COI CHỪNG TU HÚ
Một bài viết rất hay và rất
đáng đọc .
Biết bao nhiêu năm chúng ta thua
lũ Việt Cộng và cứ thua măi thua hoài . Tiếng nói
của những người quốc gia càng ngày suy yếu ,
và sự chân thật để làm cho có kỷ cương ,
có nền tảng vững chắc để chống lại
nền văn hóa phi nhân bản của CSVN , th́ lại bị
bóp méo vo tṛn sự thật bằng mọi cách : Photoshop thay
h́nh dạng, đổi thay lời văn , tung tin thất
thiệt , cả vú lấp miệng em , kéo bè kết lũ
để đánh người. Hay vạch lá t́m sâu , trong những
lời văn , câu thơ , hay lời nói của ai đó , vô
t́nh phạm phải .
Những con Tu Hú con của loài Nhồng
, loài Sáo , thật sự không đáng sợ bằng những
con Tu Hú của loài Quạ đen , v́ loài Quạ đen nó sẽ
mang tai ương và thảm họa đến chỗ nào nó
đang sinh sống . Theo lẽ tôi Block hết các email không
xem , không thấy , không biết
để khỏi tức , an phận thủ thường
cho qua hết một kiếp người của thằng
tôi , nếu suy ra cũng chẳng c̣n bao lâu nữa .
Và nếu như vậy th́ tôi lại
trúng kế của CSVN , v́ chúng muốn thế , chúng muốn
ai cũng ngoan ngoăn nghe chúng , và nếu .. không nghe th́ im , rút
lui khỏi chiến trường mạng ảo đă và đang sục sôi gió tanh
mưa máu nầy .
Tôi suy tôi th́ là người chẳng
có ra ǵ , học hành th́ ít oi chữ nghĩa chẳng có bao
nhiêu , lư luận th́ không có logic , chỉ có được thấy
sao nói vậy, (ruột ngựa phổi ḅ) , nhưng cũng
chẳng làm được cái tṛ trống ǵ , chẳng giúp
được ai mà c̣n có thể hại ḿnh nữa là
khác . V́ thế nh́n người
tài giỏi , tế thế an bang , toàn là mề đay & bằng
cấp mang đầy ḿnh , tay đao to búa lớn , miệng
th́ chữ nghĩa mấy bồ . C̣n tôi , suy ḿnh nông cạn tài th́ sơ , học th́ thiển
cho nên ; thông thường th́ chỉ đứng dựa cột
mà nghe , ngồi dưới sàn nhà mà học , những lời
vàng hay thước ngọc cân đo của quư vị .
Nhưng nghe hoài lời không đúng , học những cái tung
tin sai , th́ nghe để làm ǵ , học để làm chi . Hôm
nay tôi đi đến quyết định bám ṿng đai ấp
chiến lược , mà chiến đấu , cho dù hơi
thở có kḥ khè, lời văn hơi run rẩy . V́ phổi
như tổ ong , ( thiếu dưỡng khí ) v́ tim thiếu
năng xuất (pump cần turn-up thay bộ phận mạnh)
để đưa máu lên tận đỉnh đầu .
Cảm ơn ông Việt Đỗ
or Việt Luận rất nhiều. (VN)
COI
CHỪNG TU HÚ
(Việt
Luận)
Chim tu hú là loài chim
không ấp trứng và cũng không nuôi con. Loài chim này chỉ
đẻ trứng vào tổ chim khác. Ở Việt Nam tu hú
thường đẻ vào tổ sáo sậu rồi mặc
kệ cho sáo sậu ấp trứng nở và nuôi hộ con
ḿnh. Lư do đơn giản khiến tu hú không gửi trứng
vào tổ loài chim khác mà chỉ làm khổ sáo sậu là v́ tu
hú rất giống sáo sậu, chỉ khác nhau ở tiếng
hót (mà quả trứng th́ không biết hót). Khi trứng nở
thành chim con rồi lớn lên và biết hót th́ lúc đó sáo sậu
mới biết không phải là con ḿnh. Thế nhưng khi
đó th́ mọi sự đă muộn.
Tu hú có tên tiếng
Anh là Asian Koel, c̣n tên khoa học là Eudynamys scolopaceus, thuộc
họ Cucu (Cuculidae) được t́m thấy ở Nam Á,
Trung Hoa và Đông Nam Á. Từ "Koel" có gốc từ
tiếng Hindi, c̣n gốc tiếng Phạn là "Kokila"
(theo văn chương Phạn vào khoảng 2000 năm
trước Công nguyên loài chim này được gọi là
Anya-Vapa có nghĩa là "lớn nhờ người khác
nuôi"). Đặc điểm của loài tu hú là loài đẻ
nhờ (không bao giờ làm tổ mà chỉ t́m các tổ chim
khác để đẻ). V́ vậy chim tu hú non được
các loài chim khác nuôi dẫn đến nhiều trường
hợp chim con lớn gấp nhiều lần chim cha mẹ
nuôi). Khi đẻ, tu hú chỉ đẻ một trứng
duy nhất của nó trong tổ của nhiều loài chim khác
nhau, kể cả tổ của các loài chim nhỏ. Thường
con tu hú trống có nhiệm vụ bay vờn quanh tổ
để thu hút sự chú ư của chim chủ nhà và cố
t́nh dụ cho chim chủ nhà bay ra khỏi tổ đuổi
ḿnh (để bảo vệ trứng) nhằm đánh lạc
hướng cho tu hú mái có cơ hội đẻ một quả
trứng của ḿnh vào tổ. Một nghiên cứu ở Việt
Nam cho thấy sau khi chim chủ của tổ chim đẻ
trứng đầu tiên được một ngày rưỡi
th́ tu hú t́m cách đẻ trứng vào đó. Trứng tu hú
thường nở trước 2, 3 ngày so với trứng
của chim chủ nhà nhưng để bảo đảm
trứng của ḿnh được chăm sóc, tu hú mái ác
độc thường ăn trứng hoặc làm hư hại
trứng của chim chủ nhà rồi mới đẻ trứng
của ḿnh vào. Chim tu hú Á châu là loài ăn tạp, chúng ăn
tất cả các loại côn trùng, sâu bướm, trứng
và các động vật có xương sống nhỏ cũng
như ăn cả trái cây.
Đó là nói chuyện
chim. Chuyện Việt Nam cho tới bây giờ vẫn lắm
điều chẳng khác ǵ chuyện tu hú.
Năm 1954, hiệp
định Geneve ra đời. Nhiều thanh niên trong hàng ngũ
kháng chiến chống Pháp (không ngờ cuộc kháng chiến
đó của họ đă bị CS lợi dụng) theo lệnh
trên, đă cưới vợ vội vă, gấp rút như kiểu
cưới chạy tang. Sau đó, cũng theo lệnh cấp
trên, họ rời bỏ người vợ mới cưới
hay người họ mới yêu để tập kết
ra Bắc. Ra ngoài Bắc rồi, nhiều người lập
gia đ́nh mới nhưng lại vẫn theo lệnh đảng
và nhà nước ngoài Bắc, trở về Nam chiến
đấu, họ t́m và được người vợ,
người yêu khi xưa tận t́nh giúp đỡ, che chở,
nuôi giấu. Hơn thế, cái trứng "tu hú" trước kia gửi
trong bụng vợ (hay
người yêu), được sự bảo bọc của
xă hội miền Nam, cũng sẵn ḷng làm chuyện đó.
Bởi thế CS mới phát động được cái
gọi là "chiến tranh nhân dân", nhất là ở những
vùng xôi đậu. Bởi thế mới có chuyện con cái
của đảng viên tập kết lớn lên trong miền
Nam, cũng được học hành tử tế, cũng
được phép phục vụ trong hàng ngũ quân cán
chính miền Nam, và nhiều kẻ đă len lỏi vào tận
những cơ quan, đơn vị ṇng cốt của chế
độ Cộng Ḥa và chỉ lộ mặt sau ngày
30/4/1975! Bên cạnh đó cũng phải nhắc đến
số đảng viên được lệnh theo chân
đoàn người di cư vào Nam sau ngày hiệp định
Geneve 1954, để rồi trong 21 năm chiến tranh, cũng
là những phần tử nằm vùng hoạt động
cho miền Bắc.
Thế rồi ngày
30/4/1975 đến. Nhiều người dân miền Nam di tản
kịp thời, được định cư ở các
nước Âu Mỹ, và tiếp theo sau đó là những
đợt thuyền nhân, bộ nhân lũ lượt bỏ
quê hương, rời gia đ́nh họ hàng vượt biên
vượt biển đi tỵ nạn. Lại một lần
nữa trong hàng ngũ tỵ nạn lại đầy dẫy
những kẻ "ra
đi theo chỉ thị". Con cái những kẻ
này trưởng thành, học hành, thành tài tử tế là nhờ
sự che chở, giúp đỡ của các nước tự
do, như thể chim tu hú lớn lên trong tổ chim sáo sậu
và những đứa con ấy khi lớn lên, lại tiếp
tục công việc của cha mẹ được đảng
và nhà nước CSVN giao phó là ḥa trộn vào tập thể
tỵ nạn, xúi giục gây mâu thuẫn, bất ḥa để
cái cộng đồng tỵ nạn ấy càng ngày càng suy yếu
đi. Và trên hết là làm sao để nắm quyền lănh
đạo những hội đoàn, đoàn thể trong cộng
đồng, dần dần lèo lái cộng đồng -và lớp
trẻ con cái những người tỵ nạn chân chính rời
xa lư tưởng mà cha mẹ đă phải liều ḿnh hy
sinh cố t́m ra sự sống trong cái chết của thuở
ban đầu!
Công việc chống
Cộng mỗi ngày một khó khăn. Đối
phương ở xa chưa làm ǵ được mà nội
bộ, đồng bào, chiến hữu từng cùng thân phận
tỵ nạn đă xào xáo, chia rẽ. Mười hội
th́ ít ra cũng năm, sáu thể nào sau một thời gian
hoạt động hăng say, đoàn kết gắn bó keo
sơn cũng phân làm hai, cố dành bằng được
vai tṛ "chân chính", không ngại ngần thóa mạ, chụp
mũ những người mới hôm trước c̣n là
đồng chí, chiến hữu là "tay sai VC", là
"nằm vùng". Ai nói phải quấy th́ chụp ngay
cho cái "nón cối". Chuyện buồn cười (và
đắng cay ấy) như thế cứ liên tiếp xảy
ra, hết lúc này đến lúc khác, hết nơi này tới
nơi khác. V́ nếp sống tự do và nguyên tắc tôn trọng
đa số của các nước định cư chỉ
phù hợp với một nền sinh hoạt chính trị dân
chủ kiểu Tây phương, dựa trên truyền thống
phong tục đă có lâu đời; nhiều
người có ḷng nhưng v́ tự trọng đành ngậm
ngùi rút lui, từ giă mọi sinh hoạt để mặc
cho kẻ khác tha hồ nhảy múa.
T́nh thế lại
càng trở nên khó khăn hơn cho những người c̣n
có ḷng, có chí tranh đấu cho một đất nước
Việt Nam tự do dân chủ không Cộng sản kể từ
khi Hoa Kỳ và các nước Tây phương theo chủ nghĩa
tư bản băi bỏ cấm vận, bắt tay với chế
độ cầm quyền ở Việt Nam để làm
ăn. Giao thương ngày càng tăng dẫn theo một làn sóng "tu
hú" mới từ trong nước ào ạt đổ
ra hải ngoại để "đẻ
trứng" vào những chiếc tổ mà đoàn "sáo sậu tỵ nạn"
đă dày công xây đắp.
Thử nh́n ở
nước Úc này th́ thấy ngay! Với làn sóng du học
sinh và lấy chồng lấy vợ (thật lẫn giả)
ngày càng gia tăng; chuyện thực tế phải đến
đă đến là thành phần người tỵ nạn
thật sự trong cộng đồng người Việt
định cư ở Úc càng lúc càng hao hụt đi nhiều.
Điều này khiến cho cuộc chiến nhằm đạt
được tự do, nhân quyền và dân chủ cho
người dân tại quê nhà vẫn c̣n đầy khó
khăn. Chế độ CSVN trong bao năm qua vẫn không
bao giờ lơ là việc tấn công vào thành tŕ tỵ nạn
hải ngoại bằng đủ mọi phương cách
qua việc ban hành và nỗ lực thi hành nghị quyết
36.
Sau thời kỳ
hoạt động mạnh mẽ -cả về chính trị
lẫn quân sự- của những năm đầu ngay sau
1975, nhiều tổ chức đảng phái của người
Việt tại hải ngoại đă đóng góp khá nhiều
vào cuộc đấu tranh chung. Nhưng đáng tiếc
trong khoảng gần 2 thập niên trở lại tới
nay, rơ ràng t́nh h́nh đă diễn biến theo chiều hướng
bất lợi hơn cho khối người Việt tỵ
nạn ở hải ngoại. Trong thời gian đó, một
bên là lớp người tỵ nạn ban đầu (thế
hệ thứ nhất) ngày càng già yếu, hao hụt dần,
lư tưởng "chống Cộng" mỗi ngày mỗi
bớt đi mà chiến thuật
"đẻ nhờ" của tu hú vẫn
được CSVN tận t́nh khai thác. Họ đem "trứng CS" gieo khắp nơi, bất cứ lúc nào
thuận tiện ở bất cứ nơi đâu có người
Việt định cư. Ba mươi năm
qua, nhất là từ khi phải mở cửa từ năm
1990 đến nay, việc du lịch, du học hay lập
gia đ́nh giữa trai hải ngoại, gái trong nước
(hay ngược lại) đă thành chuyện b́nh thường.
Nhưng có ai dám nói chắc rằng trong những cuộc hôn
nhân ấy không có trường hợp CSVN dùng để tiếp
tục gửi người ra nước ngoài? Gửi
"cái trứng" ra ngoài, cái trứng đó được
người Việt ở hải ngoại chăm sóc; hay
nói cho đúng hơn là "cái trứng" đó được
xă hội các nước khác nuôi nấng bảo bọc; với
việc gửi trứng đó, CSVN có thiệt tḥi ǵ? Khi trứng
phát triển, trưởng thành bắt đầu làm việc,
để cung phụng lại nơi được coi là
nguồn gốc, nơi đă gửi chúng ra nước
ngoài, đó là điều Hà Nội không trông mong ǵ khác
hơn.
Chưa kể, khi
nhà cầm quyền CSVN trước bờ vực sụp
đổ v́ kinh tế kiệt quệ, phải chọn con
đường "mở cửa kinh tế" để
vừa cứu văn chế độ, vừa thu hút được
ḷng hám lợi của tư bản ngoại quốc và đặc
biệt, không ít bọn "ăn cơm quốc gia thờ
ma cộng sản", bọn chỉ v́ đồng tiền
sẵn sàng quay lưng 180 độ, phủ nhận ngay
chính những ǵ chúng từng mạnh miệng khi vừa
định cư để trở về ôm chân những
lănh tụ CS, những kẻ mà mới hôm trước chúng
c̣n đả đảo! Người Việt tỵ nạn
ở Úc trong hai thập niên qua đă lần lượt chứng
kiến tận mắt, nghe tận tai những vụ
"trở cờ, đón gió" ấy. Và đáng buồn
thay, những khuôn mặt phản bội ấy đa số
là những kẻ từng cũng có thời là quân nhân, là
công chức VNCH, từng cũng có thời là Chủ tịch
Cộng đồng, Chủ tịch Cựu quân nhân .. Vậy
mà lần lượt "cóc chết ba năm quay đầu
.." hết lời ca tụng "đất nước
đổi mới, đời sống kinh tế phát triển"
, liếm sạch những thứ mà chúng trước đó
đă nhổ!
Cũng vẫn chuyện
"tu hú đẻ
nhờ để rồi chiếm cả tổ sáo sậu" trong
cộng đồng người Việt tỵ nạn tại
Úc càng lúc càng có nhiều điều xác nhận rằng
"công sức xây dựng cộng đồng đến mức
phát triển như ngày nay" đang dần dà có nguy cơ
về tay CS. Bao năm nay chúng ta nói nhiều đến chuyện
CSVN ra sức xâm nhập vào cộng đồng về mọi
mặt. Nếu chịu khó nh́n kỹ một chút th́ không khó
ǵ để không thấy. Trong mọi lĩnh vực, từ
truyền thông, văn hóa đến xă hội, giáo dục;
sau gần 40 năm định cư cộng đồng
người Việt tỵ nạn tại Úc đă xây dựng
được rất nhiều cơ sở và dần dà
phát triển càng ngày càng lớn mạnh. Thế nhưng có
bao giờ chúng ta băn khoăn rằng "những cơ
sở ấy tương lai sẽ do ai quản trị, ai
điều hành và đường lối hoạt động
có c̣n giữ nguyên vẹn như ban đầu là phục vụ,
đáp ứng nhu cầu của người Việt tỵ
nạn và tiếp tục công cuộc tranh đấu cho một
nước Việt Nam thật sự dân chủ, tự do,
cho người dân được hưởng mọi quyền
làm người?"
Những cơ quan
truyền thông Việt ngữ - cả của tư nhân lẫn
của chính phủ lập ra để phục vụ cộng
đồng Việt tỵ nạn - đă có bao nhiêu bộ mặt
mới? Bao nhiêu gia đ́nh chỉ v́ thích nghe tiếng Việt,
đă mở cửa cho các chương tŕnh truyền h́nh của
nhà nước CSVN tiếp vận qua vệ tinh xâm nhập
vào nhà 24 trên 24 giờ mỗi ngày? Bao nhiêu lớp học Việt
ngữ dạy cho trẻ con tại Úc bằng giáo tŕnh do Bộ
Giáo dục CSVN soạn thảo? Những đoàn thể xă hội
đă có thêm bao nhiêu thành viên mới, không ít người là những
kẻ đến Úc theo diện di dân - đoàn tụ gia
đ́nh hay doanh nhân, và trong số đó bao kẻ là cán bộ,
viên chức nhà nước CSVN t́m đủ mọi cách tẩu
tán tài sản làm ăn bất chính? Biết bao nhiêu tu sĩ
"quốc doanh" chễm chệ trong các cơ sở
tôn giáo mà người tỵ nạn đă chắt bóp công sức
bao năm xây dựng? Bao nhiêu kẻ - đă và sẽ - là
người hưởng thụ những dịch vụ
chăm sóc phụ nữ, người già - do chính phủ tài
trợ, giúp đỡ cho các hội đoàn đoàn thể
trong cộng đồng lập ra, với sự đóng góp
của biết bao nhiêu người hằng tâm hằng sản
vô danh? Như thế nếu không gọi là "tu hú xâm lăng chiếm tổ
sáo sậu" th́ gọi là ǵ?
Nhưng quan trọng
hơn, có ai nghĩ đến thế hệ tương lai
con cháu chúng ta lớn lên chúng lâm cảnh "trông gà hoá cuốc",
kẻ thật tưởng người gian .. và ngược
lại, trông kẻ gian mà cứ ngỡ là người ngay
thẳng để rồi như "Cô bé quàng khăn đỏ"
bị chó sói ăn thịt mà vẫn cứ tưởng là
ḿnh được người bà kính mến yêu
thương? Đến khi đó th́ cuộc chiến giữa
cái thiện và cái ác đă sang trang. Và khi đó th́ thế hệ
thứ nhất này chắc chắn không thể nào ngậm
cười nơi chín suối được.
VIỆT LUẬN
(VN giới thiệu, DucHoaiLam sưu tầm, Kim Oanh chuyển)