ĐÔI CHIM SÁO
(Truyện Nguyên Nhung)
Lời tác giả:
Mùa thu sắp trở về, những mùa thu
rất ngắn của đất trời vẫn mỗi
năm một lần trở lại, nhưng những
mùa thu của đời người thì mãi
mãi ra đi. Khu vườn nhuốm chút heo may
để giàn mướp rung rinh những bông hoa
cuối mùa, bụi mía xào xạc thoảng
qua hồn chút gió hắt hiu , và đôi
chim sáo vẫn mải miết tìm mồi trên
sân cỏ úa ..
"Đôi chim sáo" là hình ảnh
một đôi vợ chồng già, khi những con
sáo non đã đủ lông đủ
cánh để bay đi xa lìa cha mẹ, chỉ
còn lại đôi sáo già buồn bã,
ủ ê trong cái tổ ẩm ướt với những
ngày Đông dài lê thê .. "
Khi người hàng xóm sửa chữa lại
chỗ mái hiên bị giột, là từ
lúc ấy đôi vợ chồng chim bị mất
tổ. Không biết đấy có phải là
nỗi éo le của cuộc đời, hạnh
phúc của kẻ này lại là nỗi bất
hạnh của người kia, vẫn hay kề cận
bên nhau, khi đời sống luôn luôn là
những thay đổi. Như một thành phố
được tân trang cho mới mẻ, lại cũng
mất đi nét cổ kính của một vẻ
đẹp yên tĩnh, rất nên thơ.
Mỗi buổi sáng, khi mặt trời vừa thức
dậy, vợ chồng đôi chim sáo đã
lo tần tảo kiếm ăn. Tôi không biết
đó là loại chim gì, nhưng tiếng
hót khá hay, với màu lông xám có
một mảng phơn phớt bạc ở trên đầu.
Mình to gấp hai lần chim sẻ, tôi cho
chúng là một loại sáo, vì chúng
hay hót, có khi hót cả ngày vì một
điều gì vui trong thế giới của loài
chim.
Đấy là một đôi vợ chồng
chăm chỉ, còn trẻ tuổi, chưa con cái.
Hôm nào mưa, anh chồng bay lên sợi
dây điện, ngó quanh, hót lên mấy tiếng,
có ý than thở cảnh đất trời u
ám, khiến một kẻ chăm làm tham công
tiếc việc phải bất đắc dĩ nghỉ
ngơi. Còn lại chị vợ trong hốc tối ở
mái hiên, chị cũng hay hót, như
đàn bà thường lắm điều hơn
đàn ông, thỉnh thoảng chị bay sà xuống
cây thông đất trước cửa nhà
tôi để rỉa lông, rỉa cánh.
Khoảng đầu xuân, khi vợ chồng chim
đến làm tổ trên cái hốc tối
con con nơi mái hiên nhà hàng xóm,
tôi thấy họ bận rộn lắm. Qua khung cửa
kính, tôi quan sát đôi chim như một
đôi vợ chồng mới cưới, có thể
cô vợ đang mang thai, và họ cần một tổ
ấm cho gia đình. Vợ chồng sáo ríu
rít vào ra cái hốc nhỏ, được
hình thành khi mảnh ván bị mục vì
nước mưa, lâu ngày đã vô
tình khoét một chỗ trống, vừa vặn
cho gia đình một đôi chim sáo.
Hai người trẻ tuổi yêu nhau, bước
vào đời rộn ràng như thế nào
thì đôi chim sáo cũng y như vậy. Từ
mờ sáng, ánh đèn đường
còn lung linh dưới tàn cây tối thẫm,
tôi đã nghe đôi chim ríu rít,
trò truyện. Họ dậy sớm lắm, sớm
hơn cả lũ trẻ phải dậy đi học, nhất
là những ngày vào Xuân, năm ấy
đâu là mùa Xuân đầu tiên của
vợ chồng sáo. Không biết họ ở
đâu đến đây, nhưng ngay những
ngày đầu, tiếng hót của họ
đã làm những người trong khu chung cư
thức dậy, và biết là mùa xuân
đã tới. Những giọt mưa xuân
đêm qua còn lóng lánh trên những
lá cỏ non, khi bình minh đến, chiếu những
tia nắng dịu dàng lên cỏ hoa, để những
giọt nước li ti ấy biến thành những
viên kim cương diễm lệ.
Đúng là những người yêu
đời nhất thế gian, đôi vợ chồng
chim bắt tay vào việc xây dựng tổ ấm
rất hăng hái, bay ra bay vào suốt ngày, mỗi
lần trở về lại cắp theo một nhánh
cây khô, một cọng cỏ héo, và cả
những chiếc lá xanh. Họ có cái rộn
ràng, tất bật khi phải cố hoàn
thành cho nhanh, một cái nôi cho lũ con thơ
sắp chào đời nay mai. Được một dạo,
khi anh chồng đi kiếm ăn, chị vợ có vẻ
mệt mỏi đậu xuống cành thông đất
trước hiên nhà, chị hững hờ mổ
mổ chiếc lá non, như người phụ nữ
đang mang thai thèm ăn dở.
Sáng nào, tôi cũng ngồi hằng giờ
ngắm nghía hạnh phúc của vợ chồng
chim sáo, ngay cả khi chị sáo khẽ khàng
đậu trên nhánh thông, tôi cũng
không dám mở cửa, sợ kinh động
cái thảnh thơi của chị. Chị sáo
có cái thảnh thơi của một tâm hồn
trong sáng, hình như không có gì để
suy nghĩ ngoài những hạnh phúc chị
đang có. Chị nhảy từ cành này sang
cành kia, thỉnh thoảng lơ đãng ngó
mông lên rặng cây bên đường,
có thể chị đang nghĩ đến anh chồng
đang luẩn quẩn đâu đó. Khi anh
sáo về, chị cũng cuống quýt bay lên,
đôi vợ chồng chim lại lục đục
trên cái hốc tối. Ấm áp lắm, nồng
nàn lắm, tôi ưa nhìn cái hạnh
phúc của muôn loài, và cảm nhận
được cái vui từ chút hạnh phúc
nhỏ nhoi, đơn giản ấy.
Đấy là những ngày đầu
tiên của vợ chồng chim sáo, hạnh
phúc khi có thì ở đâu cũng hạnh
phúc, chưa chắc gì trong những căn
phòng đẹp đẽ, tiện nghi của
loài người, hạnh phúc đã thèm
hiện diện.
Đôi vợ chồng chim sống thật êm
đềm, đơn giản đến không còn
gì đơn giản hơn. Sáng. Dậy sớm.
Hỏi han nhau ba điều bốn chuyện, qua những
tiếng hót làm vui tai mọi loài. Rồi khi
nắng lên, bay đi kiếm ăn. Tuy nhiên, họ
lại là những kẻ rất chu đáo trong vấn
đề chăm sóc gia đình, rất bận rộn
cho miếng ăn hằng ngày, nhưng vẫn
không bỏ bê nhà cửa. Tôi thấy vợ
chồng sáo về nhà luôn luôn, tha
thêm những nhánh cỏ khô, chiếc lá
héo.Tôi tưởng tượng trên đống
cỏ khô được khoanh tròn lại bằng
những chiếc mỏ khéo léo của vợ chồng
sáo, dăm chiếc trứng xinh xinh, tròn trĩnh
đã được chị vợ sắp xếp gọn
gàng, vừa đủ cho chị mỗi ngày ủ
ấp lũ con thơ, đang hình thành trong lớp
vỏ trứng.
Cái ấp yêu của vợ sáo, là
cái ấp yêu của những người mẹ
yêu con ngay từ lúc còn là bào thai, vừa
mới tượng hình trong lòng mẹ. Tình
mẫu tử đã được ràng buộc
giữa mẹ và con, chị sáo cũng như bao
người mẹ khác, đã nâng niu những
đứa con yêu của chị trong những quả trứng
mỏng manh kia. Chị sáo chắc hẳn cũng
đã từng nghe ngóng, chờ đợi. Một
hôm nào nghe lũ con cựa mình trong vỏ trứng,
rất khẽ khàng chị dùng chiếc mỏ cứng,
giúp con đẩy chiếc cửa đầu tiên
vào đời. Mấy chú sáo non run rẩy,
trần trụi lớp lông tơ, nếu không
có tổ ấm của cha, sự săn sóc của
mẹ, làm sao để sống?
Từ đấy, tôi có cái ngạc
nhiên khi nhìn cuộc đời ở một
khía cạnh khác, khi biết rằng trong thế
giới loài người, có những người
con thành đạt, lớn lên trong nỗi nhọc
nhằn của cha mẹ, đã hắt hủi
cái tổ ấm của mình, và nhìn
nó bằng những đôi mắt ghẻ lạnh.
Khi lũ con ra đời thì vợ chồng
sáo có vẻ bận rộn hơn. Ở góc
cạnh này, tôi rất khâm phục anh
sáo, nếu là người, anh rất xứng
đáng là một người cha gương mẫu.
Anh ta vốn là một người chăm chỉ,
bây giờ lại càng chăm chỉ hơn, khi
trên chiếc tổ chim ấy, đã vang lên tiếng
liếp chiếp đòi ăn của bầy con dại.
Chị sáo dạo này thỉnh thoảng mới
bay ra cây thông, có lẽ vì bận con mọn.
Trông chị có vẻ tất bật, không
còn cái vẻ thảnh thơi của độ
còn son rỗi, vì lo ngại lũ con thơ
có thể lăn ra khỏi tổ lúc chị vắng
nhà, rồi cứ thế lăn lông lốc xuống
thềm xi măng dưới kia, thì dẫu có Trời
giúp, chị vẫn không đủ sức để
đem con về tổ. Quan sát kỹ để thấy,
chị luôn luôn lấp ló nơi cửa , đầu
ló ra ngoài, hai con mắt trong veo như hai hạt
đậu. Người mẹ ấy chăm sóc con cẩn
thận lắm, lũ sáo non dường như
đã được đẩy tít vào
phía trong, cho dù một cơn gió lang thang, cũng
không thể thổi hắt vào cái tổ nhỏ
bé ấy.
*
* *
Qua hết mùa hè, mải miết kiếm
ăn nuôi lũ con thơ, anh sáo trông có vẻ
phờ phạc hơn. Tôi rất khâm phục sự
hy sinh của anh. Khoảng cách từ nhà anh ra rặng
cây xanh không xa, vì anh bay khá nhanh, nhưng
phải nói sự vật lộn để mưu sinh
giữa chợ đời đâu phải là dễ
dàng, khi trên ấy có đủ loại
khác nhau như sóc, quạ, hoàng oanh, chim sẻ
.. Anh sáo chắc có lúc cũng nhận ra
cái thực tế phũ phàng và cay đắng
trong việc tìm miếng cơm, manh áo, sự
tranh giành giữa muôn loài với nhau,
đâu có gì là dễ chịu, cho dù
anh có đạt được chân lý
“ăn để sống”.
Cuối hè ấy, khi lũ chim non đã
đủ lông đủ cánh, tôi thấy mấy
cái đầu xinh xinh ngó ngó, nghênh
nghênh ngoài cửa tổ, chiêm chiếp
kêu. Chị sáo cũng phục hồi sau thời
gian ở cữ, tròn trịa hơn, mũm mĩm
và xinh đẹp hơn, như người
đàn bà sau kỳ sinh nở, những đường
nét trên cơ thể nẩy nở ra như một
đóa hoa thời kỳ mãn khai. Lũ con lớn
hơn thì người cha càng vất vả,
có vẻ như kiệt sức, bộ lông
sáo không mượt mà như xưa, cái
nóng của mùa hè khiến anh thêm hốc
hác. Trong nhà, người ta mở máy lạnh
suốt ngày đêm, lúc cần ra đường,
người ta vội vã chui ngay vào xe, rồi hối
hả đi vào những căn phòng có
máy lạnh khác. Chắc anh sáo cũng mệt
mỏi lắm. Anh phải đi kiếm ăn, suốt
ngày bay tới bay lui từ hàng hiên ra rặng
cây xồi ven đường, lúc ấy râm
ran những tiếng ve gọi hè, chỉ còn mẹ
con nhà sáo chui rúc trong cái tổ nóng
bức chật chội. Ba đứa con chưa biết
bay, nhưng ăn tợn, thỉnh thoảng tôi thấy
chị sáo cùng chồng bay xuống sân cỏ,
nhặt nhạnh những hạt cơm, vụn bánh, hột
cỏ rồi lại bay ù về tổ. Bây giờ
chị cũng phải cùng chồng đi tìm mồi
về nuôi lũ con háu đói kia, chiêm chiếp
suốt ngày đến sốt ruột.
Sang đầu thu, mẹ sáo dạy con tập
bay. Mới đầu là những khoảng ngắn từ
tổ xuống hàng hiên, những cánh chim non sợ
hãi, rụt rè bay xuống hiên, rồi lại
bay về tổ. Những bước chân chập chững
vào đời, trong nỗi buồn vui của cha mẹ.
Như còn đấy, như mất đấy, một
ngày nào tổ ấm sẽ yên lặng,
không còn tiếng chim vui như tiếng trẻ
khóc, trẻ học. Khi những đứa con lớn
lên, sắp ra khỏi tầm tay cha mẹ, là
lúc ấy đời dường như ngắn lại,
rồi ở đâu kia đã hình dung ra
màu tàn phai của những chiếc lá
héo, thấy mình trong gương bỗng xa lạ
với mình ngày trẻ tuổi.
Ngày hôm ấy là một sáng đẹp
trời, tôi đã nhìn thấy, nghe thấy lũ
sáo con ríu rít bay ra khỏi tổ. Không hiểu
vợ chồng sáo buồn hay vui, khi thấy con mình
đã đủ sức bay đi, rồi mấy đứa
đã quay về cái nôi êm ái
đó ?
Lũ sáo con thật hồn nhiên khi mở to
đôi mắt nhìn bầu trời khoảng
khoát, rồi như kẻ đã nhìn thấy
tự do, chúng bật lên những tiếng
hót thánh thót, du dương như một bản
nhạc vui. Cái gì cũng mới lạ, khoảng
trời xanh bao la cho những cánh chim rộn ràng
xoải cánh đến những vùng trời
thênh thang, trên vòm cây xanh, những âm
thanh mời gọi của bạn bè khiến lòng
nao nức lạ. Phải nhập cuộc thôi, một
khung trời mới mẻ có hoa thơm và mồi
ngon, để túy lúy với men say cuộc đời.
Trong những con người trẻ, tâm hồn trẻ,
đâu đã biết ngậm ngùi trước
cảnh chia ly với mái ấm gia đình.
Tôi đã nhìn thấy những con
sáo con bay ra khỏi tổ vào đầu thu
hôm ấy. Nó có trở về không nhỉ?
Làm sao tôi có một câu trả lời,
nhưng tôi cứ chờ đợi, như đợi
những đứa con của mình đi đâu
đó, sẽ trở về, sẽ mãi mãi
không bao giờ quên tổ ấm.
*
* *
Sang thu, có một chút heo may chợt đến
vào buổi chiều, gia đình sáo có vẻ
yên lặng hơn, vì những đứa con
chưa trở về. Anh chị sáo buổi sáng vẫn
dậy sớm từ mờ đất. Hôm ấy
có thể mặt trời không lên, đám
mây xám giăng ngang bầu trời, cho cơn
mưa thu chợt đến và kéo dài suốt
những ngày tháng tám.
Mưa kéo dài suốt một mùa thu,
vài cơn bão rớt từ đâu ghé lại
khiến lòng người cũng chùng xuống bao
nhung nhớ. Cây cỏ ướt sũng dưới
mưa, vợ chồng chim thưa thớt tiếng chim vui,
những giọt mưa luồn vào tấm gỗ mục
trên mái hiên, làm tổ ấm của
đôi chim chừng ẩm ướt hẳn đi.
Vào mùa thu, vài tia nắng dịu
dàng ươm trên hàng cây đã
có nhiều lá úa, để một cơn
gió tới, đã cuốn theo những chiếc
lá vàng từ trên cây rớt xuống
như mưa, rồiø cứ thế lăn tròn xuống
cuối dốc. Mùa thu bao giờ cũng ngắn ngủi
và rưng rưng buồn, giàn mướp
hương còn lại những chiếc lá cuối
cùng vẫn xào xạc nghe như dư âm của
một cung đàn đềm êm trong quá khứ.
. .
Hết mùa thu lại tới một mùa
đông, không gian như càng ảm đạm
và lạnh lẽo. Gã mặt trời lười
biếng không thức dậy, ánh đèn vẫn
tỏa sáng trong vòm cây tối. Vợ chồng
sáo không hót lên câu chào hỏi mỗi
ban mai, những giọt mưa mùa đông vẫn rớt
trên mặt đường, loang loáng ánh
đèn từ những chiếc xe qua lại vội
vã.
Vợ chồng sáo như đôi vợ chồng
già, lủi thủi trong chiếc tổ ẩm ướt,
nùi cỏ khô như tả tơi thêm khi anh
sáo già không có cái hăng hái
ngày trẻ tuổi, đi tha những cọng cỏ
khô về làm tổ cho lũ con. Thỉnh thoảng,
vào một ngày khô ráo. vài tia nắng
yếu ớt lách ra khỏi màn mây màu
xám đục, tỏa xuống nhân gian một
chút ấm áp. Anh chị sáo bay ra khỏi tổ,
đậu trên sợi giây điện, hai cái
bóng chim như hai nốt nhạc sậm màu cho một
bản nhạc buồn.
Sao tôi ngậm ngùi thế. Buổi sáng,
chỉ còn một mình trong căn phòng vắng,
tôi nghe đôi chim sáo buông ra những tiếng
kêu rời rạc, khắc khoải như tiếng ca cẩm
cái chân đau, chiếc lưng mỏi cho một
tuổi già lụm khụm.
Hết mùa Đông, lũ sáo con vẫn
không trở về, nhưng một biến cố
đã xảy ra cho đôi vợ chồng sáo.
Người ta chuẩn bị sửa nhà đón
mùa xuân mới, người hàng xóm
đã gọi thợ đến sửa lại
mái hiên bị giột, thay vào đó một
tấm ván mới, bít lại cái tổ chim.
Khi đám thợ mang cưa, búa, gỗ đến,
tôi thấy đôi chim hoảng hốt bay ra, mắt
nhớn nhác nhìn loài người như một
loài quỷ dữ, nhất là khi âm thanh của
tiếng cưa kèn kẹt nghiến vào tấm
ván, như nhát dao cuối cùng trên cổ
người tử tội, thì mới hình dung
được cái hãi hùng của người
sắp chết.
Chiều hôm ấy, khi mái hiên nhà
hàng xóm đã được sửa chữa
xong, còn nồng mùi sơn mới. Mới mẻ,
cứng cát, không còn một cái hốc
nào làm chỗ trú cho loài chim. Tôi thấy
đôi chim sáo bay về, ngơ ngẩn đậu
trên sợi giây điện như hai nốt nhạc
buồn, ngơ ngẩn nhìn về tổ ấm dưới
mái hiên, rồi chúng vụt bay đi.
Không biết ở mắt chúng có ứa ra giọt
lệ nào không ? Riêng tôi, sao buồn
quá, và tôi đã khóc.
NGUYÊN NHUNG
(Trần Trọng Nhân chuyển)