MẢNH GIẺ VỤN
(Võ Thị Điềm Đạm)
Sức gió từ hai cái quạt khổng lồ
treo ở hai bên tường cao thổi ào ào
vẫn không giảm được mùi mồ
hôi người hanh hanh, không đánh tan
được cái nóng hâm hẩm tháng
tư làm lớp da dưới cánh áo thun ri rỉ
ẩm. Phim gì mà chán quá, nói
hoài thôi, ngồi bó gối, ngồi chồm hổm
trên ghế, ngồi gác chân lên ghế
trước, đủ kiểu ngồi cũng không hết
chán. Cái thằng Lục Đen cà chớn thiệt
tình, đòi coi cho được phim này. Uổng
tiền, phải chi hồi nãy theo tụi thằng Hải
Bụng, thằng Hải Cò, thằng Tám Lé
ra bến Ninh Kiều, dọc vườn bông chọc
phá mấy cặp ngồi rù rì, để tiền
mua chuối nướng dì Ba Ốm, thế nào
dì cũng chan thêm nước dừa béo ngậy,
liếc ngó con Hương Teo con của dì một
cái, cũng đã lắm rồi. Giờ này
chắc con Hương Teo đang quạt lửa than,
ánh lửa làm ửng đôi má, làm
ánh mắt nó long lanh. Hừm ... tụi nó ngu
quá, cứ kêu con đó là Hương
Teo. Nó teo là tại nó ốm, nó còn
nhỏ, nhưng đôi mắt nó, đen lay
láy, nhìn xớt qua cũng vui rồi, hình
như nó cũng nhìn xớt qua mình nữa
sao đó. Thôi, chút xong phim, chạy tạt qua
gánh chuối nướng của dì Ba Ốm một
cái ... hừm, không còn đồng nào
dính túi ... hừm ... cái phim cà chớn.
Thọc tay vô bịch ny lon, quậy tìm trong
gói đậu phộng luộc, hy vọng còn
sót vài hột, hừm, toàn là vỏ
ướt nhẹp. Đang bực vì thằng Lục
Đen ăn sạch không chừa một hột, em hết
hồn khi cánh tay bị ai kéo ngược ra phía
sau, đau điếng, quay lại nhìn. Ủa,
má, má làm gì mà coi bộ gấp dữ
vậy. Má kéo em xồng xộc tuốt ra
ngoài, không nói không rằng. Hơi
mát ban đêm không làm giảm cơn sửng
sốt, nhưng em không dám cưỡng lại
vì thấy gương mặt má có vẻ
nghiêm trọng quá. Má nói nhỏ: "Lẹ,
lẹ đi con, chạy con ! Đi đâu mà đi
mất tiêu không nói cho ai biết, kiếm
nát chợ từ chiều đến giờ, chạy
con !"
Không cần giải thích là đi
đâu, tại sao phải chạy gấp, má chạy,
em cắm đầu cắm cổ chạy theo. Sao lại
không về nhà ? Đêm tối mà má
chạy xồng xộc vô vườn nhà cậu Bảy
chi vậy ? Xuống chiếc xuồng con đang chờ
ngoài con rạch sau vườn, em nhận ra ba và
bốn đứa em ngồi co ro chờ ở đó.
Bây giờ em mới hiểu. Từ lâu, em
đã nghe người lớn thì thầm chuyện
vượt biên, nghe đồn gia đình người
này đã đi vượt biên thoát
được, gia đình người kia bị bắt.
Ngay cả ông bà ngoại, các cậu, các
dì cũng đã vượt biên hơn hai
năm nay, hiện đang ở Na Uy nên ba má em cũng
muốn đi luôn, qua Na Uy ở với ông bà
ngoại.
* * *
Em giận run, giựt mạnh cái áo
khoác treo gần cửa, chạy ra đường. Trời
cuối thu nên gió rít lạnh buốt,
đường ướt nhẹp nhưng không
làm chùn được bước chân em. Em
phải đi, đi thật xa, xa cái nhà có
ba má, có mấy em. Càng nhớ lại lời
má dặn hồi nãy, nghĩ tới gương mặt
ba giận dữ, em càng tức. Nói đúng
hơn là em vừa tức vừa buồn, buồn
đến hoang mang là không biết mình sẽ
làm gì. Cơm nước vừa xong, chưa kịp
coi chương trình TV thiếu nhi đài NRK
lúc sáu giờ thì má dặn, rõ
ràng:
- Từ nay con không được kêu ba
má là ba má nữa mà phải kêu
là cậu Hai, mợ Hai.
Em không hiểu trọn câu nói của
má, không hiểu là má nói với ai
nhưng sao tự nhiên em hỏi lại:
- Sao vậy ?
- Nhà mình chỉ còn gia đình cậu
Bảy ở lại Việt Nam. Ông bà ngoại
muốn bảo lãnh vợ chồng cậu mợ
và các em qua Na Uy luôn mà chắc chắn
là không được. Đi vượt biên
nguy hiểm quá. Con làm con của cậu Bảy,
con bảo lãnh cho cậu mợ và mấy đứa
nhỏ qua thì nhanh hơn.
- Con đâu phải là con của cậu Bảy.
- Thì từ nay con là con của cậu Bảy,
phải kêu ba là dượng Hai, má là
dì Hai, nhớ chưa.
Giọng ba đầy mùi bia nhưng ráng
làm ra vẻ nghiêm nghị:
- Biểu sao thì nghe vậy, bày đặt hỏi
tới hỏi lui. Nhớ chưa, ai hỏi thì
nói ba má và ba đứa em còn ở Việt
Nam,
một mình vượt biên qua đây với
dì Hai dượng Hai.
- Còn nữa, ai có hỏi tuổi thì
nói con chín tuổi.
- Chín tuổi ? Con mười hai tuổi chớ
không phải chín tuổi.
- Không có cãi tới cãi lui, tao
tát một cái là trẹo họng cho hết
cãi.
Có nghĩa là từ đây em sẽ
nói láo. Láo đủ chuyện, làm sao em
nhớ cho hết đây, lỡ em quên thì sao.
Tại sao ba má không muốn em là con của ba
má nữa ? Ba má không thương em nữa
sao ? Mấy đứa em có còn là em của
em nữa không ? Tại sao ? Tại sao ? ĐM, bắt
em nói láo thì em nói láo, sợ
gì ai. Không cho em làm con của mấy người
thì em tìm chỗ khác ở. Ở đâu
? Nhà ngoại ? Nhà cậu Ba? Nhà dì
Hà ? Hay xin vô nhà mồ côi như thằng
Alexandre. Thằng này vậy mà sướng, đi
học có xe taxi đưa đón, người ta
cho tiền xài không hết, mỗi tuần
được taxi đưa về thăm gia
đình. Nhưng làm sao xin vô nhà mồ
côi ở được. Tưởng gì, vượt
biên được qua đây thì ba không
thương em nữa, má không thương em nữa,
ba má không muốn có em là con nữa. Biết
vậy em trốn, không thèm theo má xuống
chuyến xuồng đêm đó.
* * *
Thiệt là xấu hổ, em gần mười
ba tuổi rồi mà phải ngồi chung với tụi
mới chín tuổi. Dầu cho vóc dáng em
không to hơn tụi trong lớp chi cho lắm nhưng
em cảm thấy em lớn hơn tụi nó nhiều lắm.
Lớn mà ngu. Đúng vậy. Đã ngu
thì em phải làm mọi cách cho tụi
nó nể, nể chuyện gì cũng được.
Một tuần em được học riêng sáu
giờ tiếng Na Uy với ba đứa em, con Hạnh
mười tuổi, thằng Tín tám tuổi
và cả con Út Lan bảy tuổi. Cũng là
một mối nạn vì thằng anh lớn mà
cùng học abc với đám em, coi bộ tụi
nó vô tư học nói học nghe còn giỏi
hơn thằng anh to đầu. Những giờ còn lại
là em ngồi miết trong lớp, ngày này qua
ngày kia. Ngồi nghe như vịt nghe sấm. Nghe chữ
mất chữ còn. Thường thì đoán
mò dần dần được năm ba chữ. Liếc
chừng tụi nó làm gì thì em làm
theo. Tụi nó cười thì em cũng cười.
Tụi nó la ó thì em la to hơn. Tụi
nó chạy phá trong lớp thì em cũng chạy
cũng phá. Nhưng chừng tụi nó ngồi
yên làm bài thì em không sao ngồi
yên được vài phút chứ nói chi
cả tiếng đồng hồ. Biết gì
đâu mà làm. Chẳng lẽ hỏi cô
giáo hoài, mà cũng không biết hỏi
cái gì. Ngồi yên không được
thì em kiếm chuyện phá thằng ngồi
trước, giựt sách con nhỏ ngồi kế
bên, đi lại thằng ngồi đầu bàn
làm bộ mượn cây thước, đi ngang
qua thúc cùi chỏ vô thằng này, hất
giày con nhỏ kia, đủ chuyện để
làm cô giáo bực mình. Cô càng bực
mình, em càng thích phá. Tại vì khi
cô giáo bực là tụi trong lớp khoái
chí, tụi nó thích em.
Em sợ nhất là giờ ăn, một cực
hình. Cô giáo bao giờ cũng đọc truyện
cho cả lớp nghe trong khi tụi nó ngồi nhai nhỏ
nhẹ, phải yên lặng. Cô biểu em làm
gì, em còn không hiểu thì làm sao em hiểu
truyện cô giáo đọc. Tụi nó lắng
tai theo dõi câu chuyện, em ngóng tới
ngóng lui mong chuông reng. Tụi nó cười ầm,
mặt em thì trơ trơ ngó lơ chỗ
khác. Ngày nào cũng thế. Bữa ăn
trưa nào cũng vậy. Em kiếm chuyện đi uống
nước, đi quăng rác, đi lấy tờ giấy
lau tay, cố ý làm rớt hộp thức ăn,
cô giáo phải ngưng đọc hoài
thôi. Lúc này thì tụi nó không
thích chuyện em lục đục tới lui vì
như vậy cô giáo phải ngưng đọc
để la em, câu chuyện bị cắt ngang. Thường
thì cô giáo phải gởi em lên văn
phòng trong giờ ăn.
Bị bắt vô phòng cô giáo xã
hội để nghe cô hỏi chuyện hầu như
mỗi tuần, thét rồi em ngán. Em ngán,
ngán nhưng không cưỡng được. Thế
là em im lặng, không thèm trả lời hay chỉ
trả lời nhát gừng. Cô lắc đầu
chịu thua. Cô giận dữ. Cô năn nỉ.
Cô dỗ ngọt. Cô đặt giờ thông dịch
mời ba má lên họp. Không ai cạy
được răng em, không ai bắt được
em nói. Nói gì ? Em còn không hiểu
chính em thì làm sao em kể cho cô giáo
xã hội những câu hỏi đâu
đâu. Biết đâu mà trả lời. Trả
lời lạng quạng làm bể mánh của ba
má là về nhà bị ba đục cho bầm
mặt, bị má chưởi cho nát nước. Trường học, cô giáo, ba
má, làm sao hiểu được rằng những
giờ ngồi như vịt nghe sấm, trơ trơ
cái mặt trong lớp học là một sự
hành hạ dai dẳng, liên tục mà người
lớn đã giáng lên đầu một đứa
nhỏ như em. Cái thế
câm lặng vậy mà thành công. Riết rồi
không ai thèm ngó đến em.
Ngoài sân chơi, em ráng đeo theo tụi
lớp sáu, tụi cùng tuổi với em (tuổi
thật) nhưng tụi nó khinh thường em lắm.
Tụi nó kêu em là "con khỉ tóc
hoe". Nghĩ cho cùng, tụi nói kêu em
là con khỉ cũng không sai lắm. Mà con khỉ
tóc hoe càng không sai. Em không muốn ai
nhìn màu tóc đen thui trên đầu, em
muốn giống tụi nó, em nhuộm tóc
vàng vàng nâu nâu mà sao nó cứ ra
màu cam cam nâu nâu, hoe hắt. Em phải
ráng bắt chước tụi lớp sáu là
tụi lớn nhất trường để tụi
nó cho em theo sau giờ tan trường, lang thang
các trung tâm mua bán, ngóng nhìn người
qua kẻ lại. Em có thua gì tụi nó
đâu, từ cách chưởi thề, cách
đi xềnh xàng, cách nhổ nước miếng
cái bẹt, cách giựt banh của tụi lớp
nhỏ ... Luôn cả cách chôm chỉa trong chợ.
Chỉ có chuyện chôm chỉa là tụi
nó nể tài em. Chuyện này tụi nó
ngu lắm, và nhát nữa. Em hả ? Tỉnh queo.
Lượn một vòng vô chợ để
tìm mua bịch kẹo, xoay lưng nhét lẹ phong
kẹo vô túi áo khoác, quơ tay lấy hộp
kem vuốt tóc ... Mà em cũng không dại
gì rảo nhiều lần trong một tiệm. Nay
siêu thị này mai siêu thị kia.
Mấy món lấy được, em chia cho tụi
nó, em đem về nhà. Coi bộ má thích
dữ a. Má thiệt là khờ. Em nói tụi bạn
cho em mấy thứ đó vậy mà má tin.
Tháng này qua tháng kia, năm này qua năm
kia, hết ba năm cấp hai, má vẫn còn tin
như vậy. Ba cái món lặt vặt em đem về
bỏ tùm lum ở nhà. Má xài không hết,
má cho nhà ngoại, má cho bạn má.
Có lần nhân viên Bảo Vệ bắt
được em, mời ba má lên lãnh về.
Em khoái má chỗ này, má binh em, má bịa
ra là tụi bạn Na Uy bắt em ăn cắp, nếu
không là tụi nó đánh. Em thích
quá, im re. Thét rồi em đem món gì về
má cũng chẳng thèm hỏi, cần thì
xài, không cần thì quăng. Có khi
má còn biểu em xin tụi bạn món
này món kia. Nhưng rồi em cũng chán chuyện
chôm chỉa lặt vặt. Không ai la rày.
Không đủ đô. Trong người em luôn
luôn nóng nảy, mau giận, thích đập
phá một cái gì đó. Chỉ cần một
ánh mắt khinh thường, một lời chê kiểu
tóc chải, một xoay lưng là đủ
làm đầu em nóng bưng, là đủ
làm miệng em kiếm chuyện gây, là đủ
làm tay em tung ra không cần lệnh của cái
đầu.
* * *
Cái xứ gì
mà lạ lùng. Học dở học dốt
gì cũng cho lên lớp, học sao cũng
không thày cô nào dám la mắng. Cứ
mười lăm tuổi là xong lớp chín, phải
học xong lớp chín. Sau đó là tự
ý, muốn học tiếp thì học, không
thì lang thang kiếm công chuyện làm mướn.
Em chỉ mong cho xong lớp chín là được
tự do.
Bây giờ thì
em khôn lắm rồi. Cách đây hai năm, em
chán cảnh ba em sáng bia, chiều bia, bia một
mình, bia với mấy người bạn, bia
ngày thường, bia cuối tuần. Mà phải
uống bia không thì cũng đỡ. Đàng
này bia vô là lời ra. Ba càng ra lời
thì má càng lớn tiếng, em càng chuồn
xuống đường sớm. Em đánh lộn với
tụi Thái Lan trên Oslo, ngày hôm sau, mang
cái mặt bầm đi học, em kể với
cô giáo xã hội là em bị ba
đánh. Làm như vậy được hai lần
là nhà trường báo cho văn phòng bảo
vệ thiếu nhi, đem em đến một nhà mồ
côi ở một quận khác. Người Na Uy
ngây thơ lắm.
Muốn trốn khỏi
lời gây tiếng gổ mỗi ngày trong gia
đình, muốn được sống thoải
mái với tụi cùng tuổi, muốn được
có phòng riêng, muốn được có
tiền tiêu khá rộng rãi, nên em mới
làm đủ trò để được ở
nhà mồ côi. Vậy mà em không ngờ rằng
em nhớ ba má, nhớ các em đến nỗi em
chỉ mong đến chiều thứ sáu là
được về thăm nhà. Em phải có một
sợi dây kết nối, em sợ, sợ mình
là đứa trẻ mồ côi thực sự. Coi
bộ hình như ba má cũng thích giải
pháp này nữa, khỏi tốn cơm gạo, khỏi
tiếng la lời mắng. Tiếng là về nhà
chứ kỳ thực em có ở nhà được
bao lâu, đám bạn cũ rủ rê,
đám bạn mới hẹn hò. Thành phố
Drammen từ lâu đã trở thành quá nhỏ,
quá nhàm chán cho em. Em lân la lên Oslo.
Mười tám tuổi,
hết hạn được ở nhà mồ côi,
bỗng nhiên em bị quăng ra đời. Được
cấp một phòng trọ, một số tiền trợ
cấp hàng tháng trong khi chờ kiếm được
việc làm. Em không ngờ và nhân
viên phòng xã hội không hiểu cái
"sốc" hụt hẫng của một người
đang sống trong nhà mồ côi có bốn
người lớn chăm lo, bỗng chốc phải
hoàn toàn tự lập chỉ vì vừa
tròn một mức tuổi đã được ấn
định. Tháng trước, tháng sau, thế là
đường sống của em hoàn toàn thay
đổi. Miếng ăn miếng mặc, chuyện
làm chuyện chơi, mọi sự em lo mình
ên. Tội gì đi làm cho mệt xác.
Được hưởng trợ cấp xã hội,
có thì giờ mánh mung thêm, có
thì giờ tụm năm tụ ba, có cơ hội
thử hút thử hít. Được có
cái là em không ưa ba cái chuyện
hút sách, không ai cấm cản cả, chỉ
không ưa vậy thôi. Có biết bao chuyện
làm hồi hộp, hấp dẫn, nguy hiểm và
dễ kiếm tiền hơn.
* * *
Tôi nhào tới
bồi thêm một cái đá thiệt mạnh,
thằng Pakkis lăn qua một bên, nằm im rơ. Chẳng
cần ngó coi nó sống hay chết, hoảng
quá, tôi chạy băng qua sân vườn trẻ,
nhảy rào, tìm ra đường lộ, cố
giữ bình tĩnh khi đứng ở trạm xe chờ
chuyến xe buýt ra khỏi thành phố Drammen.
Đang thổi thổi hai tay cho ấm, nghe tiếng
thình thịch phía sau, tôi quay lưng. Thằng
Tự cũng vừa chạy tới trạm xe, tôi
nhanh trí, giả bộ ngóng cổ chờ xe tới,
làm như không quen biết gì nó. Nó
hiểu, nó cũng chẳng ngó ngàng gì
đến tôi, còn chu miệng huýt một
điệu nhạc nữa chớ. Tôi xuống trước
nó một trạm, ráng đi thật ung dung đến
nhà thằng Hòa Cò như thường lệ.
Mới chín giờ
tối thứ sáu mà hành lang khu chung cư vắng
hoe, tôi ngồi ngoài cửa chờ chưa
được năm phút thì thằng Hòa
Cò cũng về tới. Không hơn một tiếng
đồng hồ là cả đám tụ tập
trong nhà thằng Hòa Cò. Thằng Hòa
Cò này khôn tính, rộng tánh,
sòng phẳng và cư xử đàn anh, tụi
tôi tin tưởng nó, lợi tức tiền bạc
giao cho nó cai quản. Nó khôn, những lần
tụ tập ở nhà nó, không có cảnh
ồn ào nhậu nhẹt làm phiền lòng
hàng xóm, ra vô im lìm, không gây
chú ý. Nó sống một mình nên cả
băng tìm đến đây sau khi chạy tứ
tán để đánh lạc hướng cảnh
sát.
Thằng Hòa vừa
để nồi nước nóng với những
cây xúc xích đỏ nằm ngổn ngang,
quăng ra bàn ba gói bánh khoai tây, chai
tương cà, bịch hành khô, là cả
đám nhào lại, tranh nhau làm phần ăn
cho mình. Cũng thằng Hòa Cò, nó
bàn hơn tính thiệt. Nhất định cả
băng sẽ bị lấy cung, tệ lắm là bị
giam vài tháng, nhưng tất cả nhất định
không ai nhận là mình đã bắn hai phát
vô đám Pakkis, biết cũng không nói.
Đám Young A kéo từ Oslo xuống Drammen
tính chuyện ăn thua đủ, tính chuyện dằn
mặt băng Việt Maxi, tính tranh dành thị
trường cho chi nhánh đàn em ở Drammen. Tất
cả sẽ chối được cái gì
là chối, chối hết, nhất là chuyện tụi
cảnh sát Na Uy không đánh đập
nên không sợ, không khai.
Tụi cảnh
sát hay thiệt. Không về nhà riêng,
tôi bắt xe xuống Moss, nhà ba má, chưa nhắm
mắt là tụi nó gõ cửa. Biết trốn
cũng vô ích, tôi theo ra xe trong tiếng
khóc bỡ ngỡ của má, miệng há hốc
của ba, ánh mắt kinh hoàng của bốn đứa
em. Cảnh sát còn cho biết là cả
băng Việt Maxi, sáu thằng đều bị bắt,
thằng Hòa Cò cũng ngồi khám luôn. Ở
tù vậy mà yên. Chớ không, tôi phải
trốn tiệt trong nhà một thời gian, sợ
đám Young A tìm trả thù, nghe nói tụi
nó tính diệt từng thằng một. Yên
thì yên phần không bị trả thù
nhưng bụng thì lo không biết tụi kia
có giữ đúng lời là sẽ không
khai cái gì hết.
Cảnh sát phải
mướn thông dịch, thẩm vấn từng đứa
một, dọa dẫm, dụ dỗ hợp tác để
giảm án, thét rồi cảnh sát chắc chịu
thua đám Việt Maxi, miệng đứa nào cũng
kín như dán băng keo thứ thiệt. Trước
sau như một, tôi khai tôi đi lại nhà
dì ở gần đó, nghe tiếng súng, chạy
lại coi, bị tụi nó xô đẩy, tôi
tức quá đá cái thằng nằm ngay
chân tôi một phát rồi bỏ đi,
không biết gì nữa hết. Tôi nhận
tôi thường đi chơi chung với năm thằng
trong băng Việt Maxi. Khi tôi khai như vậy,
tôi nghĩ thằng Pakkis đó không phải chết
vì cú đá của mình. Quả thật
đến bây giờ tôi cũng không biết
chắc thằng nào trong bọn đã bắn,
nhưng tôi có thể đoán ra, tôi dại
gì thú thiệt sự suy đoán của
mình. Anh em Việt Maxi được cái
đó, không bao giờ phản bội nhau.
Mấy tuần lễ
xử án, tôi bật ngửa. Té ra là chỉ
mình tôi khai là tôi đá thằng
đó. Mấy đứa kia chối hết, chối từ
đầu đến cuối, chối mọi chuyện. Tụi
nó bị kết tội đồng lõa âm
mưu đả thương người khác. Bằng
chứ sờ sờ đó mà tụi nó
còn kháng án, không nhận tội âm
mưu, không nhận tội đồng lõa, chối
hết. Cảnh sát điều tra từng gia
đình Việt Nam có liên quan đến
chúng tôi, không khai thác gì được,
không ai hở môi. Tôi phục người Việt
Nam ở chuyện này.
Cái chết của
thằng Pakkis là cái án tử có âm
mưu, nhưng thằng nào cũng chối, không
nhận một lời kết án nào có
liên quan đến vụ này. Hơn hai năm trời,
không tìm ra cây súng, không tìm ra thủ
phạm đã bắn hai phát đạn vô
đám Pakkis, làm một thằng lãnh trọn
hai phát đó, chết ngay tại chỗ trước
khi cảnh sát có mặt. Tụi nó chối hết.
Không ai khai gì hết.
Nhận tội cú
đá là nhận cho phần tôi, tôi muốn
ở tù cho qua chuyện, tôi đã bắt
đầu chán đám bạn cả ngày rong
rong kiếm tiền bằng mọi cách. Những chuyện
mánh mung gian lận không còn hấp dẫn cho
tôi nữa. Đi đâu, ở đâu, ngay cả
trong họ hàng tôi, tôi không có một
tiếng nói, tôi không dám ngửng mặt
ngang hàng với ai hết. Chục năm trời.
Bây giờ tôi muốn thay đổi, muốn sống
một đời sống như thằng Tâm thua
tôi một tuổi, con cậu Tư. Nó cũng học
tới lớp chín như tôi, lúc nghỉ học
nó cũng là cà đầu đường
xó chợ, nhưng được vài năm
thì nó xin vô làm hãng bia Ringnes,
làm bốn năm, lên được chức
trưởng nhóm, coi ngó hơn hai chục nhân
viên chớ ít sao. Tôi muốn đi
làm, hãng xưởng nào cũng được,
lương bao nhiêu cũng được, miễn sao
tôi có nồi cơm chắc chắn mỗi
ngày, miễn sao tôi được ngồi ngang
hàng với mọi người mà trong lòng
không ngượng nghịu mặc cảm. Ông Lars ở
văn phòng xã hội khuyên tôi biết bao
lần, ông hứa nếu tôi muốn là
ông tìm ngay việc làm cho tôi.
Ngày cuối
cùng, tòa án xử tôi tội đồng
lõa đả thương với bản án
không có gì nặng lắm. Tôi nhẩm
tính: Bản án ba năm trong tù và hai
năm tại ngoại, mình ở trong tù
đã hơn hai năm, như vậy không còn
bao lâu nữa. Kể ra cũng đáng thôi. Bề
nào thì thằng Pakkis cũng đã chết.
Tôi chấp nhận bản án. Thời gian trong
tù, tôi được dạy nghề thợ mộc,
cái nghề tôi thích từ nhỏ, cũng
là nghề của ông nội. Những ông
thày trong tù khen tôi khéo tay, khen tôi
siêng học, làm nhiều báo cáo tốt
cho tôi, hứa tìm việc cho tôi khi mãn hạn
tù. Tôi nôn nao chờ ngày ra.
Trời Phật
đâu sao không chứng giám cho lòng
thành của tôi. Trước khi mãn hạn
tù, tôi nhận được một tờ giấy
báo là tôi sẽ bị trả về Việt
Nam vì bản án đồng lõa, cố
tình đả thương người cho đến
chết. Ngẩn ngơ mù người, tôi
đòi có thông dịch để dịch lại
bản án. Đúng vậy. ĐM thằng
thông dịch hồi đó. Nó dịch mà
không giải thích, dịch là bản án
đồng lõa đả thương người.
Nhiêu đó. Tôi không hiểu rõ nghĩa
từng chữ khi người ta đọc bản án
dầu đã được dịch ra tiếng Việt.
Mấy người đó đâu biết khả
năng tiếng Việt của tôi có hơn
gì tiếng Na Uy đâu. Tôi chỉ mới học
tới lớp ba là phải đi vượt biên
mà. Tôi có đồng lõa cho nên
tôi không kháng án ngay lúc đó, cho
nên tôi nhận tội liền vì tôi
đã khai là tôi đá thằng
đó. Nhưng còn tệ hơn nữa là lý do
tôi bị đuổi về Việt Nam vì tôi
là một phạm nhân không có quốc tịch
Na Uy. Lạ đời không ? Cả nhà ai cũng
vô quốc tịch hồi tôi còn đi học,
hồi tôi ở nhà mồ côi. Đúng vậy.
Ba má tôi quên, quên ghi tên tôi vô
đơn khi gia đình xin vô quốc tịch
vì trên giấy tờ, tôi không phải
là con của ba má. Người ta
quên tôi, quên sự hiện diện của
tôi. Má tôi khóc, ba tôi ân hận, thừa
!
Tôi kháng
án. Hai năm tại ngoại tôi từ hẳn
đám bạn du đãng, từ hẳn, không
giao tiếp với người Việt Nam với hy vọng
làm lại từ đầu, với hy vọng nếp
sống chừng mực sẽ là bằng chứng tốt
khi tòa xử lần nữa. Tôi được huấn
nghệ, tôi được cấp nhà, tôi
có bạn bè Na Uy đàng hoàng, tôi sống
như một người Na Uy, tôi đi trượt
ski, tôi chơi thể thao, tôi thực tập ở
hãng Ekones. Thư kháng án của tôi
được chấp nhận. Bạn bè Na Uy hứa
giúp tôi kháng án tiếp. Muốn giúp
là một chuyện, công pháp là một
chuyện. Cho đền gần ngày xử, suy ngẫm
những lần hỏi cung, linh cảm một kết quả
vô vọng, tôi quyết định trốn qua
Đức, tìm đến tụi Việt Nam bên
đó mà tôi đã giao du từ mấy
năm trước. Số mạng tôi nằm trên
bàn cân mà cán cân là một sợi
chỉ hy vọng mong manh. Một hạt cát thêm
vô đầu cân kia, thế là quyết định
trả tôi về Việt Nam được ký,
theo lời người bạn kể.
Tránh vỏ dưa
gặp vỏ dừa, tụi Việt Nam bên Đức
làm ăn táo bạo hơn tụi bạn của
tôi ngày xưa. Tôi phải lăn vô để
kiếm sống. Cùng là cặn bã của
xã hội, nhưng phong sống của tụi này
khác tụi Việt Maxi, làm tôi nhớ bạn
bè, nhớ gia đình quá sức. Tôi lẻn
về thăm gia đình. Không biết sao, cảnh
sát chờ canh, chận bắt trước khi tôi
về đến nhà. Được phép gặp
ba má năm phút, tôi bị hai người cảnh
sát mặc quần áo dân sự áp tải
ra phi trường Fornebu.
Ba má tôi van xin. Các em
tôi khóc lóc. Má tôi xin được
gởi về Việt Nam thay tội cho tôi. Chuyện
đâu có dễ như ba má nghĩ.
Gương mặt ba héo khô già trước
tuổi vì thằng con hoang đàng, mái
tóc má lấm tấm trắng vì ân hận.
Faen ! Héo hắt ! Bạc tóc ! Tôi hoang
đàng ? Đúng ! Ai đẩy tôi vào
con đường hoang đàng ? Nói đi !
Chính tôi ? Tôi không chối ! Tại sao ba
má chưởi mắng bắt tôi từ bỏ
đám bạn của tôi ? Tuổi trẻ tôi
cần có bạn, không giao du với những
người bạn ấy thì tôi giao du với ai ?
Ba má của tụi bạn cũng cấm cản
không cho tụi nó giao du với tôi, ai tốt,
ai xấu ? Fuck you ! Ai hơn ai ? Ai đáng giá hơn ai ? Ai
sẽ tránh ai ? ĐM ! Tránh nơi này
thì phải có một nơi trú ngụ
khác. Nơi nào ? Tôi là một hiện thể
bằng xương bằng thịt bằng trái tim bằng
khối óc, tôi phải có một chỗ dung
thân giữa thế gian này. Nhưng tôi
không có quyền lựa chọn.
Từ khi vừa bước
chân đến Na Uy, tôi đã được huấn
luyện cách nói láo. Láo là tôi
qua đây một mình, kêu ba bằng dượng
Hai, kêu má bằng dì Hai từ trong nhà cho
tới ngoài đường để ba má nhận
được tiền bảo dưỡng tôi, để
cậu mợ được bảo lãnh qua Na Uy nhanh
chóng. Láo về tuổi tác. Láo về
công ăn chuyện làm đen của ba má.
Láo đến độ đôi lúc tôi
tưởng là thiệt. Thế mà tại sao
tôi không nói láo, tại sao tôi
không chối là tôi đã đá thằng
Pakkis đó, có ai nhìn thấy rõ
ràng là tôi đã đá đâu,
có thằng bạn nào khai đâu. Tại sao ?
Tại sao khi tôi thành tâm muốn làm lại
từ đầu, muốn được sống như một
người bình thường thì được
trả lời bằng một hình phạt này ? Tụi
kia chối, chối hết. Tụi nó được
gì ? Được mãn án tù sáu
tháng, một năm, hai năm là cùng. Còn tôi, tôi
khai thật, cho nên tôi được tưởng
thưởng bằng cái án biệt xứ, suốt
đời. Đó là công lý, fuck you ! Đầu
óc tôi bị những dấu hỏi dấu chấm
than đánh tới đánh lui trong suốt hai
mươi ba tiếng đồng hồ từ phi cơ
này chuyển sang phi cơ kia.
Giao tôi cho công an
tại phi trường Tân Sơn Nhất, hai người
cảnh sát Na Uy biến mất. Lạ lắm, khi hai
người cảnh sát Na Uy đi rồi, tôi mới
nhận thức được là mối liên hệ
với đất nước Na Uy, con người Na Uy
hoàn toàn bị cắt đứt, một phần
lớn trong tôi bị cắt lìa. Cảm giác
mất mát càng lớn dần khi người
công an áo vàng đeo những huy hiệu đỏ
chói, đẩy tôi, nói, giọng nói lạ
lùng tôi chưa từng nghe, tôi không hiểu
lắm, đại khái hình như là: "Tao
kiếm xe cho mày đi liền, ĐM, tụi Na Uy
đem rác về đổ ở đây."
Với năm trăm
dollar được mấy người công an đổi
ra tiền Việt Nam, tôi bắt đầu chi
dùng cho chuyến xe đò về Bắc Mỹ Thuận,
về Cần Thơ, về quê tôi. Quê tôi
? Người ta biểu Việt Nam là quê
hương của tôi thì tôi biết vậy.
Người tài xế lái chiếc xe gắn
máy chở tôi lại địa chỉ được
ghi trên tờ giấy mà công an ở phi trường
biểu tôi phải trình diện. Bỏ tôi
đó, giống như hồi ông hiệu trưởng
tôi dẫn tôi đến lớp học, giao
tôi cho cô giáo mà không hề thắc mắc
là tôi sẽ xoay trở như thế nào giữa
muôn ngàn âm thanh hoàn toàn xa lạ,
ông quay lưng bỏ đi.
Người ta mướn
cho tôi căn phòng được dựng kế
bên nhà một người bà con xa của ba ở
một con hẻm sâu, cho tôi một địa chỉ
để tôi liên lạc. Căn phòng ba bề
là lớp ván mỏng, vừa đủ chỗ
cho cái gường lính, bếp gaz, vài kệ
bằng mủ cứng, cái bàn nhỏ và
vài ba cái ghế. Tôi tập quen dần với
cái nóng hâm hấp của mái tole từ
khi vài vệt nắng chen qua khe hở ở cánh cửa
duy nhất cho tới khi tôi phải bật cái
bóng đèn treo lơ lửng trên đầu.
* * *
Cách đây
mười lăm năm, tôi ngơ ngơ ngáo
ngáo trong lớp học, mọi lời nói
loáng thoáng qua tai, không bắt được
một câu cho trọn vẹn, bắt chước
cười, bắt chước la, bắt chước vẽ,
mong chờ tiếng chuông reng hết giờ. Ngày
nay, giữa phố chợ đông người, tôi
cũng ngơ ngơ ngáo ngáo, mọi lời
nói cũng loáng thoáng qua tai, không hiểu
được một câu trọn vẹn. Nhưng
tôi không thể bắt chước cười,
tôi không thể bắt chước thong dong ngồi
quán với ly bia trên bàn, tôi không thể
làm những chuyện trái ngược để
được chú ý bởi tôi không muốn
ai gọi tôi là "con khỉ tóc hoe", bởi
đầu tôi có quá nhiều dấu hỏi,
có quá nhiều dấu chấm than.
Ngày rời Việt
Nam tôi mười một tuổi, nay trở lại,
tôi hai mươi sáu tuổi. Mười lăm
năm ! Ngày đi, tôi là một thằng nhỏ
còn chạy quanh chọc phá mấy cặp rù
rì trong vườn bông ban đêm, chưa bao giờ
đứng trước gương ngắm nhìn
chính mình, chưa bao giờ ngồi yên
được vài phút, tiếp nhận mọi sự
việc quanh mình như con chim con há mỏ nhận
mồi chim mẹ thả bỏ vô, hít thở
hơi mưa dầm cơn nắng hanh như nụ hoa
mười giờ bò lan tràn trên mặt đất
nở ra khi có nắng đóng lại khi nắng
tàn, chưa biết ước mơ cho tương
lai. Ngày trở lại, tôi là một người
đàn ông luôn luôn nhìn quanh thăm
dò cho mỗi bước đứng bước
đi, gương mặt mang đầy dấu tích hận
đau làm tôi không dám đứng trước
tấm gương tự ngắm nhìn mình, tiếp
nhận mọi sự việc chung quanh bằng tấm
lòng có nhiều lớp cạn lọc, không biết
mơ ước tính toán gì cho tương
lai.
Nếu ai đó hỏi
tôi là người nước nào thì thật
tình tôi không biết trả lời như thế
nào. Mười một năm ở Việt Nam so với
mười lăm năm ở Na Uy, bên nào nặng
? Tôi là người Việt Nam vì nội ngoại,
ba má là người Việt Nam, vì má
sanh tôi trong nhà thương Cần Thơ, vì
tóc tôi đen, vì mũi tôi tẹt. Những
năm ở Na Uy, đối với người Na Uy
thì tôi mãi mãi là người Việt
Nam, dầu tôi có nhuộm tóc, dầu tôi
ăn chơi không thua gì tụi bạn Na Uy.
Nhưng tôi lại không tự cảm thấy
tôi là người Việt Nam hoàn toàn,
tôi không có một chút gắn bó
nào với câu vọng cổ kéo dài với
những giọng hát nhèo nhẹo và tôi
không cười được khi xem những vở kịch
trên video.
Không phải tự
tôi không cảm thấy tôi hoàn toàn
là người Việt Nam mà ngay chính cả
mọi người chung quanh đây, có ai coi
tôi là người Việt Nam đâu. Người
ta cười câu nói ngây ngô phát từ
miệng người đàn ông gần ba
mươi tuổi. Người ta nhíu mày
không hiểu vài chữ phát âm ngượng
nghịu từ người đàn ông da vàng
mũi tẹt như họ nhưng lại đến từ
một đất nước xa xôi. Xấu hổ, mặc
cảm, tôi rút mình không muốn giao thiệp.
Ngày ba bữa cơm thui thủi, tối trở lăn
gối chiếc một mình, cứ thế mà
hít thở cái không khí bưng bưng bụi
bậm.
Phải tìm
đường sinh nhai, tôi ráng lần tìm
nơi xin việc, đủ mọi việc.
- Ông có thể
cho tôi làm ở đây.
- Mày có thể
làm gì ?
- Ơ ... tôi có
học chuyện này, học hai năm.
- Chuyện này
là chuyện gì ?
- Chuyện... chuyện
như ông đang làm.
- Ha ... ha ... chuyện tao
đang làm mà cũng đi học, cũng học
hai năm ... ha ... ha ... Mà tao học hơn mày, tao
học cả đời, học từ lúc cầm
búa đập dập nát ngón tay cho đến
khi tao nhắm mắt mà cũng bào láng
cón mặt bàn, đến bây giờ cũng
còn học, mày có thể biết không ?
- Dạ, tôi có
thể học nữa.
- Sao mày không
có thể học nữa ở chỗ mày
đã học đó ... ha ... ha ... thằng
này nói nó có thể làm được.
Nó chỉ có thể thôi ... ha ... ha ... có
thể mà cũng xin vô đây làm.
Mày có thể cho tao biết mày là người
gì mà không biết nói chuyện. Mày
có thể đi chỗ khác để tao đục
cho xong cái chân bàn này không. Mày
có thể đừng đứng lạng quạng cản
công cản chuyện của tao không ?
Như thế, tôi xin
hết chuyện làm này đến chuyện
làm kia, không ai tin tôi khi họ nghe giọng
nói nạc mỡ, câu văn ngượng ngập.
Người ta nghi ngờ tại sao tôi đang ở
ngoại quốc nghe nói sung sướng giàu sang lắm
mà lại về Việt Nam lang thang tìm những
việc làm "rẻ tiền". Lâu lâu bạn
bè khi thì tụi trong băng Việt Maxi ngày
xưa, khi thì tụi bạn Na Uy, khi thì ba má
chợt nhớ đến tôi, gởi cho vài
trăm đô để dành sống qua ngày.
Tôi tiêu dè dặt từng đồng vì
không biết khi nào được nhớ tới.
Tôi lo sợ đến một lúc nào
đó bạn bè, gia đình quên người
bạn, người con đang bơ vơ giữa "xứ
người".
Na Uy không có
án tử hình. Nếu tòa án cho tôi lựa
chọn thì tôi chọn cái án nặng nhất
của Na Uy là hai mươi mốt năm thay vì
cái án "trở về quê hương"
này. Hai mươi mốt năm trong tù, dầu
gì thì còn có một chỗ đứng,
được cư xử như một con người,
được có những ước mơ cho hai
mươi mốt năm sau. Còn ở đây, ở
Việt Nam, ở nơi người ta gọi là
quê hương của tôi thì tôi chỉ
là một tấm giẻ rách vụn, suốt
đời là tấm giẻ vụn trong muôn
ngàn tấm vải đầy màu sắc
được mang ra may thành những tấm áo,
tấm màn. Làm sao tôi có được
ước mơ cho hai mươi mốt năm sau ?
Ba má đã cắt
một tấm vải từ bộ áo gia đình
để vá lên bộ áo gia đình
khác mà không cần biết đến kết
quả của sản phẩm may vá đó. Ba
má đã cắt một tấm vải từ bộ
áo Việt Nam màu vàng rực rỡ để
đem vá chồng lên bộ áo Na Uy màu
xanh đỏ trắng tươi. Bởi màu sắc
quá chói mắt nên người ta cắt
tháo nó ra, đem nó vá chồng lên bộ
áo nguyên thủy của nó nhưng người
ta không hiểu rằng tấm giẻ vụn này
đã không còn thích hợp với tấm
áo Việt Nam ngày nay cho nên không ai muốn
dùng nó. Chẳng lẽ từ nay và mãi
mãi, nó chỉ là một tấm giẻ vụn
vô dụng ?
Tôi có dám
ước mơ: Một ngày nào đó,
người ta thâu lượm những mảnh giẻ
vụn như tôi, kết may khéo léo thành
một tấm khăn trải bàn, thành một
cái bao gối. Hỡi đôi bàn tay khéo
léo ! Hỡi khối óc biết tận dụng của
thừa vật thải ! Hỡi tấm lòng biết
nhìn xuống vực sâu ! Các người
có hiện diện trên thế gian này
không ?
Võ
Thị Điềm Đạm
(Bai Chuyen)