chỉ
thế thôi à?
- Th́
thế đă! Cần ǵ kêu sau.
- O K!
Tôi
quay ra cửa sồ nh́n ḍng sông. Đối với tôi sông
Son thân thiết từ thuở bé. Con sông từ làng Vọng
qua làng tôi xuôi xuống Tràng rồi đổ ra cửa biển
Diêm Điền. Ngày xưa sông rộng hơn bây giờ. Tôi
c̣n nhớ những khi thủy triều lên , ḍng sông mênh mang,
nước tràn ngập cánh đồng chiều, từng
đàn cá mương, cá rói , cá chày vùng vẫy săn mồi.
Chúng tôi bắt cào cào làm mồi câu , giật lên những con
cá rói trắng phau như thỏi bạc. Cuối năm âm lịch
là mùa rươi. Những ngày nước rươi về,
ḍng sông Son đỏ thẫm từng mảng rươi sâm
chín lúc rạng đông. Dân làng tôi không quản rét mướt
rủ nhau đi vớt rươi. Xuồng, ghe , bè chuối
bập bềnh trên sóng nước .. Ông nội tôi dẫn
tôi đi theo. Ông bảo: "Con rươi sống âm thầm
dưới ḷng đất, nhưng rất chung thủy với
con người, tháng Chín đôi mươi, tháng Mười
mùng năm, đúng hẹn là nó ngoi lên".
Làng An
bây giờ đă thay đổi nhiều. Những căn nhà
gạch thay những mái nhà tranh, con đường làng rợp
bóng tre ngày xưa giờ rải nhựa, ngôi đ́nh đă bị
phá .. Nhưng ḍng sông Son vẫn chảy mải miết và vẫn
c̣n mùa rươi.
Chú Thập
nói với tôi:
- Có một
thời người ta ngăn sông , không cho nước thủy
triều lên xuống , khoanh cánh đồng chiều thành
vùng lúa đặc sản tám xoan. Cánh đồng trở nên
nổi tiếng, được ông Tố Hữu về
thăm tặng thơ, nhưng mất mùa rươi, và dân
làng quanh năm không được ăn một bữa
cơm gạo tám xoan nào ..
- Tại
sao cấy lúa mà không được ăn?
Chú Thật
uống một hớp rượu, cười nhạt, rồi
nhẩn nha nói:
- Gạo
chăm , gạo tép c̣n chả đủ nhét đầy bụng
nữa là? Với lại dân làng này quanh năm toàn rau muống
tương cà, ăn với cơm tám nó phí đi. Chả
đă có câu ca dao đó thôi: "Tiếc thay hạt gạo
tám xoan, thổi nổi đồng điếu lại chan nước
cà". V́ thế thu hoạch được bao nhiêu nộp
lên trên bấy nhiêu . Để bán ở cửa hàng Tôn Đản,
Hà Nội ..
Chú em
họ tôi nói chuyện bằng cái giọng tưng tửng nửa
đùa nửa thật. Nhưng nghe thấy cay mắt.
Năm 1954, khi gia đ́nh tôi di cư, Thập mới 7 tuổi,
cứ lẵng nhẵng đ̣i đi theo. Ông nội tôi gói bọc
quần áo, bảo bố mẹ tôi cho Thập đi cùng.
Nhưng chú Thời , em bố tôi, giật gói quần áo lại,
chỉ tay vào mặt bố tôi nói: "Anh đă ngoan cố
theo giặc bán nước, c̣n định đưa con tôi
theo?". Gia đ́nh tôi ngày ấy đă chia thành hai phe: Bố
tôi đi lính cho Pháp, chú Thời tham gia cách mạng ..
Thập
kể :
- Sau
khi gia đ́nh bác di cư , đội cải cách ruộng
đất về làng, ông bà nội bị quy thành phần
địa chủ, lại có con di cư vào Nam , bị ghép
thêm tội phản động. Tài sản bị tịch
thu , bị đuổi ra khỏi nhà ..
- Ông
bà mất năm nảo?
- Ông mất
năm sáu mươi, bà mất năm sáu tư!
- C̣n
cô út?
- Bà chết
một năm th́ chiến tranh lan ra miền Bắc. Cô út
đi thanh niên xung phong . Năm sáu bảy hy sinh ở Quảng
B́nh.
Cô út
hơn tôi ba tuổi. Ngày tôi di cư vào Nam, cô út tôi vừa
tṛn mười tám. Cô xinh đẹp , ngoan hiền. Ông bà nội
tôi đă nhận trầu cau hứa gả cô út cho con trai ông
Hào, cùng làng. Nhưng khi ông bà nội tôi thành phần địa
chủ, ông Hào ngăng ra không cưới. Nghe Thập kể
chuyện cô út buồn, đi thanh niên xung phong rồi chết
bom ở Quảng B́nh , tôi cảm thấy như có bàn tay chẹn
lấy cổ họng, không thở được. Tôi không
trách ông Hào không cưới cô út tôi cho con trai. Thời buổi
ấy , ngay ông Thời, chú ruột tôi, c̣n cắt đứt
bố mẹ , vợ con nữa là.
Có người
khách vào quán lên gác xép, câu chuyện hai anh em tôi phải dừng
lại. Người mới tới mặc bộ quân phục
cũ, khuôn mặt dài góc cạnh, tóc bạc , nh́n rất khắc
khổ . Nhưng dưới cặp lông mày vừa rậm vừa
đen đôi mắt sáng, h́nh như tất cả tinh lực
dồn vào đôi mắt . Tôi nh́n ông thấy quen quen, h́nh
như đă gặp nhau ở đâu rồi. Ông ta cũng
nh́n tôi, rồi hỏi chú Thập ..
- Có phải
đây là?
Chú Thập
hồ hởi giới thiệu:
- Vâng,
đây là anh Thực con bác Thụ , tôi vẫn kể với
anh.
Rồi
Thập quay sang tôi:
-
Đây là anh Lẫm con bác Khán ngoài xóm trại. Bạn
chăn trâu với anh đấy! Anh Lẫm nói đă từng
gặp anh sau Hiệp định Paris ..
Lẫm
ch́a tay về phía tôi. Tôi đứng lên dè dặt cầm bàn
tay xương xẩu của Lẫm. Mắt Lẫm sáng hẳn
lên nh́n tôi , miệng cười cởi mở:
- Bạn
cũ gặp nhau đây rồi!
Tôi im
lặng dè dặt nh́n Lẫm. Anh nói tiếp:
- C̣n
nhớ bạn bè chứ?
- Vâng,
nếu anh vẫn cho phép tôi gọi như thế!
- Không
bạn bè th́ là ǵ? C̣n nhớ trèo cây thị nhà cụ Chánh hái
trộm không? Cả chuyện đánh đáo lỗ ở sân
đ́nh Kênh ..
Chủ
quán chọn đúng lúc tḥ cái đầu trọc lên gác:
- Có
con mực ngon tuyệt! Các bác phải ăn mừng hội
ngộ chứ ạ!
Chú em
tôi nói:
- Cho một
đĩa luộc, một đĩa ḷng!
- O K!
Có ngay!
Tôi mời
Lẫm ngồi vào bàn. Anh không tỏ ra khách sáo, ngồi xuống
cạnh chú Thập . Đĩa thịt mang lên , chúng tôi chạm
ly. Lẫm móc túi áo, lấy gói thuốc lào vê một điếu
rơ to châm lửa hút, nh́n tôi qua làn khói , trầm ngâm suy nghĩ,
rồi nói với Thập:
- Tôi với
ông Thực đă choảng nhau chí tử ở chân núi Bà
Đen ..
Đó
là vào mùa khô năm 1973, sau khi hiệp định Paris vừa
kư kết. Tôi chỉ huy một đại đội bộ
binh ở khu vực Mỏ Công chân núi Bà Đen. Đối
diện với đơn vị tôi , chỉ cách một con
kinh nhỏ, phía bên kia là đơn vị Việt Cộng.
Theo hiệp định Paris, hai bên giữ nguyên vị trí .
Những ngày đầu đối xử với nhau khá thân
thiện, hai bên mời nhau hút thuốc lá , nói chuyện tếu
. Viên trung úy chỉ huy đơn vị Việt Cộng thỉnh
thoảng cũng xuất hiện, không ngăn cấm binh
lính nói chuyện tếu, vẻ mặt khá cởi mở . Một
lần tôi hỏi:
- Anh
quê đâu?
Anh ta
cười đáp:
- Thái
Lọ!
- Làng
nào?
- Làng
An.
- Vậy
anh là đồng hương với tôi!
Chưa
kịp làm quen th́ bỗng một đêm bất ngờ phía
Việt Cộng nổ súng chiếm hết con kinh. Khi bị
đánh bật trở lại vị trí cũ, viên trung úy nói
với tôi :"Mọi quyết định do trên. Tôi với
anh là người lính, phải thi hành mệnh lệnh.
Không
ngờ hơn bốn chục năm sau tôi và anh Lẫm lại
gặp nhau ở quê nhà. Lẫm hỏi tôi :
- Trận
ấy bên anh mất mấy người?
- Chết
2 bị thương 3. C̣n bên anh?
- Chết
3 bị thương 1!
Anh Lẫm
bảo:
- Rốt
cục gà cùng một mẹ đá nhau! Trong trận ấy
chú Phúng con ông Phú làng ta hy sinh. Anh có c̣n nhớ ông Phú không?
- Có phải
ông Phú quanh năm cởi trần đóng khố dậm cá bống
dưới sông Son?
- Phải!
Tên là Phú nhưng nghèo. Đă nghèo của lại nghèo con. Hai
ông bà có mỗi chú Phúng th́ hy sinh năm hai bảy tuổi ,
chưa kịp lấy vợ , giờ không có ai cúng giỗ.
Cái bằng "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" không có
người nhận.
Ngừng
một lát, anh Lẫm nói với tôi:
-
Năm ngoái tôi quay lại núi Bà Đen t́m hài cốt chú Phúng
và hai đồng đội hy sinh trận đó. Không đi
th́ áy náy, đi về càng buồn ..
- Không
t́m được à?
-
Được cũng như không!
Lẫm
kể:
-
Năm đó tôi chôn trung đội trưởng Phúng và hai
chiến sỹ gần bụi tre. Anh c̣n nhớ bụi tre gần
mỏm núi đầu sư cụ không? Hơn bốn
mươi năm sau quay lại, bụi tre đó đă biến
mất, loay hoay gần buổi sáng mới t́m thấy dấu
vết mỏm đá đầu sư cụ. Người
ta phá núi lấy đá làm đường. Cũng may ba nấm
mộ dưới khe chưa bị phá. Nhưng nước
mưa đă san bằng, cây cối đă mọc kín. Tội
nghiệp, họ nằm đây suốt bốn chục
năm không ai nh́n ngó . Tôi thắp mấy nén nhang khấn xin
chú Phúng và hai đồng đội tha thứ, rồi
hăm hở cầm xẻng đào. Muốn đào ngay lên
xem xương cốt của anh em ra sao. Tim đập th́nh
thịch v́ hồi hộp. Lâu ngày đất đă cứng
, rễ cây chằng chịt. Mấy anh em thay nhau đào bới
toát hết mồ hôi, rồi ngẩn ngơ thất vọng.
Xương thịt chú Phúng và hai người lính đă bị
kiến, mối, rễ cây ăn hết, chỉ c̣n lại
ba đôi dép cao su và những mảnh vải nhựa nát vụn.
Người ta nói tóc lâu tiêu nhất, nhưng cũng không c̣n
sợi nào.
Tôi lấy
tay bóp nặn cẩn thận, cố t́m một mẩu xương,
nhưng thất vọng. Tất cả đă thành đất
. Mắt mấy người cùng đi với tôi đều
đỏ hoe. Một người nói:
- Chả
c̣n ǵ ! Thế này th́ đào lên làm ǵ?
Một
người khác xuê xoa:
- Thôi
th́ để cho thân nhân họ yên ḷng!
Tôi bốc
ba nắm đất gói vào ba lá cờ, viết tên từng
liệt sỹ rồi mang về. Hai liệt sỹ quê ở
Hưng Yên, chúng tôi mang trao tận tay cho gia đ́nh , c̣n chú
Phúng giao cho chính quyền xă làm lễ truy điệu, an táng ở
nghĩa trang Vũ Hạ. Nh́n người thân liệt sỹ
ôm gói đất mừng mừng tủi tủi, tôi vừa
buồn vừa xấu hổ. Nghĩ đến bây giờ
rồi mà ḿnh vẫn c̣n lừa dối người ta. Có tí
xương nào đâu mà bảo hài cốt ? Nh́n người
ta nâng niu, khóc, và trầm lắng trước một nắm
đất vô tri vô giác, lương tâm ray rứt quá!
Anh Lẫm
vê điếu thuốc lào nữa cho vào điếu cày châm lửa
hút, làn khói trùm kín cả khuôn mặt khắc khổ. Lẫm
bảo anh bị mất ngủ từ dạo đó. Cứ
chợp mắt là hồn ma những người lính hiện
về , đứng ngay ở đầu giường. Có
người khóc, có người tỏ thái độ căm
giận. Nhiều đêm anh thức trắng từ chập
tối đến sáng. Lẫm cười chua chát:
- Bác sỹ
bảo tôi bị thần kinh hoang tưởng. Đảng
th́ chụp cho cái mũ "nhụt lư tưởng" ..
Có tiếng
ồn ào bên dưới, tôi nh́n qua cửa sổ thấy
người lố nhố ở chân cầu , nhưng không
nh́n rơ họ làm ǵ v́ những tầu lá chuối ướt
đẫm nước mưa che khuất. Ngay lúc đó anh
chủ quán xồng xộc chạy lên gác nói hốt hoảng:
- Có
người tự tử các bác ạ!
Chú Thật
hỏi:
- Ai?
- Là chị
Xuân ở thôn Trung.
Anh Lẫm
nói:
- Mới
tháng trước một vụ tự tử v́ thua đề
.
Chúng
tôi trả tiền rượu thịt , rồi xuống
chân cầu. Người xúm đen xúm đỏ. Xác nạn
nhân đă vớt lên mặt cầu, đắp chiếu chờ
công an huyện về khám nghiệm. Trời u ám, lất phất
mưa, mấy cây nhang tắt ngấm. Người làng bàn
tán về chị Xuân, chồng làm cán bộ hải quan ở
Hải Pḥng lấy vợ bé ..
Chú Thập
nói với tôi:
- Cô
Xuân là con ông Hạo. Ông Hạo ra lệnh phá đ́nh, bị
ung thư chết, giờ con gái tự tử, không biết
có phải quả báo không?
Thím
dâu tôi cũng có mặt ở đó, nói với chúng tôi:
- Cái
cô Xuân dại . Ḿnh chết th́ thiệt ḿnh. nó có
thương ḿnh đâu? C̣n mừng là đằng khác! Ngày
ông Thời bỏ tôi lấy người khác, tôi chỉ lo
ḿnh chẳng may chết để con bơ vơ ..
Đă
hơn tám chục tuổi nhưng thím dâu tôi c̣n khỏe mạnh.
Trên khuôn mặt hiền lành phúc hậu của thím ẩn nỗi
buồn thầm kín. Tôi c̣n nhớ hồi c̣n trẻ thím dâu
tôi không đẹp, không xấu, chỉ b́nh thường
thôi. Thím có khuôn mặt trái xoan hơi gầy, nước da
vàng vàng , được cái đôi mắt to, lông my dài , ḷng
trắng trong trẻo .
Thím
tên Cải, là con ông Phó xóm dè. Gia đ́nh ông Phó cũng thuộc
loại khá giả , tương xứng với gia đ́nh
ông bà nội tôi. Có lẽ v́ thế mà hai người kết
thông gia với nhau.
Thím Cải
lấy chồng năm 17 tuổi, năm 18 sinh con trai đầu
ḷng, là Thời. Thím là người đảm đang công việc
và rất căn cơ nên được ông bà nội tôi yêu
quư. Từ ngày gia đ́nh tôi di cư vào Nam , một ḿnh thím
chèo lái con thuyền đắm là gia đ́nh ông bà nội tôi.
Trong hoàn cảnh bố mẹ chồng, bố mẹ đẻ
đều là địa chủ , chồng bỏ rơi, từ
hai bàn tay trắng thím đă tần tảo nuôi hai bên nội
ngoại, rồi mua lại ngôi nhà của ông bà nội tôi hồi
cải cách bị tịch thu chia cho bần cố nông. Thím
nói với tôi:
- Nhờ
cái cối giă cua của bà đấy. Đội cải
cách chia cho bần nông, họ ngại nặng bỏ lại,
bà xin mang ra gốc đa cuối chợ làm nghề bún riêu
cua. Tôi với cô út mỗi người một cái giỏ, một
cái lẹm, ṃ mẫm hết cánh đồng chiều th́ sang
đồng Ngân, đồng Lác. Mỗi ngày bắt
được hai giỏ cua. Tối về lột mai , khêu
gạch rồi giă cua , chẻ rau muống, thái chuối non.
Đêm nào cũng kỳ cạch từ chập tối đến
khuya, để sáng sớm có nồi riêu cua dọn ra gốc
đa cho bà ngồi bán.
Quán
riêu cua của thím tôi nổi tiếng khắp vùng. Những
phiên chợ chính nấu hai nồi cũng không đủ
bán. Những bát bún riêu nóng hổi , gạch cua vàng
tươi, thơm nức ăn kèm với rau muống chẻ
nhỏ , giá năm xu, vừa túi tiền những người
buôn thúng bán bưng phiên chợ quê. Nhờ tích cóp từng
đồng bán riêu cua, thím Cải đă mua lại được
ngôi nhà của ông bà nội tôi. Hơn tám chục tuổi mà
thím Cải c̣n nhớ dai lắm. Thím kể lại câu chuyện
như nó mới xảy ra hôm qua hôm kia:
- Ngôi
nhà cùa ông ba gọng bừa, năm gian nhà trên, bốn gian nhà
ngang, tường hoa sân gạch . Ba người được
chia căi vă nhau quanh năm. Rồi chả ai bảo ai dỡ hết
cánh cửa chính cửa sổ, cửa buồng ra bán . Những
cánh cửa gỗ mít ông bà quư hơn vàng họ bán cho người
ta có mấy đồng bạc . Rồi dỡ mái nhà bán ngói
và đ̣n tay rui mè gỗ xoan, lấy rạ lợp thay vào. Gạch
dưới sân cũng nạy lên bán. Cuối cùng mấy chục
cây mít, cây bưởi trong vười cũng chặt làm củi
bán hết. Chỉ c̣n mỗi cây khế bên cầu ao họ
không chặt bán v́ gỗ khế xốp, củi không
đượm không ai mua, vả lại cây khế c̣n treo
cái kẻng của hợp tác, họ không dám chặt ..
Ngôi
nhà tan hoang ấy giờ như một ngôi biệt thự
vườn khang trang . Thím Cải cứ nhắc đi nhắc
lại : "Nhờ cái cối giă cua của bà nội anh
đấy!". Rồi thím nói với tôi :
-
Trước khi nhắm mắt bà cầm tay tôi và cô út bảo:
Nhờ cái cối giă cua mà mẹ con ta tậu lại
được nhà cửa vườn ao của thầy các
con. Mẹ chết đi, dù sau này các con không làm nghề bán
riêu cua cũng phài giữ lấy chiếc cối!
Thím Cải
bọc kỹ chiếc cối bằng một vuông vài đỏ,
đặt trên bàn thờ. Chiếc cối xinh xinh , nhẵn
bóng. Tôi rưng rưng xúc động như nh́n thấy dáng
bà nội tôi, cô út tôi đang lom khom giă từng mẻ cua
đồng trong chiếc cối kia ..
Việc
dời mộ ông bà tôi không khó khăn lắm. Thím dâu tôi và
chú Thập đă chuẩn bị chu đáo đâu vào đấy
cả rồi. Hai ngôi mộ được xây kim tĩnh
trên chỗ đất cao ráo, phần lăng mộ đă
thuê người ta đúc sẵn , chỉ việc đặt
tiểu xuống dưới kim tĩnh, đậy tấm
đan lại rồi đặt phần lăng lên trên là
xong. Điều tôi hồi hộp nhất là không biết
hài cốt ông bà nội tôi có c̣n không. Câu chuyện anh Lẫm
kể cứ ám ảnh tôi măi. Nhưng thím dâu tôi khẳng
định hài cốt ông bà nội tôi vẫn c̣n nguyên.Thím ấy
nói:
- Ba
người ấy chôn nông, không có áo quan , giữa núi non
như thế mối nó xông mới mục nát đi, chứ
đằng này ông bà nội anh tôi đă sang cát cẩn thận
lắm, tiêu làm sao được?
Nghe
thím tôi nói tôi yên tâm một chút, nhưng vẫn muốn mở
nắp tiểu ra tận mắt nh́n xương cốt ông
bà nội. Khi ông bà nội tôi mất, bố mẹ tôi và tôi
đều không có mặt. Giờ bố mẹ tôi đều
đă chết, tôi muốn được thay mặt bố
mẹ tôi nh́n ông bà nội tôi lần cuối cùng. Mấy chục
năm qua, có lẽ đó là giây phút hồi hộp và xúc
động nhất trong đời tôi. Khi hai chiếc tiểu
sành vừa được chú Thập và mấy người
bê lên từ dưới ḷng đất, tôi quỳ thụp
xuống , nước mắt trào ra . H́nh ảnh ông nội
tôi cầm chiếc vợt đứng trên bè vớt
rươi năm nào hiện lên trước mắt tôi. Ngày
đó ông nội tôi mới 60 tuổi, nhưng khó nhọc từ
bé nên nh́n già lắm, hai má lơm sâu. Ông tôi được học
một ít chữ nho, không biết chữ quốc ngữ ,
quanh năm làm lụng vất vả tạo dựng lên một
cơ nghiệp rồi bị cướp trắng tay. Trời
ơi, ông bà nội! Tôi bật khóc như một đứa
trẻ khi nh́n thấy những mẩu xương vụn
nát mầu nhợt nhạt của ông bà nội tôi ..
Bà con
trong họ và hàng xóm đến "mừng nhà mới"
ông bà nội tôi rất đông. Bữa tiệc sắp tàn
th́ có chiếc xe con chạy vào tận ngơ. Một người
đàn ông khoảng năm chục tuổi mặc vét đen
xuống xe, dè dặt bước vào. Sau khi lễ phép chào mọi
người, anh ta nói:
-
Thưa các ông các bà! Cháu là Thành , con của bố Thời!
Mọi
người đổ xô nh́n người khách lạ, bàn tán.
Ông Thời cắt đứt cha mẹ, vợ con, bỏ
làng đi gần sáu chục năm không một lần
đoái hoài , bây giờ bỗng dưng có người con xuất
hiện đúng ngày xây mộ mới cho ông bà nội tôi. Chú
Thập đang ngồi bên tôi và Lẫm đứng bật,
miệng há hốc ra hầm hầm bước tới
trước mặt người khách lạ. Thím Cải
buông rơi chiếc cối giă trầu trong tay ..
Người
đàn ông tên Thành h́nh như đă lường trước
t́nh huống căng thẳng, chắp hai tay vái thím Cải ,
và nói với mọi người bằng giọng nói rất
chân thành:
- Bố
cháu mới mất tuần trước!
Nghe mấy
câu đó không khí bỗng chùng hẳn xuống. Thành cho mọi
người biết chú Thời nghỉ hưu đă hơn
hai chục năm, nhưng bị tai biến mạch máu năo
phải nằm một chỗ. Cách đây một tuần
đột nhiên tỉnh táo, dặn vợ con sau khi ḿnh chết
th́ hỏa thiêu mang tro cốt về quê an táng bên cạnh cha
mẹ. Thành nói:
- Bố
cháu bảo , con thay mặt bố lạy ông bà , xin ông bà tha
thứ cho bố. C̣n sống bố không dám gặp ông bà. Nay
xin ông bà tha thứ cho bố gặp nơi suối vàng ..
Thím Cải
vén vạt áo lau nước mắt. Khuôn mặt Thành b́nh tĩnh
trở lại . Tôi bắt tay Thành và tự giới thiệu
về gia đ́nh ḿnh. Thành nói :
- Bố
em cũng có nhắc đến bác Thụ, anh Thập và anh.
Không
khí trở nên thân mật. Thập thắp ba nén nhang cho Thành
lạy ông bà nội , rồi mời ngồi chung bàn với
tôi và Lẫm. Cuộc ḥa giải tưởng vô cùng khó
khăn , ai ngờ rất đơn giản. Thành nói hôm nay
về quê, là như đi tiền trạm, nếu thím Cải
và gia đ́nh cho phép th́ sau 49 ngày sẽ đưa tro cốt
ông Thời về
Đêm
ấy tôi thấy thím Cải không ngủ. Thím ngồi một
ḿnh ở góc giường cạnh bàn thờ nhai hết miếng
trầu này đến miếng khác. Tôi hỏi thím Cải:
- Thím
có đồng ư đưa tro cốt chú về bên ông bà nội
con không?
Thím cải
nói:
- Chắc
ông ấy cũng bị dày ṿ lắm rồi! Thôi th́ để
ông ấy toại nguyện!
- Vậy
sao thím không ngủ?
-
Nước rươi sắp lên người váng vất
không ngủ được!
Tôi cũng
nghĩ như thím Cải. Bao năm qua h́nh ảnh chú Thời
chỉ vào mặt ba tôi mắng nhiếc in đậm trong
ḷng tôi, giờ đă vơi nhẹ . Chú cũng là một
người hiền lành chân chất như ông nội và bố
tôi, chỉ v́ chất men lư tưởng đă làm chú quá say mà
trở nên như thế.
Gần
sáng hôm đó Lẫm đến rủ tôi đi vớt
rươi. Chúng tôi ngồi trên chiếc ghe nhỏ chèo ra giữa
ḍng sông Son. Lẫm vừa lái vừa soi đuốc, tôi cầm
vợt vớt rươi. Ḍng sông mới chiều qua c̣n hẹp,
chảy từ từ, giờ triều lên mênh mang cuồn cuộn,
thuyền, ghe, bè mảng bập bềnh trong ánh đuốc.
Tôi bỗng như sống lại quăng tuổi thơ ngắn
ngủi, và lời ông nội tôi văng vẳng bên tai tôi: "Con rươi sống âm
thầm dưới ḷng đất nhưng rất thủy
chung với con người. Tháng Chín đôi mươi, tháng
Mười mùng năm đúng hẹn lại lên!". Tôi cầu
mong đừng bao giờ mất đi những mùa
rươi cũng như những mùa hội hè khác. Tôi cầu
mong con cháu chúng tôi không phài chịu cảnh chia xa như ông
cha tôi và chúng tôi ..
Đêm cuối năm 2014
MINH TÂM
(Liễu Dương
sưu tầm và chuyển)