|
NHẬN ÐỊNH VỀ
NHỮNG SAI LẦM TAI HẠI của ÐẢNG CSVN
ÐỐI VỚI PHẬT GIÁO (HT THÍCH QUẢNG ÐỘ) Như đã nói trong đoạn trước,
cộng sản là những người vô thần
duy vật, chủ trương TIÊU
DIỆT các tôn giáo, vì Marx cho tôn giáo là
thuốc phiện của loài người mà
"bọn" tư bản dùng làm công cụ
ru ngủ nhân dân lao động bằng cách
khuyên họ cố gắng chịu những khổ cực
ở đời này rồi sẽ được
đền bù một thiên đường ở kiếp
sau để dễ bề bóc lột, trong khi chủ
nghĩa cộng sản chủ trương xây dựng
thiên đường cộng sản ngay trên mặt
đất này. Bởi vậy, cộng sản cho
tôn giáo là một trở lực cần phải
tiêu diệt. Tại Việt Chẳng hạn, trong thời gian kháng chiến
chống Pháp, cộng sản Việt Nam cần phải
đoàn kết toàn dân, hơn nữa, cũng
chưa rảnh tay để nghĩ đến việc
tiêu diệt Phật giáo, cho nên họ lại lợi dụng Phật
giáo bằng cách lập ra cái gọi là
Phật Giáo Cứu Quốc nằm trong mặt trận
Liên Việt. Lúc đó "sư cụ"
Phạm Thế Long trụ trì chùa Cổ Lễ tại phủ Xuân Trường, tỉnh
Nam Định, đưa ra lời kêu gọi thanh
niên tăng "Tạm xếp cà sa khoác chiến
bào", nghĩa là hãy tạm thời cởi
bỏ áo nhà tu để đi cầm súng giết
Tây. Thế là hàng loạt sư trẻ bỏ
chùa bỏ Phật để đi "yêu nước".
Đây là chính sách dùng một mũi
tên bắt hai con chim một lúc: trước mắt
có thêm người cầm súng, đồng thời,
lại được cái lợi (mà cái lợi
này mới là chủ yếu) là tiêu diệt
mầm non của Phật giáo trong tương lai!
Mà lại dùng chính sư ra lời kêu gọi
để tiêu diệt mầm non Phật giáo mới
hợp thức, ai trách được cộng sản
bắt sư đi lính ! Điều đó cũng
dễ hiểu thôi: nếu muốn bắt cò
thì phải dùng con cò làm chim mồi, muốn
bắt cu thì phải dùng con cu làm chim mồi,
chứ nếu muốn bắt cò mà dùng cu
làm chim mồi thì bắt sao được. Lại nữa, xét thấy những ngôi
chùa lịch sử danh tiếng, điển hình
như chùa Thiên Trù (chùa Hương - chùa ngoài) ở huyện Mỹ
Đức tỉnh Hà Đông, chùa Quỳnh
Lâm tại làng Cổ pháp xưa (nay thuộc
tỉnh Quảng Ninh) do Thiền sư Định Không
(729-808) sáng lập vào khoảng năm Trinh
Nguyên đời Đường bên Tàu, cộng
sản thấy sau này, khi đã thành
công, khó mà tự mình ra tay phá
được vì sẽ có ảnh hưởng rất
lớn, chi bằng mượn tay quân Pháp cho tiện.
Cộng sản bèn
đưa quân lính đến đóng tại
các chùa đó, treo cờ đỏ sao
vàng lên, máy bay thám thính của
Pháp đến, thấy có cờ Việt Minh liền
báo cho oanh tạc cơ đến bỏ bom (dĩ nhiên là Việt Minh
đã rút trước rồi), thế là
chùa tan nát! Trong trường hợp này cũng
lại một mũi tên bắt hai con chim: một mặt
kích động lòng căm thù của
nhân dân, lên án giặc Pháp phá
chùa và kêu gọi toàn dân hết
lòng đánh Pháp; mặt khác, sau
này, khi thành công rồi khỏi phải
phá để tránh tiếng cộng sản
phá chùa lịch sử danh tiếng ! Tôi cảm thấy xót xa vô hạn khi
đến nhìn lại nền chùa Quỳnh
Lâm nơi thờ pho tượng là một trong
"Việt Chùa Hoa Yên trên núi Yên Tử bị
đốt cháy, chùa Phật Tích ở Bắc
Ninh xây dựng ở đời Lý cũng
đã bị phá hủy. Chùa Thầy ở huyện
Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, nơi thờ Thiền
sư Từ Đạo Hạnh, cũng được xây dựng vào đời
Lý, đang trong tình trạng xuống cấp nặng
nề, ngôi nhà Tổ phải chống đỡ bằng
nhiều cây tre, chưa biết sẽ sụp đổ
lúc nào. Chùa Pháp Vũ (chùa Đậu)
ở phủ Thường Tín tỉnh Hà
Đông, nơi có nhục thân (xác
khô) của hai vị Thiền sư đời Lê,
một vị đã bị cưa trán ra để
khám nghiệm! Chùa chính đã bị
phá, còn ngôi bái đường và
nhà tổ trong tình trạng xuống cấp. Chỉ
có chùa Thiên Trù và chùa Quỳnh
Lâm là mỗi chùa có một vị sư,
còn các chùa kia không có sư. Những
chùa được xếp hạng di tích lịch
sử do ti Văn hóa địa phương quản
lí. Du khách đến tham quan hoặc khách
hành hương phải mua vé vào cửa
và trả tiền bến đậu xe. Hôm
đoàn chúng tôi đến lễ, đậu
xe chưa đến nửa giờ mà phải trả
năm nghìn đồng. Diệt Phật, đồng
thời, bán Phật! Trên đây là mấy ngôi chùa
điển hình mà tôi đã đến tận
nơi thấy tận mắt và kể lại sơ
qua thế thôi, chứ nếu đi sâu vào chi
tiết thì còn nhiều điều thương
tâm lắm, việc ấy để cho các
nhà viết sử Phật giáo sau này. Đến năm 1954, cộng sản về tiếp
thu Hà Nội, đã hoàn toàn làm chủ
miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở ra, bắt
đầu thực hiện chủ nghĩa cộng sản,
nhất là sau cuộc căm thù đấu tranh
giai cấp, cải cách
tố khổ, thì ở nông thôn, việc
phá chùa đình miếu mạo không
còn phải e ngại gì nữa. Nhiều
đình chùa bị trưng dụng làm
nhà kho chứa thóc lúa, nông cụ, hoặc
phá đi lấy gạch, gỗ để làm
nhà kho, sân kho, nhà nuôi lợn v.v... của
Hợp tác xã; cột đình cột
chùa bằng gỗ lim đưa ra bắc cầu qua
các rạch nước ở ngoài đồng cho
những người gánh phân gánh lúa
đi qua; các tấm gỗ câu đối sơn
son thếp vàng thì dùng đóng ghế
dài cho học sinh ngồi học, úp mặt chữ
xuống dưới. Đó là ở nông
thôn, còn ở thành thị thì chùa
được trưng dụng làm cơ sở sản
xuất công nghệ, làm trụ sở Ủy ban,
làm nơi hội họp, cũng có chỗ
làm nhà chăn nuôi. Và để thế tục hóa, chùa
nào có sư ở thì dân chúng
vào chiếm các nhà phụ cận của
chùa để ở, chỉ trừ chùa và
nhà Tổ là để cho sư, còn các nhà họ chiếm
hết. Họ nấu nướng, ăn uống, phơi
áo quần chăn mền, nhìn vào không
còn gì là vẻ tôn nghiêm của
ngôi chùa nữa. Tôi còn nhớ năm 1975, Hòa thượng
Thích Đôn Hậu về chùa Ấn Quang kể
lại tình trạng chùa Quán Sứ tại
Hà Nội, dân chúng vào ở đầy
trong chùa, hệt như dãy chung cư, chứ
không còn là chùa nữa. Rồi Hòa
thượng kể Hòa thượng có nói với
sư cụ Trí Độ như sau: "Cụ ở
đây mà để cho ngôi chùa thế
này à ?". Sau
đó Hoà thượng Đôn Hậu kể
tiếp, tại một cuộc họp ở Liên minh
Dân chủ Dân tộc và Hòa bình do
ông Trịnh Đình Thảo chủ tọa, trong
bài phát biểu của mình, sư cụ Trí Độ nói:
"Từ ngày được ánh sáng của
chủ nghĩa Mác soi đường, tôi mới
thấy rõ con đường mình đi!".
Thì ra hàng mấy chục năm xuất gia theo Phật,
sư cụ vẫn đi trong đêm tối; nhưng
đến ngày đó và mãi cho đến
lúc chết, tuy không mặc áo Phật,
mà mặc áo cộng sản, nhưng sư cụ
vẫn cứ ở chùa và ăn cơm Phật ! Khi nghe sư cụ Trí Độ nói thế,
một bà Phật tử trước là hiệu
trưởng trường Đồng Khánh (bà
Nguyễn Đình Chi) ở Huế, cũng ra
"bưng" năm Mậu Thân (1968), tỏ vẻ
khinh thị. Rồi đến bữa ăn, bà
này đến chỗ Hòa thượng Đôn
Hậu xin một món ăn chay, vì bà ăn
mười ngày chay mỗi tháng, mà ngày
hôm ấy là ngày 15; một cán bộ
nói với bà: "Chị đã đi
làm cách mạng mà ăn chay làm gì?
Sư cụ Trí Độ kia có kiêng gì
đâu?". Bà ta trả lời: "Trước
đây tôi đã qui y Phật và tự
nguyện sẽ ăn chay mười ngày, chứ Phật
không bắt buộc. Đã tự nguyện như
thế mà không giữ thì tức tôi
đã phản bội chính tôi, vậy là
một Phật tử xấu. Và đã là một
Phật tử xấu thì làm sao trở thành
người cách mạng tốt cho được".
Người cán bộ kia phải xin lỗi. Tóm lại, các chùa đều
bị trưng dụng để làm cơ sở
này cơ sở khác, còn không thì cho
người tại gia vào ở làm mất vẻ
tôn nghiêm của chùa và thế tục
hóa dần dần. Về các
cơ sở vật chất thì phá hoại bằng
những cách như trên, còn đối với
cơ cấu tổ chức của giáo hội
thì cộng sản dùng thủ đoạn quen thuộc
là "GẬY
ÔNG ÐẬP LƯNG ÔNG", nghĩa là dùng tăng ni chia rẽ
tăng ni để phá hoại nội bộ giáo
hội. Trước năm 1954, Hòa thượng
Thích Tố Liên là Trị sự trưởng
lãnh đạo Giáo hội Phật giáo miền
Bắc nằm trong Tổng
hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc, gồm
sáu tập đoàn Tăng già và Cư sĩ
Bắc Trung Nam. Tổng hội Phật giáo Việt Về mặt tinh thần thì phá hoại
bằng cách chùa nào cũng phải nuôi lợn
nghĩa vụ, thậm chí các sư giết lợn
gà là thường. Nuôi lợn là để
phá bầu không khí thanh tịnh trang nghiêm
của cảnh chùa, giết lợn giết gà
là hủy hoại tinh thần từ bi và giới
sát của đạo Phật để thế tục
hóa đạo Phật, đó là cách
tiêu diệt đạo Phật nhanh nhất. Trước năm 1954, chùa Quán Sứ
là trụ sở Trung ương của Giáo hội
Phật giáo miền Bắc, trong đó có viện Phật học
đào tạo tăng ni, trường trung học
Khuông Việt dạy chương trình thế học,
nhà in Đuốc Tuệ in Nguyệt san Phương Tiện
và kinh sách, có thư viện v.v..., nhưng
sau khi cộng sản tiếp thu Hà Nội thì Viện
Phật học phải giải tán để tăng
ni ở đâu về đó lo việc tăng gia sản
xuất, trường Trung học Khuông Việt
đóng cửa, thư viện khóa kín, Nguyệt
san Phương Tiện đình bản và nhà
in Đuốc Tuệ bị chiếm dụng. Nghĩa
là tất cả mọi hoạt động của
Giáo hội hoàn toàn bị đình đốn,
hệt như trong miền Nam năm 1975. Bây giờ Hội Phật giáo thống nhất
Việt Xuất phát từ âm mưu tiêu diệt
Phật giáo ngắn hạn cũng như trong dài
hạn, từ năm 1954 trở đi, cộng sản chỉ
cho mỗi chùa một sư già ở làm chủ
hộ, còn sư trẻ (nếu có, hiếm lắm
) phải về quê cũ sản xuất làm
ăn. Sau khi sư già
chết, không ai kế tiếp, chùa bỏ
không, nếu ở thành thị thì bị
trưng dụng làm cơ sở sản xuất, còn
ở nông thôn thì ủi bằng đi để
làm ruộng cấy lúa. Giả sử (hiếm lắm)
có ai muốn đi tu thì phải làm
đơn và khai lí lịch nộp cho công an,
với lí do nhà nước chọn công
dân tốt cho đi tu để ích đạo lợi
đời, nhưng có người chờ đến
già mà vẫn chưa được phép! Vì
Hiến pháp nhà nước cộng sản
có điều khoản "tự
do tín ngưỡng, tự do không tín ngưỡng" (một cách chơi chữ), vậy
người có tín ngưỡng muốn đi tu,
chẳng lẽ lại nói huỵch toẹt ra rằng
anh hay chị không được phép đi tu
à? Thôi thì nại lí do "chọn
công dân tốt ích đạo lợi đời"
để ngăn chặn là hợp hiến hợp
pháp nhất! Tôi nghe người ta kể lại
thị xã Thái Bình có mấy người
xin đi tu, chờ đợi đã lâu mà chẳng
được phép, bèn tổ chức "thụ giới chui" ở một chùa nọ bị
công an đến tóm cổ hết ! Dưới chế độ cộng sản
tất cả thượng vàng hạ cám đều
do nhà nước quản lí, nếu tư
nhân muốn làm gì riêng phải làm
lén lút, họ gọi là "làm chui"
như những người vượt biên gọi
là đi chui, bán phở lén gọi bán
chui, rồi đến đi tu cũng thụ giới chui !
Những người muốn xuất gia làm tăng ni
thì như thế. Còn
thanh thiếu niên nam nữ ngoài đời
thì đoàn thể nào vào đoàn thể
ấy rồi, nếu em nào lai vãng đến
chùa thì bị đoàn thể phê
bình chế giễu, vì thế chẳng em nào
dám bén mảng đến chùa; câu "Trẻ vui nhà già vui
chùa" được ứng dụng một
cách triệt để.
Như thế là ngoài đời cũng vậy,
chỉ còn một số rất ít các cụ
già trầu móm mém hơn bảy tám
mươi thuộc lớp người cũ còn lại
là được tự do tín ngưỡng đến
chùa, những người ấy qua đời rồi
thì tín đồ tại gia cũng hết ! Một em bé trai mười hai tuổi ở thị
xã Thái Bình chỉ thích đi tu, em
thường đến chùa Kỳ Bá tụng
kinh, có khi ở lại chùa mấy hôm liền.
Tối đến công an vào chùa đuổi,
em chui vào gầm giường hoặc trèo lên
cây để trốn. Sau nhiều lần như thế,
bố mẹ em được gọi lên ty công an
bảo phải đến chùa bắt em về và
ra lệnh cho sư già ở chùa không
được chứa chấp, nếu không nghe sẽ
bị "xử lí". Đó là âm mưu tiêu diệt mầm
non của Phật giáo và cộng sản hy vọng
trong vòng năm mươi năm là Phật
giáo sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn
trên cả nước. Nhưng người xưa
đã nói "Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên", người Tây
phương cũng có câu tương tự:
"Man proposes, God disposes", nghĩa là con người
mưu tính là một chuyện, nhưng nên việc
hay không thì lại do trời. Mà thực vậy,
bức tường Bá Linh đã sụp đổ,
khối cộng sản Đông âu và Liên
xô đã tan rã, cộng sản Việt Nam
không còn đủ thì giờ để thực
hiện được việc đó nữa
đâu. Thời đại
"nhất đội nhì trời" không
còn nữa và chủ nghĩa duy ý chí
"Thằng trời đứng ra một bên, để
cho thủy lợi tiến lên thay trời" cũng
chẳng còn giá trị gì nữa. Khối cộng sản Liên xô sụp
đổ cũng chỉ vì thái độ
kiêu căng ngạo mạn và ngông cuồng ấy.
Nhà sử học Hy Lạp sống vào thế kỷ
thứ năm trước tây lịch là ông Herodotus
đã nói: "Vận
mệnh của một chế độ chia làm ba giai
đoạn: giai đoạn thứ nhất là thành
công, giai đoạn thứ hai là kiêu
căng, giai đoạn thứ ba là sụp đổ". Đến năm 1975, cộng sản toàn thắng
miền Trước hết, cộng sản đẻ ra
cái gọi là "Ban liên lạc Phật
giáo yêu nước" do sư cụ Minh Nguyệt
làm trưởng ban, đặt trụ sở tại
chùa Vĩnh Nghiêm ở đường Công
Lý Sàigòn. Đứng về
phương diện luận lí mà nói,
đã có phật giáo yêu nước
thì tất phải có Phật giáo không
yêu nước, hoặc nói theo ngôn ngữ của
cộng sản là "Phật giáo phản động". Vậy
cái Phật giáo phản động ấy là
Phật giáo nào? Đích thị là
GHPGVNTN rồi chứ còn ai nữa. Như vậy, theo
chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp
của đảng cộng sản thì, tất
nhiên là Phật giáo yêu nước phải
đấu tranh để tiêu diệt Phật giáo
phản động. Oái ăm thay ! Một đảng chính trị
như đảng cộng sản Việt Nam, lúc
nào cũng hô hào
đoàn kết, đại đoàn kết,
mà lại chủ trương
căm thù đấu tranh giai cấp, thì
đoàn kết làm sao? Thật là mâu thuẫn. Phật giáo Việt Nam có mặt trên
đất nước này suốt dòng lịch sử
trên dưới hai nghìn năm, đã
cùng chung một vận mệnh thăng trầm vinh nhục,
qua các thời đại, đã có lần
nào Phật giáo phản bội dân tộc
chưa, để giờ đây phải lập ra Phật
giáo yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội để đấu tranh căm thù với Phật
giáo phản động? Từ đó, cộng sản dùng các vị
tăng "yêu nước, yêu chủ nghĩa
xã hội" đi
hăm dọa thúc ép tăng ni trong GHPGVNTN gia nhập
Ban liên lạc Phật giáo yêu nước. Hai người hăng hái
và đắc lực nhất trong việc này
là sư cụ "nằm vùng" Pháp Lan
và sư Từ Hạnh.
Tuy bị hăm dọa, ép buộc, khủng bố,
nhưng chỉ có một số rất ít tăng
ni nằm vùng hoặc vì quá sợ hãi
mà phải tham gia cho yên thân, còn tuyệt
đại đa số tăng ni trong Giáo hội, từ
Quảng Trị vào đến Cà mau, vẫn một
lòng trung thành với Giáo Hội và
kiên trì chịu đựng. Đến tháng 11 năm 1975, xẩy ra vụ
tự thiêu tập thể của mười hai vị
tăng ni ở Thiền viện Dược sư tại Rạch
Gòi thuộc tỉnh Cần Thơ để phản
đối cộng sản đàn áp Phật
giáo. Mãi đến tháng 12 năm 1976 vụ ấy
mới được báo cáo lên Giáo hội
Trung ương. Viện Hóa Đạo GHPGVNTN gửi
văn thư khiếu nại với nhà nước cộng
sản, yêu cầu điều tra sự việc. Ông Mai Chí Thọ, lúc
đó là Giám đốc sở Công an
thành phố Sàigòn, đến chùa Ấn
Quang đề nghị Viện Hóa Đạo cử
người đi điều tra (xin nói lại ở
đây là kể từ ngày 30-4-1975 đến
hôm ấy, Viện Hóa Đạo đã gửi
tất cả sáu mươi hai (62) văn thư
lên nhà nước cộng sản phản đối
và yêu cầu giải quyết các vụ bắt
bớ tăng ni Phật tử và đập tượng
phá chùa, lấy chùa làm nhà đở
đẻ, nhưng không hề được trả lời.
Đây là lần đầu tiên một thư
khiếu nại của Viện Hóa Đạo
được đáp ứng và dĩ nhiên họ
đã sắp đặt như thế nào để
có lợi cho họ rồi đó). Bấy giờ
Thượng tọa Trí Tịnh đề nghị rằng
sự việc xẩy ra đã hơn một năm rồi,
thôi, xin bỏ qua!
Nhưng cố Thượng tọa Thiện Minh, Thượng
tọa Huyền Quang và tôi phản đối
đề nghị ấy và yêu cầu Viện
Hóa Đạo cử người đi điều
tra, Viện liền cử Đại Đức Hộ
Giác và tôi đại diện Viện đi
điều tra, nhưng sau
Đ.Đ. Hộ Giác bận việc khác nên
chỉ có tôi đi. Tất nhiên, như
tôi vừa nói ở trên, mọi việc đã
được nhà nước cộng sản sắp
đặt cả rồi,
đi điều tra chẳng qua chỉ là để hợp
thức hóa cho cái kết quả mà họ
đã định sẵn. Trong cuộc điều tra này, có ông Huỳnh
Châu Sổ, Phó Thanh tra Trung ương từ
Hà Nội vào, chủ
trì cuộc họp. Ngoài ra có nhiều
cán bộ địa phương, trong đó
tôi để ý có một người to
béo vạm vỡ, lúc nào cũng nhìn
tôi trừng trừng với nét mặt hầm hầm
dữ tợn, đằng đằng sát khí
như muốn ăn tươi nuốt sống người
ta, hình như để uy hiếp tinh thần tôi.
Về giới sư thì có sư cụ Thiện
Hào và sư Huệ Thành là thầy của
Đại Đức Thích Huệ Hiền. Có một
số "nhân chứng" được lựa chọn
từ địa phương xẩy ra vụ tự
thiêu được đưa lên ngồi sẵn
đó. Sau ngày đầu làm việc tại
thành phố Cần Thơ, tôi yêu cầu
được về tận Thiền viện Dược
sư cách thành phố Cần Thơ năm mười
cây số để xem xét hiện trường,
nhưng họ bảo là về đó không an
ninh! Tôi nói bây giờ chính quyền
cách mạng làm chủ cả nước còn
ai làm gì nữa mà không an ninh?. Nhưng
đó chỉ là cái cớ, chứ thực
thì Thiền viện Dược sư đã bị
san bằng và xới đất lên trồng chuối
rồi. Sau khi mười
hai tăng ni tự thiêu, cán bộ địa
phương kéo mười hai cái xác ra để
bên lề đường cho những người qua lại
được thấy, sau đó hai ngày họ
phun xăng vào đốt rồi tất cả phần
còn lại của mười hai xác chết
được dồn vào hai cái quan tài
và họ đưa đi chôn ở đâu,
không ai biết. Sau ba ngày làm việc, ông Huỳnh
Châu Sổ đúc kết biên bản cuộc
điều tra qua mấy điểm dưới
đây: 1) Huệ Hiền (tức vị trụ
trì Thiền viện Dược sư đứng
đầu trong mười hai tăng ni tự thiêu)
trước đây làm chỉ điểm (CIA) cho
Mỹ Ngụy, sau ngày miền Nam được
hoàn toàn giải phóng, y sợ bị
cách mạng trừng trị nên đã tự
tử và bắt mười một người
khác chết theo y; 2) Trước đây Huệ Hiền
được Mỹ Ngụy cung cấp lương thực
đầy đủ, nhưng nay thấy không còn
phương tiện sinh sống nên phải tự tử
tập thể. 3) Huệ Hiền đã dâm ô hủ
hóa với mấy ni cô, sợ việc ấy đổ
bể, nên y đã tự tử và đốt
chùa cùng với mười một người
khác. Các nhân chứng cũng nói hệt
như vậy và nhất là sư Huệ
Thành, thầy của Đ.Đ. Huệ Hiền cũng
công nhận như vậy! Sau đó họ bảo
tôi kí vào biên bản đúc kết ấy.
Tôi nói tôi không kí, vì nội dung biên bản
đúc kết hoàn toàn trái ngược
với bức thư tuyệt mệnh của Đ.Đ.
Thích Huệ Hiền đề ngày 29 tháng 9
năm Ất Mão (2-11-1975) nên tôi không
kí. Để chứng minh, tôi đọc
nguyên văn bức thư tuyệt mệnh ấy
như sau: Ngày 29-9 Âm lịch 75 Đệ tử chúng con xuất gia, Thiền
viện Dược sư, kính dâng lên chư
Phật Bồ tát Thánh hiền tăng lời
tâm huyết phát nguyện của đệ tử
tăng ni toàn chùa, thiêu thân ngày 29
tháng 9 năm Ất Mão, tức ngày 2
tháng 11 năm 75. - Để bảo vệ tiền đồ
Phật pháp, chánh pháp Như lai bất diệt; - Để bảo vệ phẩm giá
và đức hạnh người xuất gia trường
cửu; - Để bảo vệ ngôi Tam bảo
Thiền viện Dược sư bất diệt; - Tha thiết kêu gọi chính phủ
cách mạng lâm thời cộng hòa miền
Nam Việt Nam, Mặt trận giải phóng tôn trọng
triệt để tự do tín ngưỡng của
các tôn giáo đúng mức; - Tha thiết kêu gọi tăng ni đồng
bào Phật tử các giới Việt Nam thân
yêu phải nhứt quyết nhứt tâm bảo vệ
trái tim Bắc và Nam theo lời di chúc Hồ
chủ tịch vĩ đại, Bắc và Nam chỉ
một trái tim, nếu một ai xé nát
trái tim người Việt Nam, không luận kẻ
thù hay kẻ thân đều là phản bội
lời di chúc của Bác Hồ chí minh vĩ
đại. Kẻ ấy là nối giáo cho giặc,
phản bội dân tộc cách mạng. - Lá cờ Phật giáo thế giới,
GHPGVNTN tiêu biểu cho sáu hào quang chư Phật
và Lục thông chư Phật bất diệt
trường cửu; Cầu nguyện độc lập tự do
hòa bình trường cửu bất diệt. Sau đó, Đ.Đ. Thích Huệ Hiền
ghi tên mười hai tăng ni do Đại Đức
đứng đầu, phát nguyện tự thiêu
vì bảy thỉnh nguyện kể trên và
Đại Đức kết luận: - Chết vinh hơn sống nhục
- Chấp nhận chết bảo
vệ lí tưởng - Chấp nhận chết bảo
vệ lương tâm - Chấp nhận chết bảo
vệ chân lí Đại diện tăng ni Trụ Trì Ấn ký Đại Đức Thích
Huệ Hiền Trên đây là bức thư tuyệt mệnh
của Đ.Đ.Thích Huệ Hiền viết trước
khi tự thiêu cùng với mười một vị
tăng ni khác. Nội dung bức thư, như tôi
đã nói trên, hoàn toàn khác với
ba điểm đúc kết biên bản điều
tra của ông Huỳnh Châu Sổ, do đó
tôi đã không thể kí vào biên bản
ấy. Họ giữ tôi lại thêm một
ngày một đêm để làm áp lực
buộc tôi phải kí, họ định dùng
tôi để hợp thức hóa cho những điều
dối trá của họ, nhưng tôi đã
kiên quyết từ chối. Sau cùng họ thấy không lung lạc
được nên đành phải đưa
tôi về chùa Ấn Quang. T.T. Huyền Quang và
các sư thấy tôi về rất mừng,
vì đã ba bốn hôm không thấy
tôi về cũng lo. Cuộn băng ghi lại những
điều tôi phát biểu trong cuộc họp
điều tra thì họ tịch thu, không cho
tôi mang về, viện lí do đó là
"bí mật quốc gia"! Trong chuyến đi này, tôi được
biết một số chi tiết nhỏ, nhưng mang một
ý nghĩa quan trọng. Vào một buổi
sáng, tôi vừa điểm tâm xong, một
ông cán bộ vào chỗ tôi nói chuyện
chơi trước khi ra phòng họp. Ông nói
về việc phát triển đất nước, về
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng
ông nói: "Chúng
tôi chưa phải là những người xây
dựng chủ nghĩa xã hội chuyên môn, chỉ
còn đang thực tập thôi, nhưng làm
mãi cũng phải được. Cũng như
người thợ mới tập đóng cái
bàn (vừa nói ông vừa chỉ vào
bàn ăn), đóng cái này chưa
được thì đóng cái khác, cứ
đóng mãi rồi cũng phải được". Tôi nghe mà giật mình,
vì người cộng sản quan niệm việc quản
lý một đất nước sao mà quá
đơn giản ! Đến tháng 2 năm 1982, cộng
sản đưa tôi ra Bắc quản thúc tại
xã Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình, tôi mới nghiệm ra là lời
nói của ông cán bộ kia quả đã
đúng. Về nông nghiệp, như tôi
đã nói ở phần 1, năm 1956, sau cuộc
căm thù đấu tranh giai cấp, giết các
địa chủ, đảng cộng sản chia ruộng
cho dân làm chủ và lập Tổ đổi
công làm lẫn cho nhau: đây là người
thợ đóng cái bàn đầu tiên. Đến năm 1960, đảng bắt đầu góp
hết ruộng vào Hợp tác xã lớn
để làm chủ tập thể: đây
là đóng cái bàn thứ hai. Đến năm 1980, thấy lối làm ăn tập thể
thất bại, đảng đề ra chính sách
khoán sản phẩm: đây là đóng
cái bàn thứ ba. Đến
năm 1985, chính
sách khoán sản phẩm cũng chẳng ra
gì, đảng bèn cho khoán trắng:
đây là đóng cái bàn thư
tư ! Nhưng cái bàn thứ tư này lại
càng méo mó, xấu xí hơn ba cái
trước nhiều, vì nó đã quay 180
độ để trở lại chế độ
phát canh thu tô của địa chủ ngày
trước mà cộng sản đã giết ! Thế
mới vỡ lẽ họ chỉ mò mẫm gặp
gì làm nấy, hễ được thì
làm, hỏng thì bỏ. Chỉ khổ cho những người
dân hiền lành đã phải làm vật
hy sinh để cho một nhóm người thử nghiệm
cái tư tưởng ngông cuồng và thiển
cận của họ; suốt
một phần tư thế kỷ (1960-1985), đã phải
đổ ra bao nhiêu của, sức lực và mồ
hôi nước mắt để xây dựng Hợp
tác xã làm chủ tập thể kiểu cộng
sản, thì tất cả giờ đây
đã bị phá toang. Đây tôi chỉ
nói về nông nghiệp thôi, vì tôi sống
ở nông thôn, còn các lãnh vực kinh
tế cộng sản chỉ huy khác thì tôi
không được biết. Nhưng chắc cũng thế
thôi, bởi vì cái bàn đóng lần
chót này cũng là cái bàn kinh tế
thị trường tự do kiểu tư bản! Trở lại cuộc điều tra vụ mười
hai tăng ni tự thiêu tại tỉnh Cần Thơ
để phản đối chính sách
đàn áp Phật giáo, mà cộng sản
định gán cho Đ.Đ.Thích Huệ Hiền
tội làm chỉ điểm cho Mỹ Ngụy
và tội hủ hóa để khiến cho
cái chết của mười hai vị tăng ni trở
thành vô nghĩa, nhưng mưu đồ ấy
đã thất bại, vì tôi đã
không kí vào biên bản đúc kết
để hợp pháp hóa cho mưu đồ ấy
của họ. Từ đó tình hình mỗi
ngày một căng thẳng và ngày 3-3-1977
đã đến điểm cao nhất khi cộng sản
đến chiếm dụng Cô Nhi Viện Quách Thị
Trang ở đường Trần Quốc Toản (phía sau Việt Nam Quốc tự
mà trước đó họ đã chiếm rồi
và bây giờ một rạp chiếu bóng rất
lớn đã được xây lên tại
đó), giật tấm bảng mang danh hiệu GHPGVNTN
và liệng xuống lề đường. Ngay 11 giờ
hôm ấy, nhân danh Tổng Thư Kí Viện
Hóa Đạo, tôi đã kí một
thông tư kêu gọi tăng ni sẵn sàng hy
sinh để bảo vệ đạo pháp và danh
dự của Giáo hội. Đến ngày 6-4-1977,
T.T. Huyền Quang và tôi cùng một số vị
khác bị bắt
vào nhà tù Phan Đăng Lưu ở Bà
Chiểu Gia Định. Ít lâu sau, tôi
được biết cố T.T. Thích Thiện Minh cũng
bị bắt và đã chết một cách
bí ẩn tại sở công an Sài gòn ở
đường Trần Hưng Đạo. Thật là
đau đớn, xót xa. Đến ngày 10-12-1978,
chúng tôi bị đưa ra tòa xét xử,
T.T. Huyền Quang và tôi được tha về,
còn các vị khác phải ở thêm mỗi
người mấy tháng tù nữa. Sau khi được tha về, chúng tôi lại
tiếp tục làm việc Giáo hội như cũ.
Khoảng đầu năm 1980, lần đầu tiên
cố Hòa thượng Thích Trí Thủ, Viện
trưởng Viện Hóa Đạo, T.T. Trí Tịnh,
Tổng vụ trưởng Tổng vụ Tăng sự
và TT. Minh Châu, Tổng vụ trưởng Tổng
vụ Giáo dục, được nhà nước
cộng sản mời với tư cách cá
nhân đi dự cuộc "gặp mặt đầu
năm", do ông Nguyễn Văn Linh, Bí Thư
Thành ủy chủ trì. Ba vị về cho chúng tôi biết có cả
Hòa thượng Thích Đôn Hậu và
các vị đứng đầu các tổ chức
Phật giáo trong cả nước cũng có mặt
và mục đích cuộc họp mặt là
bàn việc thống nhất Phật giáo Việt
Nam. Tôi nghĩ hơi lạ, việc thống nhất
Phật giáo mà sao ông
Bí Thư Thành ủy của đảng cộng sản
lại chủ trì cuộc họp bàn, thế
đảng cộng sản còn kiêm cả Giáo
hội nữa à ? Sao mà tham thế ? Nhưng lúc ấy chúng tôi
nghe các vị thuật lại thì cũng chỉ
biết thế thôi chứ không có ý kiến
gì, bởi lẽ ba vị được mời dự
họp với tư cách cá nhân chứ
không liên quan gì đến Giáo hội. Từ đó trở đi, thỉnh thoảng ba
vị lại đi họp rồi về trình bày
lại với Ban Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo
các ý kiến trong cuộc họp và yêu cầu
Viện Hóa Đạo cho biết ý kiến. T.T.
Huyền Quang và tôi chủ trương chỉ khi
nào Viện Hóa Đạo chính thức
được mời và cử đại diện dự
họp đường hoàng thì Viện sẽ
có ý kiến ngay giữa cuộc họp, còn
giờ đây ba vị đi họp với tư
cách cá nhân thì Viện không dám lạm
bàn. Vả lại, việc thống nhất Phật
giáo là việc của chư tăng hai miền, sao
không để cho chư tăng Về sau, cố Hòa thượng Trí Thủ
được ai đó bầu làm Trưởng
ban vận động Thống nhất Phật giáo,
T.T. Trí Tịnh Phó trưởng ban và T.T. Minh
Châu làm Thư kí. Từ đó ba vị đi họp luôn,
có khi ra họp ngoài Hà Nội, và cứ
mỗi lần đi họp về, các vị
đưa vấn đề ra trước Viện Hóa
Đạo xin góp ý kiến, chúng tôi vẫn
không dám bàn đến, lí do là Viện
Hóa Đạo có chính thức được
mời dự bất cứ cuộc họp nào
bàn việc thống nhất Phật giáo
đâu, kể cả cái Ban vận động thống
nhất Phật giáo do ai lập ra và lập ra tại
đâu, Viện Hóa Đạo cũng không biết,
thì làm sao Viện góp ý cho được. Thế rồi vào khoảng cuối năm 1980,
văn phòng Viện Hóa Đạo nhận
được một văn thư do cố Hòa
thượng Trí Thủ ký tên với tư
cách Trưởng ban vận động thống nhất
Phật giáo, xin đến thăm xã giao Viện
Hóa Đạo và các vị giáo phẩm
của Viện và sẽ được tiếp
đón vào ngày giờ nào. Tôi thảo
văn thư phúc đáp là sẽ hân hạnh
tiếp đón phái đoàn vào ngày
giờ đó và xin cho trước một bản
danh sách các thành viên và chức vụ
trong phái đoàn để tiện việc sắp
xếp. Hôm sau tôi nhận
được bản danh sách từ chùa Xá
Lợi gửi đến, gồm có: sư cụ Phạm Thế Long
(ngày trước ngoài Bắc các sư đều
lấy họ Thích, nhưng từ khi cộng sản
cai trị, họ bắt phải gọi theo họ thế
tục, cho nên mới là Phạm Thế Long. Còn chùa thì cũng được
coi như một hộ, tức như một gia
đình, chứ
không gọi là chùa (đây cũng nằm
trong âm mưu tiêu diệt Phật giáo dần
dần), người mà ba mươi năm về
trước (1945-1980) đã từng kêu gọi
thanh niên tăng miền Bắc lúc bấy giờ
là "hãy tạm
xếp cà sa khoác chiến bào", hiện là Phó chủ tịch
Quốc hội cộng sản, làm Trưởng
đoàn, cố Hoà thượng Trí Thủ
Phó trưởng đoàn, T.T. Trí Tịnh
đoàn viên, T.T. Minh Châu đoàn viên,
Đ.Đ.Từ Hạnh (cựu Chánh đại diện
GHPGVNTN tỉnh Gia Định) đoàn viên. Khi
nhìn qua danh sách của phái đoàn Ban vận
động thống nhất Phật giáo đến
thăm "xã giao" Viện Hóa Đạo,
tôi cứ cười thầm một mình và
liên tưởng đến hai câu thơ đầu
trong bài thơ "Nói chuyện với ảnh"
của nhà thơ Tản Đà: Người đâu cũng giống
đa tình Ngỡ là ai lại
là mình với ta... Vì trong bản
danh sách, trừ cụ Phạm Thế Long ra, còn
đều là người "trong nhà",
và cái "tréo cẳng ngỗng" đến
mỉa mai ở đây là các vị "chủ
nhân ông" đã tự biến mình
thành những người khách xa lạ về
"thăm xã giao" nhà mình ! Đúng ngày giờ
đã định, phái đoàn đến Viện
Hóa Đạo, T.T. Huyền Quang, T.T. Pháp Tri
và tôi tiếp phái đoàn. Sau khi nghi thức
giới thiệu, sư cụ Phạm Thế Long đứng
lên nói: "Thưa qúi vị ! Hôm nay
phái đoàn Ban vận động thống nhất
Phật giáo chúng tôi đến đây,
trước hết, để thăm Tổ đình Ấn
Quang và tăng ni chùa Ấn Quang, cầu chúc quí
vị dồi dào sức khoẻ và đạt nhiều
thành tích tốt đẹp. Sau xin thưa để
quí vị rõ là Đảng chủ
trương đất nước đã thống nhất,
thì Phật giáo cũng phải thống nhất.
Vậy mục đích chúng tôi đến
đây hôm nay, như vừa nói ở trên
để thăm Tổ đình Ấn Quang và cũng
để xin quí vị góp ý kiến cho việc
thống nhất Phật giáo mà sẽ là
ngôi nhà chung cho Phật giáo cả nước". Khi cụ Phạm Thế
Long dứt lời, ngồi xuống, tôi gọi thư
kí đưa ra hai văn thư của Ban vận động
thống nhất Phật giáo xin đến thăm
xã giao Viện Hóa Đạo và các vị
giáo phẩm trong Viện, và văn thư của
Văn phòng Viện Hoá Đạo trả lời
định ngày giờ đón tiếp phái
đoàn như đã nói ở trên. Tôi đọc
lại hai văn thư thật rõ ràng, rồi
nói: "Thưa phái
đoàn, theo tinh thần nội dung văn thư của
Ban vận động thống nhất Phật giáo
như tôi đã đọc thì hôm nay
phái đoàn đến đây là để
thăm xã giao Viện Hóa Đạo và
các vị giáo phẩm của Viện. Song, như
cụ Trưởng đoàn vừa nói, thì
các vị đến đây là để
thăm Tổ đình Ấn Quang và tăng ni
chùa Ấn Quang để hỏi ý kiến về
việc thống nhất Phật giáo, chứ có
thăm Viện Hóa Đạo đâu ? Vậy,
Văn phòng của Tổ đình Ấn Quang ở
đầu ngõ vào, mời quí vị ra
ngoài đó, chứ đây là Văn
phòng của Viện Hóa Đạo GHPGVNTN". Nói xong, tôi mời T.T.
Huyền Quang và T.T. Pháp Tri giải tán. Bấy giờ
tôi mới thấy cái "lắt léo"
và "lật lờ đánh lận con
đen" của sư cụ cộng sản: khi muốn đến
thăm thì nói thăm ông A, nhưng khi đến
nơi thì lại bảo thăm ông B ! Có
gì đâu, thâm ý của sư cụ
nhà ta là cố tình tránh né,
không thừa nhận tính hợp pháp của
GHPGVNTN, thế thôi. Nhưng nếu hôm ấy
mà chúng tôi góp ý kiến thì về
sư cụ lại tuyên bố đó là
ý kiến của GHPGVNTN ! Thấy tình
hình không êm xuôi, cụ Phạm Thế Long
định "lùi một bước" để
rồi sẽ "tiến ba bước" bằng
cách đứng lên chắp tay xin sám hối
và xác nhận lại là phái
đoàn đến thăm Viện Hóa Đạo
và các vị giáo phẩm của Viện
đúng như nội dung văn thư. Lúc
đó tôi mới mời T.T. Huyền Quang và
T.T. Pháp Tri ngồi lại tiếp Phái
đoàn. Thượng tọa Huyền
Quang phát biểu: "Quí
Ngài là những người đề xướng
việc thống nhất theo chủ trương của
Đảng muốn thống nhất Phật giáo,
quí ngài là những kiến trúc sư của
ngôi nhà Phật giáo cả nước, vậy
quí ngài đã có đồ án
nào chưa ? Kiểu mẫu ngôi nhà ấy
như thế nào ? Tuy nhiên, theo như lời
Hòa thượng Thích Đôn Hậu kể lại,
thì Giáo hội chúng tôi khó có
vinh dự được sống chung trong ngôi nhà
Phật giáo cả nước ấy. Vì khi
Hòa thượng chúng tôi có lần
bàn với ông Nguyễn Văn Hiếu, lúc
đó Bộ trưởng Văn hóa của
chính phủ cách mạng lâm thời cộng
hòa miền Nam Việt Nam, xin thống nhất Phật
giáo cả nước, thì ông Bộ trưởng
trả lời Hòa thượng chúng tôi rằng:
"Thống nhất thì tốt, nhưng thống
nhất các tổ chức Phật giáo yêu
nước, chứ thống nhất làm gì với
Phật giáo phản động ?". Hòa
thượng chúng tôi hỏi: "Phật
giáo phản động là Phật giáo
nào ?". Ông Bộ trưởng không trả
lời. Như vậy, chắc nhà nước muốn
ám chỉ Giáo hội chúng tôi là phản
động, không được dự phần
vào việc thống nhất Phật giáo cả
nước, nên chúng tôi không dám
đóng góp ý kiến". Khi H.T. Huyền Quang dứt
lời, tôi nói: "Mấy chục năm qua,
quí vị ở ngoài Bắc may mắn được
sống trong hòa bình, độc lập, tự do,
hạnh phúc, chắc quí vị đã
làm được rất nhiều việc cho Phật
pháp ngoài ấy, còn tại miền Nam
này chúng tôi phải sống trong chiến
tranh, lại bị kìm kẹp, đàn áp,
nên chẳng làm được bao nhiêu Phật
sự. Mà có làm được chút
nào thì nhà nước cũng trưng dụng
cả rồi. Như quí vị chắc đã thấy,
các trường Trung Tiểu học Bồ Đề,
viện Đại học Vạn Hạnh, các Trung
tâm văn hóa và các cơ sở từ
thiện xã hội từ Trung ương đến
các địa phương đều đã phải
giao cho nhà nước. Các Phật học viện
thì phải giải tán cho tăng ni sinh ở
đâu về đó lo việc sản xuất,
thành thử bây giờ Giáo hội chẳng
còn gì cả. Cho nên, nếu được
vinh dự thống nhất với quí vị thì cũng
chỉ với hai bàn tay không thôi. Như vậy,
ai cần thống nhất với ai ?". Lúc đó
đã đến giờ ngọ trai, chúng tôi
mời phái đoàn ở lại dùng cơm
trưa, vì chúng tôi đã chuẩn bị
cả rồi. Thế là cuộc thăm xã giao
và hỏi ý kiến cũng chẳng mang lại kết
quả gì. Từ đó, cố H.T. Trí Thủ, các T.T.
Trí Tịnh, Minh Châu trong Ban vận động
thống nhất Phật giáo tiếp tục vận
động, tiếp tục đi họp, và mỗi lần
đi họp về, các vị lại thúc ép
T.T. Huyền Quang và tôi gia nhập thống nhất.
T.T. Huyền Quang và tôi chủ trương một
cách cương quyết là GHPGVNTN phải
chính thức được mời dự họp, họp
với ai, ai đứng ra tổ chức họp để
bàn việc thống nhất Phật giáo, thống
nhất trên cơ sở nào, theo hình thức
nào, cơ cấu tổ chức ra sao, và sau khi thống
nhất rồi, thì các tổ chức Phật
giáo trước kia, không riêng gì GHPGVNTN,
mà các tổ chức của các giáo
phái khác đều xóa bỏ hẳn, hay
còn được giữ lại dưới một
hình thức nào đó để lo những
sinh hoạt nội bộ, đó là những
điều Giáo hội cần phải biết
rõ, cần phải bàn cho thấu đáo
trước khi thống nhất hoàn toàn, chứ
không thể cứ nói thống nhất một
cách khơi khơi như vậy được. Kết luận, chúng tôi cùng đưa
ra một ý kiến: "Ngôi nhà GHPGVNTN đây
là do tăng ni miền Nam, từ Quảng Trị đến
Cà Mau xây dựng nên với sự
đóng góp xương máu, nước mắt
của toàn thể tăng ni Phật tử miền
Nam, họ không thể tất cả tập trung về
đây để trông nom ngôi nhà ấy
được, nên họ nhờ quí vị
và chúng tôi trông nom giữ nhà
giùm họ. Nếu bây giờ vì một
lý do nào đó, quí vị thấy
không thể tiếp tục giữ nhà giùm họ
nữa, thì quí vị phải gọi họ về
mà trả nhà lại cho họ để họ
quyết định, nếu họ muốn giữ lại
nhà, thì họ sẽ nhờ người
khác, còn nếu họ muốn bán hoặc cho
ai thuê thì đó là quyền của họ,
chứ quí vị cũng như chúng tôi ở
đây không ai có thẩm quyền quyết
định việc này. Nói cách khác, Hiến
chương Giáo hội đã qui định,
Đại hội Giáo hội thường niên
là hai năm một kỳ, nhưng khi có vấn
đề liên quan đến sự tồn vong của
Giáo hội, thì phải triệu tập Đại
hội bất thường để giải quyết, chứ
Ban chỉ đạo Viện Hóa Đạo không
có quyền quyết định. Bây giờ
đây chính là lúc có liên quan
đến sự tồn vong của Giáo hội, vậy
xin Hòa thượng Viện trưởng thay mặt
Đức Tăng Thống, triệu tập Đại hội
bất thường để Đại hội quyết
định vấn đề này". Sau đó ít hôm, tôi nhận
được văn thư của sở Công an
thành phố mời ra gặp ông Quang Minh (xin
nói nhỏ ở đây là tại đất
nước Việt Nam độc lập tự do hạnh
phúc này, ai nhận được thư sở công
an mời là "dựng tóc gáy" rồi
đó). Riêng tôi đã có "vinh dự" được nhiều lần như vậy.
Khi tôi đến nơi, sau vài câu nói
xã giao, ông Quang Minh bảo "Đảng" cần
thống nhất Phật giáo trong lúc này
và buộc tôi phải đồng ý (tất
nhiên với giọng hăm dọa quen thuộc).
Tôi nói tôi cũng đã được
nghe sư cụ Phạm Thế Long nói tại
chùa Ấn Quang như vậy, rồi tôi
đưa Hiến chương Giáo hội ra trình
bày cũng như tôi vừa nói ở
trên, phải do Đại hội quyết định
chứ không có cá nhân hoặc một
nhóm người nào quyết định
được. Và tôi, yêu cầu ông Quang
Minh cho chúng tôi triệu tập Đại hội
bất thường. Tôi nói rõ bình
thường thì mỗi tỉnh cử năm đại
biểu hoặc ba, nhưng trong tình hình hiện
nay, tôi chỉ yêu cầu cho mỗi tỉnh cử
một vị Chánh đại diện, nếu
Chánh đại diện đau ốm, thì vị
Phó hoặc Thư Kí, hay bất cứ ai trong ban
đại diện đi thay cũng được. Rồi
tôi nói với ông Quang Minh thông cảm
vì chúng tôi phải làm theo đúng
nguyên tắc Hiến chương mà chắc
ông làm hành chính thì cũng thế
thôi. Nhưng ông
Quang Minh bảo không còn thì giờ nữa ! Tôi nói việc thống nhất
Phật giáo chứ đâu phải là việc
hành quân mà gấp rút như vậy.
Ông Quang Minh bảo tôi nguyên văn như sau: "Tính ông thì chỉ
thích làm anh hùng !". Tôi nói:
"Tôi là một nhà sư tu hành mà
anh hùng cái nỗi gì, anh hùng rơm ấy
à ?". Ông Quang Minh nói: "Sư thứ dữ
chứ phải sư vừa đâu!". Tôi đứng
dậy chào ông và "thong thả" ra về. Đến khoảng tháng 9 năm 1981, cố H.T.
Trí Thủ, với danh nghĩa Trưởng ban vận
động thống nhất Phật giáo, đề
nghị Viện Hóa Đạo cử Đại diện
Giáo hội đi dự Đại hội thống nhất
Phật giáo sẽ họp tại Hà Nội
vào cuối năm đó. Tôi đề nghị
nhà nước đã không cho triệu tập
Đại hội bất thường thì bây giờ
phải triệu tập Hội đồng Viện
Hóa Đạo gồm mười một quận
Giáo hội Đô thành để thông
báo cho họ biết về việc này. Cố
Hòa thượng Trí Thủ đồng ý. Hôm sau tôi gửi văn thư mời các
vị trong Ban Đại diện Giáo hội của
mười một quận về chùa Ấn Quang họp.
Hình như họ đã đoán trước
được là cuộc họp này rất quan
trọng nên họ về dự rất đông,
không những chỉ có các vị Đại
diện chính thức của mười một quận,
mà còn có cả tăng ni về dự
thính, ngồi chật giảng đường, đứng
ngoài sân và trên các hành lang trong
chùa. Cố H.T. Trí Thủ chủ tọa cuộc
họp (xin nhắc lại, với tư cách Trưởng
ban vận động thống nhất Phật giáo
thì ngài là khách, nên lần trước
ngài đã về "thăm xã giao"
nhà Ngài. Nhưng hôm nay với tư cách
Viện trưởng Viện Hóa Đạo nên
Ngài chủ tọa cuộc họp). Với tư cách Tổng thư kí Viện
Hóa Đạo GHPGVNTN, tôi đứng lên
tuyên bố rõ lý do triệu tập cuộc họp.
Trước hết, tôi đọc lại các
văn thư mà Viện Hóa đạo đã
gửi ra phủ Thủ tướng tại Hà Nội
nói rõ quá trình thành lập Giáo
hội và các cơ cấu tổ chức
cùng các hoạt động của Giáo hội
tại miền Nam Việt Nam trước ngày đất
nước thống nhất, đồng thời, gửi
kèm bản Hiến chương và nội qui của
Giáo hội để tường trình với
nhà nước. Kế đó, tôi nói với
các vị Đại diện Giáo hội trong cuộc
họp như sau: "Nay H.T. Viện trưởng Viện
Hóa Đạo đứng ra làm Trưởng ban vận
động thống nhất Phật giáo, không biết
ai đã thành lập ban này, thành lập
ở đâu và ai đã bầu Hòa
thượng làm Trưởng ban, Viện Hóa
Đạo hoàn toàn không được biết
điều đó, và cho đến nay, Giáo hội
cũng chưa chính thức được mời dự
bất cứ cuộc họp nào bàn về thống
nhất Phật giáo. Bởi vậy, Giáo hội
chưa biết thống nhất trên cơ sở
nào, theo hình thức nào và sau khi thống
nhất, tư cách pháp lý của GHPGVNTN sẽ
ra sao. Đây là vấn đề tồn vong của
Giáo hội, mà theo Hiến chương Giáo hội,
phải do Đại hội quyết định. Cách
đây mấy hôm, tôi đã được
sở Công an mời ra bảo tôi phải đồng
ý thống nhất, tôi đã nói với
ông Quang Minh (người tiếp tôi) là Ban chỉ
đạo Viện Hóa Đạo không đủ
thẩm quyền quyết định việc quan trọng
này, mà phải do Đại hội Giáo hội.
Và tôi đã yêu cầu ông Quang Minh cho
chúng tôi triệu tập Đại hội bất
thường, mỗi tỉnh cần một vị
Chánh đại diện hay Thư kí cũng
được, nhưng ông Quang Minh đã
không đồng ý, viện lẽ không
còn đủ thì giờ ! Bây giờ đây H.T. Viện
trưởng đề nghị Viện Hóa Đạo
cử Đại biểu Giáo hội đi dự
Đại hội thống nhất Phật giáo sẽ
họp ngoài Hà Nội, tôi nhận thấy
Đại hội bất thường thì nhà
nước không cho, bởi thế hôm nay Viện
Hóa Đạo mời quí vị về họp
để hỏi ý kiến và tùy quí vị
quyết định". Trước khi dứt lời
để trao quyền điều khiển cuộc họp
cho Hòa thượng chủ tọa, tôi có
bày tỏ một vài ý kiến như sau: "Kính bạch Hòa thượng Viện
trưởng Viện Hóa Đạo chủ tọa cuộc
họp, kính thưa toàn thể quí vị, chắc
quí vị cũng như tôi đều thấy
rõ hiện nay con thuyền GHPGVNTN đang lênh
đênh giữa biển khơi và gặp sóng
to gió lớn, chưa biết sẽ chìm lúc
nào. Vậy, nếu những ai trong quí vị
có mặt ở đây hôm nay cảm thấy
nguy nan sợ hãi mà muốn bước sang thuyền
khác để thoát thân, thì xin quí vị
ấy cứ việc tự do, không ai ngăn cản cả.
Nhưng tôi chỉ xin quí vị ấy một
điều là: trước khi bước sang thuyền
khác qúi vị cứ để mặc cho con thuyền
Giáo hội lênh đênh trôi dạt trong
sóng gió với những người còn ở
lại trên đó, họ sẽ cố sức
lèo lái, nếu may mắn vượt qua cơn
nguy nan mà đến được bờ bình an
thì họ sống, còn nếu chẳng may con thuyền
chìm thì họ cũng sẽ sẵn sàng chết
theo nó, chứ quí vị ấy đừng
đang tâm nhận chìm con thuyền của
mình mà có lần đã từng
đưa quí vị đến bờ danh vọng, lợi
lộc, trước khi bước sang thuyền khác.
Tôi chỉ xin quí vị có thế thôi.
Tôi dứt lời và cảm ơn quí vị". Khi tôi nói xong thì cả trong hội
trường và ngoài sân, ngoài các
hành lang nổi lên những tràng pháo tay
vang dội, rồi tôi thấy T.T. Trí Tịnh
đứng dậy đi ra trước tiên, kế
đó là T.T. Minh Châu và sau cùng
là Hòa thượng Viện trưởng chủ tọa
! Thế là cuộc họp tự nhiên cũng tan.
Sau đó tôi nghe có tiếng vọng lại:
"Hôm nay thầy Quảng Độ mời chúng
tôi về đây để thóa mạ
chúng tôi". Còn lại Thượng tọa
Huyền Quang và tôi, chúng tôi nhìn nhau
một lúc rồi cũng giải tán ! Ba hôm sau, Văn phòng Viện Hóa Đạo
nhận được bản "Thông báo" của
Ban vận động thống nhất Phật giáo
đề ngày 17-9-1981, do T.T. Minh Châu kí
tên, dài lắm, tôi chỉ còn nhớ một
đoạn ngắn, vì có lẽ nó là
đoạn quan trọng nhất trong bản Thông
báo. Đoạn ấy như sau: "...Thượng tọa Thích Quảng
Độ, Tổng thư kí Viện Hóa Đạo,
đã triệt hạ uy tín của toàn Ban vận
động thống nhất Phật giáo Việt Nam,
phá hoại công cuộc thống nhất Phật
giáo, ngang nhiên thách thức với chính
phủ và Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam
là những người đang khuyến khích
và hỗ trợ sự nghiệp thống nhất Phật
giáo cả nước!". Bản Thông báo của Ban vận động
thống nhất Phật giáo trên đây sau
được ai đó gửi đi khắp các
tỉnh miền Nhân đây tôi cũng xin thanh minh
rằng tôi không chủ trương "phá hoại
thống nhất Phật giáo" mà tôi chỉ
muốn thống nhất trong tinh thần hòa hợp,
đồng thuận theo đúng luật Phật
"Hòa hợp phủ? - Hòa hợp !" (chư
tăng có hòa hợp không ? - Hòa hợp
!); nghĩa là việc thống nhất Phật
giáo là việc của chư tăng hai miền
Nam Bắc, phải do chư tăng hai miền quyết
định một cách hòa hợp và đồng
thuận, chứ tôi không muốn nhà nước
cộng sản can thiệp vào rồi bắt
chúng tôi phải thống nhất theo ý muốn
của nhà nước để sau dễ bề lợi
dụng Giáo hội cho những mục đích
chính trị và hợp thức hóa cho chủ
trương tiêu diệt Phật giáo của đảng
và nhà nước cộng sản. Còn bảo tôi "ngang nhiên thách thức
với chính phủ và Mặt Trận Tổ quốc
Việt Mỗi khi Thượng tọa có việc phải
xuất ngoại thì Thượng tọa giao cho
tôi Quyền Viện trưởng Xử lý Đại
học Vạn Hạnh. Thế mới biết danh lợi
dễ làm cho con người hư hỏng, và thế
cũng mới biết cộng sản đến
đâu là làm tình người tan nát
đến đấy.
Và chỉ mấy tháng sau là T.T. Huyền Quang
và tôi bị đưa đi quản thúc
lưu đày vì bản Thông báo
đó. Tôi biết được điều
này là vì sau khi tôi bị đưa ra Bắc
ít lâu, người ta nói với tôi
là họ thắc mắc hỏi công an tại sao lại
bắt tôi ra đây, thì công an bảo
tôi ở trong Nam chống phá Giáo hội, bởi
vậy các ông Trí Thủ, Trí Tịnh,
Minh Châu yêu cầu nhà nước đưa
"hắn" (tức là tôi) ra đây để
trong ấy họ dễ làm việc, chứ nhà
nước có bắt bớ gì hắn
đâu. Cái lợi thống nhất Phật
giáo do cộng sản chỉ huy là thế. Có lẽ T.T. Minh Châu chỉ muốn một
mình mình sống trong "Thiên đường"
thôi, vì trong một chuyến đi Liên xô
với cố H.T. Trí Thủ về, T.T. Minh Châu
đã tuyên bố "Mạc Tư Khoa" (thủ
đô của Liên xô cũ) là Thiên
đường trên mặt đất. T.T. Minh Châu cũng đã từng
chu du nước Mỹ đến Hoa Thịnh Đốn,
nhưng chắc bơ sữa Hoa Thịnh Đốn
không ngon bằng bơ sữa thiên đường
Mạc Tư Khoa ! Chưa hết, sau khi T.T. Minh Châu xuất
gia, bát cơm đầu tiên mà T.T. Minh
Châu ăn là cơm Bắc Tông (tức Đại
Thừa), bổn sư của Thượng tọa là
đức Đệ nhất Tăng Thống của
GHPGVNTN. Sau ngài sang Tích Lan và Ấn Độ
học Nam Tông (tức Tiểu Thừa), ngài mặc
áo vàng rồi vào tuyên bố các kinh
điển Đại Thừa (tức Bắc Tông)
không phải Đức Phật nói (ngụ ý
là ma nói), mà đức Phật chỉ
nói có các bộ Trường bộ kinh, Trung
bộ kinh, Tăng nhất bộ kinh v.v... mà ngài
đã dịch ra tiếng Việt thôi. Vậy theo quan điểm của T.T.
Minh Châu, những người tu theo Bắc Tông
như tôi là những kẻ ngoại đạo
thì không có tư cách được sống
ở Thiên đường, vì Sài gòn cũng
sẽ là một thiên đường, cho nên
phải đuổi nó xuống địa ngục ! Đến cuối năm 1981, Đại hội thống
nhất Phật giáo chính thức được
mở ra tại Hà Nội. Tôi được biết,
T.T. Thích Thiện Siêu cầm đầu một
phái đoàn mười người nói
là đại diện cho GHPGVNTN, có văn thư
đề cử đóng khuôn dấu Viện
Hóa Đạo đường hoàng, tôi rất
ngạc nhiên. Bởi vì T.T. Thiện Siêu
có chức vụ gì trong Viện Hóa Đạo
đâu, mà Viện Hóa Đạo cử T.T.
Thiện Siêu làm đại biểu của Viện
đi dự họp, còn khuôn dấu
Viện Hóa Đạo do tôi cất giữ, khi
đến văn phòng thì tôi mang đến,
hết giờ làm việc thì tôi mang về, vậy
khuôn dấu ở đâu ra ? Lúc đầu
tôi không tin, bởi lẽ tôi biết T.T. Thiện
Siêu là bậc học thức, có đức hạnh,
tôi rất kính trọng Thượng tọa
và tuyệt đại đa số tăng ni miền
Nam cũng thế, không tin Thượng tọa lại
có thể làm một việc như vậy,
nhưng sau tôi mới biết rõ đó
là sự thật ! Trong Đại hội ấy, cố Hòa
thượng Trí Thủ được bầu
làm Trị sự trưởng Trung ương
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (do cộng sản
chỉ huy), T.T. Trí Tịnh Đệ nhất Phó
trị sự trưởng, T.T. Minh Châu Thư kí
Văn phòng II đặt tại chùa Xá Lợi
ở Sài gòn, T.T. Thiện Siêu và các
vị khác đều có chức vụ, nghĩa
là tùy theo công lao nhiều ít, đều
được tưởng thưởng cả ! Tôi còn nhớ tháng 12 năm 1978, sau khi
tôi được tha từ nhà tù Phan
Đăng Lưu về, một vị đệ tử của
T.T. Trí Tịnh, trước kia có học tôi ở
Đại học Vạn Hạnh, từ Thủ Đức
lên thăm tôi, vị ấy nói với tôi
là "thầy con (tức T.T. Trí Tịnh) bảo
thầy con là bậc đại
trí mới tránh được những tai nạn". Đến nay tôi nghĩ lại
thì thấy T.T. Trí Tịnh và T.T. Minh Châu
quả thực là hai bậc đại trí.
Năm 1963, ông Ngô Đình Diệm đàn
áp Phật giáo, tăng ni Phật tử buộc
lòng phải đứng lên chống lại; nửa
đêm 20 tháng 8 năm 1963, ông Diệm cho cảnh
sát tấn công tất cả các chùa
trên toàn miền Nhưng, sau khi chế độ Ngô Đình
Diệm đổ, GHPGVNTN được thành lập
thì T.T. Trí Tịnh ra giữ chức Tổng vụ
trưởng Tổng vụ Tăng sự. Đến
tháng 4 năm 1975 thì T.T. Trí Tịnh không
dự một cuộc họp nào của Viện
Hóa Đạo nữa. Ngày 30-4-1975 cộng sản
toàn thắng về tiếp thu Sài gòn;
ngày 15-5-1975 cộng sản tổ chức ăn mừng
chiến thắng có diễn binh trước dinh Độc
Lập và truyền hình trực tiếp. Khi
nhìn vào Tivi, trên
khán đài danh dự, tôi đã thấy
T.T. Trí Tịnh đang ngồi chễm chệ trên
đó rồi, thật là bậc
đại trí ! Còn T.T. Minh Châu thì năm 1964 mới từ
Ấn Độ trở về và được
Giáo hội mời làm Tổng vụ trưởng
Tổng vụ giáo dục kiêm Viện trưởng
Viện Đại Học Vạn Hạnh. Năm 1972 cuộc
chiến Việt Nam đã đến giai đoạn
khốc liệt. Người ta chưa quên Quảng Trị
mùa hè rực lửa. Lúc đó, Hội
nghị Tôn giáo Thế giới về Hòa
bình (The World Conference on Religion and Peace) vận động
hòa bình cho Việt Nam và mời Giáo hội
tham gia. Tình hình chiến sự càng ngày
càng sôi động và đến khoảng tháng 3 năm
1975, T.T. Minh Châu cũng không dự cuộc họp
nào của Viện Hóa Đạo nữa và
tuyên bố tách rời khỏi đường lối
vận động hòa bình của Giáo hội.
T.T. Minh Châu nói ngài chỉ
chuyên về lãnh vực văn hóa giáo dục
mà thôi. Nhưng đến năm 1976 thì T.T.
Minh Châu lại ra ứng cử vào Quốc hội
thống nhất đầu tiên của cộng sản
và cho đến nay (1992) ngài vẫn còn ngồi
trong cơ quan đó. Thì ra T.T. Minh Châu
thích làm chính trị cộng sản chứ
không thích vận động hòa bình. Cũng
là một bậc đại
trí hiếm có. Kể từ ngày cố H.T. Trí Thủ
được bầu làm Trị sự trưởng
của Giáo hội nhà nước thì GHPGVNTN
không còn Viện trưởng Viện Hóa
Đạo. Không có Viện trưởng thì
Phó Viện trưởng lên Quyền Viện
trưởng cho đến khi có Đại hội bầu
lại đúng như Hiến chương Giáo hội
đã qui định. Do đó, T.T. Huyền Quang
là Đệ nhất Phó Viện trưởng
lên làm Quyền Viện trưởng và
chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc
Giáo hội như thường. Có lẽ nhà
nước cộng sản Việt Nam nghĩ rằng, nếu
cứ để T.T. Huyền Quang và tôi tiếp tục
làm việc như vậy, thì sau này Giáo
hội nhà nước sẽ khó lòng đến
chiếm Văn phòng Viện Hóa Đạo
được; mà nếu không chiếm được
Văn phòng và trụ sở Trung ương của
Giáo hội thì cũng khó bắt các
Giáo hội địa phương theo Giáo hội
nhà nước, cho nên việc phải đến
đã đến và dựa vào bản
Thông báo của T.T. Minh Châu tố cáo
tôi "ngang nhiên thách thức với
chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam" như tôi đã nói ở trên
làm cơ sở. Lúc 4 giờ chiều ngày 24-2-1982, tôi nhận
được một văn thư của sở Công
an thành phố, ngoài bì đề "Hỏa
tốc". Tôi mở ra xem thì biết tôi
được "mời" đến sở Công
an vào đúng 8 giờ ngày 25-2-1982, lí do
cho biết sau, do ông Quang Minh tiếp đón (lại
Quang Minh !). Kể ra tôi cũng có
"duyên" với ông này lắm, có lẽ đã từ bao kiếp
trước ! Tôi không biết chức vụ của
ông, nhưng chắc là cấp cao. Suốt thời
gian tôi ở trong nhà tù Phan Đăng Lưu,
cứ mỗi tuần, dần dần mỗi tháng,
tôi lại được "tiếp" ông ta một
lần để "làm việc" (tức lấy
khẩu cung). Rồi sau khi ra khỏi nhà tù,
tôi cũng được ông "tiếp"
luôn và có lẽ lần này là lần
chót. Người thứ hai mà tôi cũng
"kết duyên thắm thiết" đó
là ông Mai Chí Thọ Giám đốc sở
Công an thành phố và sau là Bộ trưởng
Bộ Nội vụ; tôi cũng được "hỏi
thăm sức khỏe" luôn. Lại một lần
"dựng tóc gáy". Đúng 8 giờ ngày 25-2-1982, tôi tới
sở Công an, được đưa đến một
căn phòng ngồi chờ và có hai anh
công an đồng phục mang súng lục đứng
canh gác. Đúng là dựng tóc gáy rồi.
Tôi nghĩ bụng lại một phen đi nghỉ
mát ? Khoảng một tiếng đồng hồ sau,
chắc họ cho là khủng bố thế là
đủ, tôi được đưa vào gặp
ông Quang Minh. Ông ta nói: "Ông làm việc tôn
giáo cũng là làm chính trị (!),
chúng tôi sẽ có thái độ với
ông". Thế rồi
khoảng năm phút sau, ông Quang Minh đứng dậy
đọc bản quyết định, do ông Lê
Quang Chánh ký tên, ông này là
Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành
phố, trục xuất tôi ra khỏi thành phố.
Sau ít phút, một người gọi là
Trưởng toán đưa tôi đi đến
lãnh nhiệm vụ và bốn anh công an vũ
trang đầy đủ áp giải tôi xuống
xe đưa đi, hệt như một vụ bắt
cóc người đòi tiền chuộc ! Lúc
ấy là 9 giờ 30. Khi đến ngã ba Dầu
Dây thuộc tỉnh Long Khánh, đoàn xe chừng
mười cái dừng lại tại một khu rừng
cao su nghỉ để ăn cơm trưa, tôi thấy
T.T. Huyền Quang ngồi cách tôi độ mười
mét, lúc ấy
tôi mới biết T.T. Huyền Quang cũng được
đi "ngao du sơn thủy" trong chuyến này. Kể từ ngày đó, các sinh hoạt
của GHPGVNTN hoàn toàn bị đình đốn.
Sau đó, cố H.T. Trí Thủ, Trị sự
trưởng Trung ương của Giáo hội
nhà nước về chiếm Văn phòng Viện
Hóa Đạo tại chùa Ấn Quang làm
Văn phòng "Thành hội Phật giáo"
của Giáo hội nhà nước. Hòa thượng Thích
Đôn hậu, Chánh thư kí kiêm Xử
lí Viện Tăng thống GHPGVNTN, đã gửi
văn thư phản đối việc làm ấy của
cố H.T. Trí Thủ Rồi
từ đó trở đi, tất cả tổ chức
của GHPGVNTN từ Trung ương đến các
địa phương đều bị buộc phải hạ
bảng hiệu của Giáo hội xuống và
trương bản hiệu của Giáo hội
nhà nước lên thay, luôn cả trụ sở,
nhân viên của của GHPGVNTN trước
đây, cũng được biến thành trụ
sở, nhân viên của Giáo hội nhà
nước, cũng Chánh đại diện, Thư
kí và ban này ban nọ, hệt như cơ cấu
tổ chức của GHPGVNTN, chỉ khác có
tên gọi "Giáo hội Phật giáo Việt
Nam" tức Giáo hội nhà nước mà
thôi. Thật là một đòn gậy ông
đập lưng ông hiểm độc. Đây mới chỉ
là mưu đồ ngắn hạn, tức mới chỉ
dùng người của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất để triệt hạ
GHPGVNTN, còn về dài hạn, thì cái
Giáo hội Phật giáo nhà nước ấy
được dùng để tiêu diệt Phật
giáo một cách hợp thức hợp pháp, cũng
như cái Hội Phật giáo Thống nhất Việt
Nam do sư cụ Trí Độ làm Hội trưởng
ngoài miền Bắc trước đây vậy.
Và cuối cùng, khi đã thực sự tiến
lên "thiên đường cộng sản" rồi
thì chính cái Giáo hội nhà nước
ấy cũng sẽ bị tiêu diệt. Nhưng cái viễn tượng thiên
đường cộng sản ấy xem ra còn xa vời
lắm, nhất là từ khi bức tường Bá
Linh sụp đổ, khối cộng sản Đông
âu và Liên xô tan rã, khiến thế
đứng của cộng sản Việt Nam lung lay,
thì giờ đây cộng sản lại lợi dụng
Phật giáo làm chỗ dựa, đưa vận
mệnh của Phật giáo Việt Nam ràng buộc
vào với chủ nghĩa xã hội, cũng
như nửa thế kỷ trước, cộng sản Việt
Nam đã đưa vận mệnh nước Việt
Nam ràng buộc vào với khối cộng sản
quốc tế. Cũng như mấy chục năm qua, cộng
sản đâu có nhắc đến ngày giỗ
Tổ Hùng Vương, nhưng bây giờ
ngày 10 tháng 3 âm lịch mới dở trò
tế Tổ. Rồi nghe đâu bây giờ trong miền
Nam, cộng sản cho các chùa thu nhận người
xuất gia và cho mở các trường Phật học
cơ bản để đào tạo tăng ni. Cũng nghe đâu vào ngày
Phật Đản và ngày tết, các quan chức
đảng và nhà nước có đến
các chùa "lễ Phật" ! Chao ôi,
quí hóa thay ! Các ngài vô thần đến
lễ Phật, Phật tổ chứng minh công đức
! Nhưng giá như từ năm 1945, 1954 hay ít ra
từ năm 1975 mà các ngài nhà ta
làm thế thì có tốt hơn không ? Tuy
nhiên, màn thưa chẳng che nổi mắt
Thánh đâu. Bất quá "Giết chẳng
được thì tha làm phúc" đó
thôi, chưa tiêu diệt
được thì hãy lợi dụng đã,
"lùi một bước để tiến ba bước"
mà ! "Phân gà" thì gạt lúc
nào mà chẳng được. Thật vậy,
nói đổ xuống sông xuống biển, nếu
mai mốt đây bức tường Bá Linh lại
được xây lại, khối cộng sản
Đông âu và Liên xô được
khôi phục, và cộng sản Việt Nam lại
có cái thế "thừa thắng xông
lên" của năm 1975, thì làm gì
còn chùa để các ngài vô thần
đến lễ Phật ! Tôi còn nhớ sau
ngày 30-4-1975, khẩu hiệu: "Chủ nghĩa
Mác-Lê bách chiến bách thắng muôn
năm !", "Chủ nghĩa Mác-Lênin vô
địch bất diệt" được treo trên
khắp các nẻo đường ở Sài
gòn, và hang cùng ngõ hẻm nào cũng
thấy các tấm bảng đỏ sao vàng
trông chói cả mắt. Rồi đến
ngày cách mạng tháng 10 Nga thì tổ chức
kéo dài cả tháng. Lúc đó
có ông cộng sản nào nhắc đến
ngày 10 tháng 3 giỗ Tổ Hùng Vương hoặc
đến chùa lễ Phật đâu ? Cũng
như nếu cộng sản đã đào mồ
chôn sống được "bọn" Tư bản
rồi thì bây giờ làm gì còn
tư bản để các ngài rước
vào Việt Nam và xin gia nhập khối Tư bản
Đông Nam Á mà trước kia các
ngài cho là tay sai đế quốc Mỹ ? Đập tượng
phá chùa để rồi đến lễ Phật,
chôn sống tư bản để rồi đi theo
tư bản, kể cũng giỏi, cũng hay ! Tóm lại, đạo Phật đã truyền
vào Việt "Nói tóm lại, sau các đời
vua hung hãn họ Đinh, Lê, ta thấy xuất hiện
ra những kẻ cầm quyền có độ lượng
khoan hồng, những người giúp việc ít
tham lam phản bạn. Đời Lý có thể gọi
là đời THUẦN TỬ nhất trong lịch sử
nước ta. Đó chính là nhờ ảnh
hưởng đạo Phật. Mà thực vậy, mỗi
lúc ta thấy có Nho gia bài xích Phật
giáo, thì ta biết rằng trong nước sẽ
có cuộc tranh quyền lợi mà giết lẫn
nhau. Sau khi Đàm Dĩ Mông sa thải tăng
già, thì có Trần Thủ Độ tàn
sát họ Lý. Cuối đời Trần, Nho học
lên thịnh. Có Trương Hán Siêu,
Lê Quát chỉ trích Phật giáo, thì
sau lại có Hồ Quý Ly sát hại họ Trần.
Trần Thủ Độ, Hồ Quý Ly làm những
việc kia, ấy cũng vì muốn thi hành
chính sách vị danh, xa hẳn lòng bác
ái từ bi của Phật". Còn một điều rất căn bản
tôi muốn nói ở đây là: Bất cứ
ai, muốn trở thành một Phật tử chân
chính, thì trước hết phải lãnh nhận
ba Quy y Phật Pháp Tăng và sống theo năm giới
điều: Không giết hại, không trộm
cướp, không gian dâm, không nói dối,
không uống rượu. Đó là đời
sống đạo đức. Ngày xưa, sau khi đánh bại Sở
Bá Vương Hạng Vũ thống nhất Trung Hoa,
Hán Cao Tổ Lưu Bang rất kiêu căng ngạo
mạn, hay chế giễu chửi bới các nhà
Nho, có khi gặp Nho sinh thì bắt họ bỏ mũ
ra rồi Cao Tổ đi tiểu vào mũ của họ
! Nhà trí thức Giả Nghị thấy thế
khuyên Cao Tổ đọc sách, Lưu Bang trả lời:
"Nãi công cư mã thượng nhi đắc
thiên hạ an sự thi thư ?". Nghĩa là
"Ta đây ngồi trên lưng ngựa mà
được thiên hạ, cần gì phải
đọc sách ?". Rõ là giọng kẻ
võ biền gặp thời, kẻ tiểu nhân
đắc thế. Giả Nghị thưa: "Chúa công có
thể ngồi trên lưng ngựa mà ÐƯỢC
thiên hạ, nhưng không thể ngồi trên
lưng ngựa mà TRỊ thiên hạ !". Thật là chí lí.
Các vua chúa Việt Nam đời Lý, Trần
thông minh và khiêm tốn hơn Hán Cao Tổ
của Tàu; họ tự biết giới hạn của
mình, họ biết không thể cứ cậy
có nhà tù, quân đội, công an
mà làm được tất cả mọi việc,
mà khiến được dân trở nên
lương thiện. Bởi thế họ đã
làm chùa và khuyến khích việc
làm chùa ở khắp mọi nơi để thờ
Phật, nhờ Tăng dạy dân sống theo ba Qui y
và năm giới điều để xây dựng
một xã hội có đạo đức,
nhân ái, lễ nghĩa, hiếu thảo và
độ lượng, nhờ đó xã hội
được yên vui. Tâm lý con người kể cũng lạ.
Ngày nay tôi nhận thấy thanh niên ở miền
Bắc, phần nhiều họ không sợ nhà
tù, họ ra rồi vào, vào rồi ra, cứ
như là đi ... nghỉ mát ấy. Thậm
chí họ còn nói thanh niên nếu
không vào tù ít ra là vài ba lần
trong cuộc đời thì không phải là
thanh niên ! Vậy mà khi đến chùa Vũ
Đoài, nghe tôi nói về đạo Phật,
về nhân báo quả ứng, về địa ngục
v.v... các anh đâm ra sợ và bỏ nghề
bất chính, nhất là nghề đồ tể
thì nhiều anh bỏ. Như vậy, khi đảng cộng sản Việt
Nam, theo giáo điều vô thần duy vật của
chủ nghĩa cộng sản quốc tế, nhằm
tiêu diệt đạo Phật, phá hủy
đình chùa, tức là đã đạp
đổ nền đạo đức của dân tộc,
hủy hoại di sản kiến thức văn hóa của
tổ tiên, phản bội tinh thần nhân ái
truyền thống của dân tộc, tinh thần "dĩ
hòa vi quí" của ông cha từ ngàn
xưa để thay bằng căm thù đấu tranh
giai cấp, cộng thêm với việc dạy dỗ
con tố cha, vợ tố chồng, anh em họ hàng
và thầy trò tố lẫn nhau trong cuộc cải
cách ruộng đất "ôn nghèo gợi khổ"
tại miền Bắc năm 1956 và đánh tư
sản tại miền Nam năm 1975, đã khiến
cho cả nền đạo đức nhân nghĩa của
dân tộc gây dựng hàng nghìn năm bị
đổ nát tan hoang, tôn ti trật tự xã
hội bị đảo lộn và luân thường
đạo lý phải bại hoại. Hậu quả là ngày nay con lợn chết thì
người ta khóc, bố mẹ chết thì
người ta mừng; khi con lợn đau ốm thì
người ta lo chạy chữa thuốc thang, tráng trứng
gà cho lợn ăn, còn bố mẹ ốm đau
thì nằm khô chờ chết ! Người ta kể câu
chuyện một anh nọ ở thành phố nuôi
chó Tây để bán, mua giường sắm
màn cho nó ngủ, mua thịt bò, trứng
gà cho nó ăn; bà mẹ ốm đau nằm
không, thấy thế thèm quá, nói với
con "Tao ốm nằm đây, chẳng có
gì ăn mà thấy mày cho chó ăn thịt
bò, trứng gà tao thèm quá !". Người
con trả lời: "Bà biết không ? Bạc triệu
đấy ! Còn bà thì làm ra được
đồng nào mà đòi ăn thịt
bò với trứng gà ? Bà chết mau đi
còn may nữa !". Khủng khiếp chưa, con Rồng
cháu Tiên ! Còn tình trạng con cái chửi
bố mẹ thì xẩy ra như cơm bữa, thậm
chí giết cả bố mẹ. Đáng lo lắm
thay ! Sự tàn phá về vật chất,
khi sửa chữa hoặc xây dựng lại,
tương đối còn dễ, nhưng sự hủy
hoại về tinh thần này không biết đến
đời nào mới vãn cứu được.
Đó là sự sai lầm tai hại của đảng
cộng sản Việt Kết luận. Tôi chắc rằng, khi đảng cộng sản
Việt Nam đọc bản nhận định này,
sẽ cho tôi là chống đảng, mà chống
đảng tức là chống Tổ quốc, hơn
thế nữa là chống trời, thì chắc chắn
là sẽ bị đấu tố đến chết rồi.
Tôi đã ý thức rõ điều
đó, nhưng tôi sẵn sàng đón nhận,
bởi vì những điều tôi nói trong bản
nhận định này đều là sự thật,
vậy nếu phải chết cho sự thật, thì cũng
chẳng có gì đáng ân hận hối
tiếc cả. Vả lại, tôi cũng chẳng còn gì
trên đời này nữa: bố tôi
đã chết sớm, mẹ tôi thì
đã bị cộng sản Việt Nam bắt đi
đày cùng với tôi năm 1982 và
đã chết thảm thương tại xã Vũ
Đoài năm 1985; sư phụ (bổn sư) tôi
là Hòa thượng Thích Đức Hải, từng
du học nước Pháp, đã bị Việt
Minh đến chùa bắt vào lúc 8 giờ
sáng ngày 19-8-1945, tức ngày 12 tháng 7
năm Ất Dậu, ngày cách mạng thành
công, đưa đến sân đình làng
Bặt, gần nhà ông Bùi Bằng
Đoàn, ở phủ Ừng Hòa tỉnh Hà
Đông xét xử tử và kết án tử
hình về tội "Việt gian bán nước",
rồi đưa thầy tôi ra bãi cỏ trước
đình bắn vào màng tai thầy tôi ba
phát súng lục, một dòng máu đỏ
tươi phun lên thẳng tắp, cho đến nay,
tôi vẫn còn nhớ như in, vì lúc
đó tôi đã 18 tuổi. Nhân
đây tôi cũng xin minh oan cho thầy tôi
không phải Việt gian bán nước mà
nguyên nhân như sau: Vì năm Giáp Thân (1944), nhiều nơi
người Nhật bắt dân phá lúa đi
để trồng đay, và tháng 10 năm ấy
lại mất mùa, nên năm Ất Dậu (1945)
dân đói lắm, nhất là hai tỉnh
Thái Bình, Nam Định, người chết
đói nằm ngổn ngang đầy đường.
Những ai còn sức đi được, họ
kéo nhau lên Hà Nội, Hà Đông để
xin ăn, nhiều người đến nơi thì kiệt
sức nằm chết ngoài đường phố. Lúc đó thầy tôi
đang ở chùa làng Thanh Sam phủ Ừng
Hòa tỉnh Hà Đông, nghe người ta
nói thương tâm lắm, thầy tôi
bèn ra Thị xã Hà Đông, lập hội
cứu tế giúp người đói, lúc ấy
là tháng 3 năm 1945.
Thầy tôi mở một khu trại và đưa
những người đói về đó để
nuôi. Bấy giờ thầy tôi có nhờ
ông Hồ Đắc Điềm là Tổng đốc
Hà Đông, can thiệp với người Nhật
xin một số gạo để cứu đói. Hội
đã cứu được nhiều người qua
cơn đói, đến tháng 6 năm 1945
thì những người đói đã khỏe
mạnh, tất cả họ đã trở về
quê cũ để thu hoạch vụ chiêm, trại
đóng cửa và thầy trò tôi cũng
về chùa. Có thế thôi. Vậy mà đến ngày
19-8-1945 cách mạng thành công, Việt Minh
lên án thầy tôi là theo Nhật, bán
nước, rồi giết như tôi vừa nói ở
trên. Ngày ấy
có rất nhiều người chết tương tự
như thế. Đến lượt sư bá tôi (tức
là anh trong đạo của thầy tôi), là
Hòa thượng Thích Đại Hải, trụ
trì chùa Pháp Vân (chùa Dâu) ở tỉnh
bắc Ninh, cũng bị Việt Minh bắt năm 1946
và sau đó đã chết về tội
đảng viên Quốc dân đảng ! (Tôi mở ngoặc đơn để
nói thêm rằng, những người Quốc
dân đảng là ai ? Họ cũng là những
người yêu nước, đấu tranh giành
độc lập cho dân tộc, mồ các liệt
sĩ Quốc dân đảng tại Yên bái
còn đó, họ có nợ máu gì với
cộng sản Việt Nam đâu mà sao cộng sản
nỡ đang tâm giết họ ?). Trong cuộc cải cách đấu
tố năm 1956, Quốc dân đảng được
xếp vào kẻ thù hàng đầu (tức
là trí thức) và nếu bị phát hiện
đều phải giết hết. Chẳng qua cộng sản Việt Nam học
chính sách của cộng sản Tàu mà
thôi. Vì Quốc dân đảng Trung Hoa (Tưởng
Giới Thạch) đã từng nắm chính quyền
và đánh nhau với cộng sản Tàu, khiến
Mao Trạch Đông phải mở cuộc "Vạn
lí trường chinh". Đến tháng 12
năm 1949, Mao Trạch Đông chiếm toàn lục
địa Trung Hoa, Tưởng Giới Thạch phải chạy
ra đảo Đài Loan, sau đó họ Mao ra lệnh
giết hết những đảng viên Quốc
dân đảng Trung Hoa còn lại không chạy
kịp để trả thù. Tuy vậy họ Mao vẫn
chưa hả dạ, còn ngờ có kẻ len lỏi
trốn thoát trong hàng ngũ các nhân
viên của chế độ cũ, phải phát
giác để tiêu diệt cho bằng hết. Bởi vậy, đến năm 1956, họ
Mao tung ra chiến dịch "Trăm hoa đua nở",
nghĩa là cho phép tất cả mọi người
được tự do nói ra những điều
mình không bằng lòng với chế độ
cộng sản để đảng sửa sai. Ai cũng
tưởng thật và
có điều gì dấu kín trong tâm
tư đem phun ra hết. Thế là họ Mao tiêu
diệt tất cả những người nhẹ dạ,
hầu hết là đảng viên Quốc dân
đảng, đã tin vào chiến dịch trăm
hoa đua nở ? Nhưng
còn ở Việt Nam thì Quốc dân đảng
đã nắm chính quyền bao giờ đâu,
đã có đánh nhau với cộng sản
Việt Nam đâu mà cứ hễ ai là Quốc
dân đảng là phải giết hết ? Rồi đến sư Tổ tôi (ông nội
trong đạo), trụ trì chùa Trà Lũ
Trung, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định,
năm 1954, cộng sản vào chùa bảo Tổ
tôi là dùng thuốc phiện tôn giáo
ru ngủ nhân dân, sẽ bị qui định
thành phần và đưa ra đấu tố, thế là Tổ tôi sợ
quá phải tự thắt cổ chết ! Nay đến lượt tôi cũng đã bị
cộng sản Việt Nam giam cầm đày đọa
suốt mười mấy năm rồi, chỉ vì
cái "tội" trung thành với lí tưởng
đạo Phật, muốn bảo vệ nền văn
hóa truyền thống của dân tộc, di sản
tinh thần và kiến trúc vật chất của
tổ tiên, thế thôi, chứ có tranh
giành quyền lợi gì với ai đâu.
Vì, theo tôi, văn hóa truyền thống
và di sản tinh thần của tổ tiên rất
là quan trọng, nhờ đó mà dân tộc
Việt Nam đã không bị đồng hóa bởi
các thế lực phong kiến, đế quốc
và thực dân xưa cũng như nay, khi thống
trị Việt Nam trước sau có tới hơn
nghìn năm. Dĩ nhiên, vì đã lâu
đời nên nền văn hóa cổ truyền của
chúng ta cũng đã có những cái lỗi
thời, ta nên bỏ đi, rồi học hỏi những
cái hay cái đẹp của thế giới
mà bồi bổ thêm cho mạnh thì được;
chứ nếu chúng ta bảo nó đã
lâu đời quá rồi, không còn
thích hợp với đời nữa, thôi bỏ
hết nó đi để thay vào đó một
thứ văn hóa hoàn toàn mới, hoàn
toàn xa lạ, thì chúng ta sẽ bị rơi vào trạng
huống: Tây chẳng phải Tây
Đông chẳng Đông Quỉ quái sinh ra lũ cuồng
ngông Mồ mả tổ tiên cày xới
hết Đình chùa miếu mạo
phá bằng không Ông bà xem nhẹ hơn con lợn Bố mẹ coi như khúc gỗ
thông Phảng phất non sông hồn Lạc
Việt Bốn nghìn tuổi sử tủi
hay không? Tóm lại, như tôi đã nói ở
trên, mẹ tôi, sư phụ tôi, sư bá
tôi, sư Tổ tôi đều đã chết
thảm, nay đến lượt tôi nếu lại chết
thảm, thì xin góp thêm một giọt
máu nữa vào trang sử đau thương của
dân tộc. Viết tại xã Vũ
Đoài huyện Vũ Thư, tỉnh Thái
Bình Tháng 1 năm 1992 (Ngày 14
tháng 12, Tân Mùi) Kỉ niệm năm thứ 10 bị quản
thúc lưu đày. Thích Quảng Độ Tổng Thư Ký Viện Hóa
Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt
- Vang Tho HUA
& DO MINH chuyển từ: http://www.tinparis.net/thoisu/0807_SaiLamCSVNPhatGiaoQuangDo_3008.html |
|
|