New Orleans : Gởi thêm một
chút tình buồn
(T.Vấn)
Tiếng kèn đồng điệu Blues buồn
ai oán
Tiễn người đi phận bạc một kiếp
người
Mai gió sớm có đêm nào ghé
lại
Thổi Blues xanh phố cảng một nốt buồn
(Điệu Blues buồn – Linh Vũ)
1.
Chẳng hiểu điều gì
đã gắn bó tôi với New Orleans. Có thể vì
nơi đó có mấy người bạn thuở
ấu thời của tôi sinh sống, bám trụ.
Có thể vì chuyến viếng thăm một
mùa hè năm nào trước trận bão
Katrina với New Orleans khiến tôi bị "tiếng
sét ái tình", như những ngày trai
trẻ bị hớp hồn chỉ vì một
khuôn mặt thiếu nữ bắt gặp bâng
quơ đâu đó. Có thể vì New Orleans là
cái nôi của nhạc Jazz, loại
nhạc mà tôi ưa thích từ khi biết
thưởng thức âm nhạc. Tiềm thức
tôi còn đậm nét hình ảnh một
đêm ở góc phố Bourbon, người nhạc
công da đen vật vã ôm cây kèn
như ôm người tình có nước da
bóng lẫy, những ngón tay bám riết
trên phím kèn như những ngón tay run rẩy
cấu cào của đêm đen nhiệt đới
và âm thanh ậm ực, hổn hển phát ra
từ cây kèn, thứ âm thanh làm ngập
ngụa cả một góc phố, làm rạo rực
cơ thể, làm rũ liệt lòng người.
Tháng 9 năm 2005, khi cơn bão Katrina nhận
chìm New Orleans trong biển nước, tôi
đã gởi đến New Orleans và những
cư dân tội nghiệp của nàng "Lời
tình buồn gởi New Orleans", như tiếng
kêu thảm thiết của kẻ lãng mạn
đa tình "yêu ai mà người nào
đâu có hay". Tháng 9 năm 2006, trong niềm
tưởng nhớ khôn nguôi "người
tình tội nghiệp "cùng sợi dây
thân tình trói tôi với những người
bạn còn can đảm bám lấy New Orleans,
tôi cũng đã cặm cụi nhìn"New
Orleans : Một năm sau cơn bão Katrina ". Còn
bây giờ, hai năm sau, "tình yêu
đơn phương "ấy có phai nhạt
chút nào không ?
Dạo đầu mùa hè năm nay, tôi
đã có ý định quay trở lại
thăm New Orleans "cho đỡ nhớ", dù trong
trí tưởng tượng đã có thể
hình dung ra bao vẻ tàn tạ xác xơ
mà sau một trận phong ba bão táp
đã lấy đi tất cả những gì
trước đây vốn là niềm kiêu
hãnh của "nàng ": nhan sắc, sự
giàu có phong lưu, tâm hồn phóng dật
lãng mạn, và cả ý chí vươn
lên dũng mãnh. Nhưng sau khi trao
đổi ý kiến với những người bạn
sinh sống bên đó, họ làm cho tôi
chùn bước. Họ sợ
tôi thất vọng. Họ sợ
hình ảnh "nàng "bây giờ sẽ khiến
tôi không bao giờ dám nhắc đến
tên New Orleans
một lần nào nữa. Như
người tình rực rỡ thuở hoa niên, mấy
chục năm sau nhìn lại chỉ còn là
bà cụ già móm mém, tóc bạc
phơ, da lốm đốm đồi mồi, mắt hom
hem không nhận ra được người xưa (cũng
tàn tạ không kém).
Hai năm sau mà vẫn đến nông nỗi
ấy sao ? Tôi buồn
bã hỏi.
2.
Thư trả lời của bạn
tôi cũng buồn bã không kém.
Hãy đặt chân trở lại
New Orleans
đi, bạn sẽ cảm nhận được "something
wrong "đang ngự trị. Chỉ gõ bước chân trên con
đường lừng danh Bourbon thôi ư
? Coi chừng bạn đang bị
đánh lừa. Dù các
quán xá, khách sạn, nhà hàng
đã mở cửa trở lại. Dù
mùa Mardi Gras tháng 3 năm 2007 vừa rồi
đã lôi kéo được 75% khách du lịch
so với thời Pre-K (trước trận bão Katrina).
Dù khu French Quarter hầu như
đã lấy lại được phong cách
đáng yêu, nét phong lưu cổ kính cũ.
Dù đêm đêm vẫn nhộn
nhịp tiếng đàn lời ca vọng ra từ những
nhà hàng có ca nhạc giúp vui.
Dù ngụm cà phê đá của Café
Du Monde vẫn thơm lừng trong miệng,
chiếc bánh Beignets vẫn bắt thèm phải gọi
thêm một cái nữa bất kể lượng
đường trong máu đã vượt cao
hơn lời dặn của bác sĩ.
Hãy rảo bước chân ra khỏi con
đường Bourbon, cách đó một bloc
đường là con đường
Canal huyết mạch,
bạn sẽ thấy một khung cảnh hoàn toàn
khác hẳn. Những tòa nhà cao
tầng vẫn hoang phế, nhà thờ thì
còn đóng cửa, viện bảo tàng
thành phố vẫn đầy những mảnh gạch
ngói vụn vỡ. Hình ảnh
chiếc Streetcar đặc thù của New Orleans vẫn chưa thấy xuất
hiện. Nếu có chăng chỉ là "A
Streetcar named Despair " - Chuyến xe mang tên Tuyệt Vọng
(anh bạn tôi hóm hỉnh nhái tên một
vở kịch lừng danh của nhà văn Mỹ
Tennessee Williams, A Streetcar named Desire - Chuyến xe mang tên Dục
Vọng. Trong thực tế, đường xe điện
Desire Street (ở New Orleans) đã có từ trước
năm 1948. Từ năm này trở đi, nó
đã bị thay bằng xe bus). Và, đáng sợ hơn hết,
đường phố vắng tanh, như sau cơn hồng
thủy. Cũng trên con đường Canal 3
năm trước, trong lúc mở cửa xe để
hỏi thăm một người tài xế Taxi
đường quay trở về khách sạn, bà
cụ thân sinh ra các con tôi đã sơ
ý đánh rơi cái xách tay đầy ..
khăn giấy, bằng lái xe và một ít tiền
mặt xuống đường mà không biết. Một
lúc sau, tôi ngạc nhiên nhìn kiếng chiếu
hậu thấy người tài xế rượt theo, tay thò ra cửa sổ vẫy vẫy.
Ngừng xe lại, chúng tôi mới
biết nguyên cớ ông đuổi theo là
để đưa lại cái xách tay. Tất nhiên, bà cụ cám ơn rối
rít.
Đi xa hơn nữa, qua những
vùng ngọai ô New
Orleans, vùng phụ cận, sự
hoang tàn lại càng rõ nét hơn. Dù đã hai
năm sau trận bão thế kỷ, khung cảnh khiến
người ta có cảm tưởng nó mới xẩy
ra hôm qua. Nhiều khu chung cư
vẫn còn không có người ở, các
bệnh viện đóng cửa (ngoại trừ một
khu Cấp Cứu miễn phí được xây
theo lối dã chiến trong một khu trước
đây là Department Store), trường học
thì rải rác đây đó cái
đóng cái mở. Riêng khu Bernard
Parish, trong số 26 trung tâm giữ trẻ, chỉ
có 2 mở cửa lại.
Khu Lower Ninth Ward, nơi thiệt hại nặng nề
nhất, chỉ có hơn 1 ngàn cư dân quay
trở lại so với 19 ngàn người trước
đây, dù 2 phần 3 dân số của New
Orleans đã lần lượt hồi cư. Lower Ninth Ward không phải là "ghost town
"duy nhất. Nhiều nơi khác
cỏ mọc lên đến đầu gối, vì
không có người ở để chăm
sóc.
Vấn đề tội phạm là
một ám ảnh khác cho những người hồi
cư. Trước Katrina,
New Orleans
đã có tỉ lệ tội phạm cao nhất
nước. Bây giờ, tình hình
cũng không có triển vọng khá hơn.
Năm 2006, trong 161 vụ án sát
nhân của thành phố, chỉ có một bị
kết án. Từ đầu năm 2007 đến nay,
đã có 154 vụ, gấp 15 lần số vụ
án giết người của thành phố New
York.
Nhưng, quan trọng hơn hết, theo
lối nói của anh bạn tôi, là người
dân New Orleans
vẫn còn sống trong tình trạng "Sleeping
with enemy "(Ngủ với kẻ thù - tên một
cuốn phim rất ăn khách với nữ tài tử
đọat giải Oscar Julia Roberts). Anh bạn tôi muốn
ám chỉ đến những cơn bão hàng năm sẵn
sàng nhận chìm New
Orleans một lần nữa, nhiều lần
nữa, mặc dù
các đội ngũ công binh
đang làm việc ngày đêm với một
kinh phí khổng lồ để nâng cao và củng
cố các đập nước quan trọng bao quanh
thành phố. Theo các giới chức
thẩm quyền, công việc không thể hoàn
tất trước năm 2011, và sau đó
(năm 2011), một cơn bão tầm cỡ Katrina vẫn
nhận chìm được New Orleans, dù với mức
độ thiệt hại ít hơn.
Vì vậy, tiến trình
tái xây dựng các công trình kinh doanh,
thương mại, nhà cửa được thực
hiện rất chậm chạp. Người
ta không tin tưởng lắm vào tương lai của
New Orleans. Đã đành là nhân
công khan hiếm cũng góp phần vào sự
trì trệ trong lãnh vực xây dựng,
nhưng ngược lại, New Orleans nhận được
lượng công nhân rất lớn từ các
cộng đồng người Hispanic. Từ tháng 9
năm 2005, hàng trăm ngàn người di dân
đến từ Honduras, El Salvador, Mexico, Guatemala và
các quốc gia châu Mỹ La Tinh khác
đã đổ về New Orleans, bởi vì,
nơi đây có công việc làm cho họ.
Hiện nay, ước lượng có từ 120
ngàn cho đến 150 ngàn người Hispanic sinh sống
và làm việc ở New Orleans so với khỏang
60 ngàn thời Pre-K. Nhưng bấy
nhiêu chưa đủ làm nhạt bớt mầu sắc
ảm đạm ở những khía cạnh khác
của thành phố.
3.
Cũng như Sài Gòn thân yêu của
tôi đã được mệnh danh là
"Hòn Ngọc Viễn Đông", thành phố
New Orleans đã được văn hào Mỹ
Mark Twain nhắc đến trong tác phẩm của
mình với bí danh lâu đời "the city
that care forgot " nhằm ám chỉ cái phong
cách tự nhiên, không cầu kỳ khách
sáo của thành phố cũng như nhấn mạnh
đến tính cách "buông
thả " (carefree nature) của
phần lớn cư dân của New Orleans. Trong bầu
không khí luôn hừng hực nỗi đam
mê cháy bỏng của nhạc Jazz, hòa lẫn
cùng hơi nóng của đêm nhiệt đới,
hơi nóng từ thân thể đầy nhựa sống
những cô gái có nước da cháy nắng
và khét mùi nước biển, thành phố
lúc nào cũng có tư thế sẵn
sàng cho những buổi lễ hội. Nhưng
đó là ấn tượng về New Orleans những ngày Pre-K.
Thứ ấn tượng đã khiến cho du
khách không thể lẫn New Orleans với bất cứ
thành phố nào khác mà họ đã
đặt chân tới, thứ ấn tượng
mà khi rời khỏi New Orleans người ta sẽ phải
nhớ để mang theo, và trong mỗi chặng dừng
chân trên đường lữ thứ, người
ta sẽ phải giở ra, "ngửi" lại để
ngậm ngùi.
Cái không khí đặc thù ấy,
nay có còn không ?
Anh bạn tôi, cư dân hơn 20 năm của
New Orleans,
người cương quyết bám trụ ngay từ
những ngày thê thảm nhất của thành
phố, người có cảm quan nhậy bén với
từng vùng đất, con người nơi anh
bước qua, đã cho tôi câu trả lời
buồn bã không kém. Có lẽ
đã hết rồi một New Orleans của lịch sử, của
truyền thống, của thứ biểu tượng
văn hóa thuần khiết và hoang dã.
Anh bảo tôi hãy so sánh Sài Gòn của
những năm 80s với những năm tháng
chúng ta hãnh diện về Sài Gòn như
"Hòn Ngọc Viễn Đông" của thế
giới, rồi đem cảm giác đó liên
tưởng đến New Orleans bây giờ so sánh
với New Orleans thời Pre-K. Làm tôi
lại nhớ đến một bài hát của
người bạn nhạc sĩ, mà Sài Gòn
với anh như là một phần máu thịt
không thể tách rời. Khi xa Sài
Gòn những năm 80s, anh đã viết về
Sài Gòn, có những câu :"
.. còn đâu hồn công
viên, còn đâu hồn giáo đường,
còn đâu .. còn đâu
hồn người Sài Gòn " (Thành phố
Lá me Bay - Trần Lê Việt ). Những năm
tháng ấy, Sài Gòn đã không
còn là Sài Gòn, vì hồn người
Sài Gòn đã theo với những chuyến xe
lửa chuyển tù cải tạo đi khắp
vùng đất nước, đã theo với những
chiếc ghe vượt biên lênh đênh
trên biển cả mênh mông, đã theo với
những đoàn người bị cưỡng
bách rời bỏ thành phố về những
vùng kinh tế mới rừng thiêng nước
độc. Như vậy là tôi đã hiểu
rằng, thể xác của New Orleans bây giờ vẫn
còn đó, buồng ngực French Quarter đã
gần lấy lại được nét phong độ
xưa, nhưng trái tim - cái hồn người
New Orleans - hình như vẫn chưa quay trở về,
chưa muốn quay trở về hay sẽ không muốn
quay trở về.
Thế là quá đủ cho một trận
thiên tai. Không có cái hồn
của người Sài Gòn thì Sài
Gòn cũng chỉ là một thành phố
hãnh tiến như bao thành phố khác ở
Châu Á. Không có cái hồn của
người New Orleans thì New Orleans cũng chỉ
là một thành phố ồn ào như bao
thành phố khác của nước Mỹ.
Tôi thầm cám ơn người bạn già
bên ấy, đã can ngăn không cho tôi
đi gặp lại New
Orleans. Nếu không nghe
lời anh, chắc là tôi thất vọng lắm.
Dù sao, tôi vẫn muốn gởi thêm chút
lời tình buồn nữa đến với New
Orleans, để mai đây, khi tình cờ có gặp
lại được New Orleans một lần nữa,
mà nếu tôi và "nàng” có
nhìn nhau như hai kẻ lạ mặt thì chắc
"ai kia "cũng chẳng nỡ trách tôi
là kẻ bội bạc.
T.Vấn
-Mùa
bão 2007-
(Bai Chuyen)