Văn hóa cà
phê
(T.Vấn)
1.
Hôm rồi, có người bạn bên
Úc gởi qua điện thư cho tôi một
"sưu tập" khá thú vị. Đó
là những mẩu chuyện so sánh rất tinh tế
về Sài Gòn và Hà Nội, từ thời
tiết như mưa nắng cho đến đường
phố, cây cối và nhiều nhất là những
sinh hoạt hàng ngày như ăn, uống, vui
chơi, giải trí v.v... Trong đó, có một
mẩu so sánh về việc "uống cà
phê" như sau :
Uống Cà phê
Ở Sài Gòn: thường uống cà
phê có nhiều đá vào buổi
sáng trước khi đi làm
Ở Hà Nội: thường uống cà
phê khi đi chơi vào buổi tối trước
khi .. đi ngủ
Nếu bạn gọi một ly nâu
Ở Sài Gòn: bạn sẽ được
chủ quán mang cho một ly cà phê đen
Ở Hà Nội: bạn sẽ được 1
ly cà phê có thêm sữa
Nếu bạn muốn uống cà phê sữa
Ở Sài Gòn: cho xin 1 ly bạch sửu
Ở Hà Nội: nếu bạn gọi 1 ly bạch
sửu bạn sẽ nhận được câu trả
lời - không có, hoặc bạn bị coi là
.. hâm.
Đọan so sánh về ly "bạch sửu" làm sống lại trong tôi những
quán cà phê Tàu, những quán cà
phê đã làm nên một đặc
tính "văn hóa cà phê" rất
Sài Gòn. Thực ra, chữ bạch sửu có
lẽ là do đọc trại đi từ "bạc
xỉu", gọi tắt của cụm chữ "bạc
tẩy xỉu phé". Mấy chữ đó
là âm từ tiếng Quan Thọai, thứ tiếng
Tàu khá phổ thông trong số những người
Tàu sống ở Sài Gòn. Bạc là màu trắng, Tẩy
là cái ly không, Xỉu là một chút,
và Phé là cà phê. Rõ nghĩa hơn, đó
là một thức uống theo ý khách
hàng : Sữa nóng thêm một chút cà
phê. Sữa đặc pha với nước sôi
thường có mùi hơi khó uống,
nên chút cà phê thêm vào sẽ
làm cái mùi ấy mất đi. Ở những
quán cà phê bình dân của người
Tàu (những năm 50s, 60s, Sài Gòn đầy
dẫy những quán cà phê bình dân kiểu
này, chúng thường chiếm vị trí thuận
lợi ở mỗi đầu con hẻm), khi khách
hàng Việt gọi một món thức ăn, thức
uống bằng tiếng Việt, phổ ky (người hầu
bàn) thường có thói quen đứng từ
bàn của khách nói vọng vào bếp (cũng
được đặt ngay trong một góc gần
ngay chỗ thực khách ngồi ăn uống)
món thức ăn, uống ấy bằng tiếng
Tàu. Dần dà, người khách Việt thuộc
lòng món ăn, uống ưa thích bằng tiếng
Tàu và sau đó, đã sử dụng
luôn chúng trong lúc gọi thực đơn.
Và từ đó, ngôn ngữ Việt
đã đồng hóa một số từ thức
ăn, thức uống trong tiếng Tàu thành
ngôn ngữ riêng của mình, trong đó
có từ "bạc xỉu". Vì đó
là đặc tính "văn hóa cà
phê" riêng của Sài Gòn nên Hà
Nội làm sao biết được. Ngay cả
Sài Gòn bây giờ, có mấy người
trẻ hiểu được thói quen của mấy
ông bà lớn tuổi, vào quán cà
phê bình dân đầu hẻm, khi vừa ngồi
xuống đã vội kéo một chân lên
ghế (đẩu), vừa lớn tiếng gọi "cho
cái xây chừng coi !" (xây chừng : ly cà phê đen nhỏ), hay "sang"hơn một chút
: "Phổ ky ! cho cái xây nại !" (xây nại : ly cà phê sữa
nhỏ).
Để nói về "văn hóa cà
phê" của Sài Gòn những năm
đó, người ta cần cả một pho
sách.
2.
Nhưng, "văn hóa cà
phê" là gì ? *
Để "nắm bắt" được
khái niệm mơ hồ ấy, rất đơn giản.
Một buổi sáng đầu thu nhàn rỗi
nào đó, với chút không khí se lạnh
đầu ngày, bạn mở cửa bước
vào một nhà sách quen thuộc (Barnes &
Noble chẳng hạn). Điều đầu tiên bạn
chú ý là mùi cà phê ngào ngạt
"quánh" lại giữa không gian, phát ra
từ một góc (trái hoặc phải, hoặc
ngay chính giữa) của tiệm. Đó là
quán cà phê mang cái tên khá quen thuộc
với người Mỹ : Starbuck hay có thể
là một cái tên nào khác. Điểm
chính là một quán cà phê nằm ngay
trong tiệm sách. Khách đến mua sách (hay
chỉ đến để xem "cọp" như
các cô cậu sinh viên cần tài liệu
nào đó cho homework của mình, hay đơn
giản, thói quen đi dạo hàng sách của
những con mọt chữ - như kẻ viết bài
này) có thể cầm vài quyển sách của
các tác giả quen thuộc, ngồi xuống một
góc bàn, mua ly cà phê, vừa nhâm nhi vừa
say mê trên những trang sách thánh hiền.
Cà phê và sách vở. Hai thứ ấy
thường đi chung với nhau. Nhiều văn hào
lừng danh trên thế giới (như vợ chồng
triết gia người Pháp Jean-Paul Sartre và Simone
de Beauvoir) khi ngồi xuống bàn viết, ngoài xấp
giấy trắng phải luôn luôn có ly cà
phê nóng trước mặt. Từ thế kỷ
15, 16 ở Châu Âu đã xuất hiện
khái niệm "văn hóa cà phê",
ám chỉ những quán cà phê thường
có sự lui tới của các văn nghệ sĩ,
các triết gia. Họ đến đó, trước
hết như là nơi thường xuyên gặp gỡ
hàng ngày, để ăn uống, trao đổi
bàn bạc những bản thảo họ đang thai
nghén, hay để chia sẻ những ý kiến
riêng về các vấn đề văn hóa thời
sự nóng hổi. Nhiều tác phẩm quan trọng
có tầm vóc thay đổi thế giới
đã ra đời từ những quán cà
phê như thế. Franz Kapka, nhà văn gốc Do
Thái, đã đọc lại bản thảo
tác phẩm lừng danh "Hóa Thân"
(Metamorphosis) tại quán cà phê Café Stefan ở
Prague (thủ
đô Tiệp Khắc). Tiệm cà phê cổ
nhất ở Paris, khai trương năm 1686 (và đến
nay vẫn còn hoạt động (?)), Le Procope, với
vị trí thuận lợi tọa lạc gần
hí viện La Comédie-Francaise, đã được
sự chiếu cố đặc biệt của các
nghệ sĩ, các nhà viết kịch
(Molìere, Racine v.v..) nên đã tồn tại một
thời gian kỷ lục. Lịch sử về văn
hóa cà phê tại châu Âu đã ghi
nhận sự ra đời của gần 40 quán
cà phê, đến nay vẫn còn hoạt động
tại 20 thành phố, từ Budapest (Hung Gia Lợi) diễm
lệ sang trọng đến một góc phố tồi
tàn của St. Petersburg (Nga). Ở Sài Gòn,
trước năm 1975, có quán cà phê La
Pagode, nằm trên đường Tự Do (bây giờ
là Đồng Khởi), chỗ đối diện với
công viên Hòa nhạc phía bên kia
đường, cũng là nơi tụ tập của
các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của
miền Nam. Cái tên La Pagode đã có chỗ
đứng rất trang trọng trong nhiều tác phẩm
văn, thơ xuất bản cả trước lẫn sau
1975. Cũng từ quán cà phê Cái Chùa
(La Pagode), một nhóm các nhà văn, nhà
thơ lúc ấy đã
"lăng–xê" mốt "trí thức thời
thượng": kính trắng và ống vố
(pipe). Và tất nhiên, trước mặt phải
có ly cà phê bốc khói, và cái lọ
đựng những viên đường thẻ trắng
tinh.
Từ năm 1983, nước Mỹ, vốn bị các
trí thức Châu Âu gọi mỉa mai là
"anh trọc phú" (anh nhà giàu ngu dốt),
đã xuất hiện hệ thống tiệm cà
phê Starbuck, mà chỉ hơn 20 năm sau nó
đã trở thành hiện tượng
"văn hóa" đáng chú ý
không những chỉ ở nước Mỹ, mà
còn ở các quốc gia có "nền văn
hóa cà phê" lâu đời ở
châu Âu."Rót
cả tâm hồn vào đáy cốc" (tôi muợn câu chuyển ngữ
tuyệt vời của Trần Kiêm Đoàn từ
nhan đề quyển sách viết bởi người
sáng lập nên hệ thống cà phê
Starbuck : Pour Your Heart into It : How Starbucks Built a Company One Cup at a
Time của Howard Schultz), đó là triết lý
chảy qua từng giọt cà phê Starbuck sóng
sánh. Thứ triết lý đi từ đáy cốc
đến từng tế bào não bộ của
khách mộ điệu đứng xếp hàng mỗi
buổi sáng trước 12 ngàn quầy cà
phê Starbuck có mặt khắp nơi trên thế
giới, từ thành phố Wichita nhỏ bé ở
một tiểu bang nông nghiệp quê mùa của
nước Mỹ đến những khu phố tráng
lệ của Nữu Ước, sang trọng của
Seattle, cổ kính của Boston, đến cả thủ
đô Paris, cái nôi của văn hóa
châu Âu, thành trì kiêu hãnh một
thời của giới trí thức châu Âu.
Ngày nay, khi nói đến văn hóa
cà phê, người ta (giới trí thức
châu Âu) đã không thể bỏ qua
"văn hóa cà phê Starbuck”. Dù vậy,
vẫn có kẻ ganh tị với anh "trọc
phú Mỹ", biện luận rằng Starbuck vốn
có gốc gác từ một quốc gia châu
Âu khác là Ý, mà người sáng
lập ra nó là Howard Schultz đã mang nó về
từ một chuyến du lịch thành phố Milan.
Nhưng nếu không có anh trọc phú Mỹ
nhúng tay vào thì liệu cái thứ
cà phê có gốc gác từ Milan ấy đến nay có
bao nhiêu người biết. Cũng như cái
món Pizza (cũng có gốc gác từ Ý) lừng
danh thế giới, nếu không được giới
thiệu đầu tiên ở nước Mỹ từ
một cái Lều (Hut) nằm khiêm tốn trong một
khu hẻo lánh của khuôn viên trường
Đại Học Wichita State University (Wichita - Kansas) năm
1958 thì ngày nay mấy ai biết đến Pizza
Hut. Mặt khác, phải khâm phục óc
sáng tạo kinh tế nhưng lại mang màu sắc
văn hóa của những người đầu
não Starbuck. Họ đã kết hợp thành
công hai tính cách tưởng chừng như
đối nghịch nhau, như sao Hôm, sao Mai không
bao giờ gặp. Đó là tính cách khoan thai,
tà tà, nhàn nhã của châu Âu, biểu tượng qua những giọt
cà phê phin (filter) chậm rãi vào buổi
đầu ngày và tính cách "Fast Food" của người
Mỹ, mọi chuyện đều phải "ăn liền"
(instant), ngay tức thì,
kể cả ly cà phê buổi sáng, biểu
tượng qua bình cà phê Folgers hay Maxwell đầy
ắp đủ uống cho nhiều người chỉ
trong 1, 2 phút sau khi bấm nút máy pha (coffee
maker). Hãy thử so sánh, khoảng thời gian trung
bình của một người Mỹ từ lúc họ
ghé xe vào trạm "Drive-thru" để đặt
mua bữa ăn trưa cho đến khi họ trả tiền
và nhận gói thức ăn từ tay người
bán : từ 2 cho đến 4 phút. Có khi nhanh
hơn : dưới 2 phút. Bây giờ, trong những
buổi sáng ngày làm việc, họ sẵn
sàng đứng xếp hàng chờ mua ly cà
phê Starbuck với khoảng thời gian chờ đợi
từ 7 đến 15 phút. Có thể nói, với ly cà
phê Starbuck, người Mỹ đã "tự
điều chỉnh" nhịp độ hối hả của
họ, và sống "nội tâm" hơn.
Nói cách khác, cà phê, ngòai
tính cách "văn hóa" còn
đóng vai trò tác động vào lối
sống (lifestyle). Nó có thể làm trì trệ
thêm lối sống vốn đã trì trệ của
một số người, nhưng cũng có thể
có tác dụng tích cực, như ly cà
phê Starbuck và lối sống Mỹ.
3.
Sáng nay cà phê một
mình
Sài Gòn chợt mưa chợt
mưa
(Cà phê một mình- Ngọc
Lễ)
Câu hát thật dễ thương. Lại nhớ
đến Sài Gòn và những quán
cà phê buổi sáng, buổi trưa, buổi
chiều, buổi tối. Người Sài Gòn
lúc nào cũng uống cà phê được.
Bạn bè gặp nhau là rủ nhau ra quán
cà phê. Tình nhân hẹn hò là lấy
điểm hẹn ở một quán cà phê
quen thuộc. Giới làm ăn hẹn nhau ra quán
cà phê để trao đổi những điều
cần thỏa thuận cho công việc mà các
bên cùng quan tâm. Ngay đến hình thức
quán cà phê cũng đã rất đa dạng.
Từ quán cóc vỉa hè có thể bắt
gặp ở bất cứ góc đường
nào của thành phố, đến những
quán cà phê Tàu có bình trà bằng
thiếc to tướng (ngày xưa chúng tôi
hay gọi đùa là trà Thiếc Quan Âm),
rồi đến những quán cà phê lộ
thiên trang nhã dưới một gốc cổ thụ
(như cà phê Bạch Tùng Diệp đối
diện với Dinh Gia Long cũ), những quán cà
phê cửa kính có máy lạnh, có nhạc
Trịnh Công Sơn. Đó là Sài Gòn
ngày xưa, với không khí văn hóa
cà phê, trí thức hay bình dân tùy
theo hình thức của quán.
Dù bình dân hay trí thức, thì
không khí của quán là thứ không
khí mà, nói theo nhà văn quá cố
Hoàng Ngọc Tuấn, ở nơi đó ai cũng
quen nhau. Ở đó, những người khách xa
lạ ngồi cùng bàn (thậm chí khác
bàn) có thể nói chuyện với nhau tự
nhiên như đã quen nhau từ trước. Ở
đó, một bác xích lô có thể
tranh luận kịch liệt với ông giáo sư
trung học về một sự kiện thời cuộc
nào đó vừa được đăng
trên nhựt trình (báo ngày). Kể cả
những lời ta thán, rủa xả một cách
hành xử mất lòng dân của chính quyền
đương thời v..v…
Nói cách khác, thời đó, quán cà phê là một
bức tranh xã hội sinh động, giúp những
người thực sự quan tâm đến dân
chúng bắt mạch được nhu cầu
đích thực của một thành phần
công chúng.
Ngày nay, theo lời của nhiều người
am hiểu trong nước, quán cà phê vẫn
là một hình thức sinh họat văn hóa,
nhưng phức tạp hơn, đa dạng hơn và
"trần tục" hơn.
Dân Sài Gòn bây giờ gọi những
hình thức khác nhau của những quán
cà phê là "phong cách". Phong cách
càng lạ, càng sang trọng, càng thu hút
khách. Vẫn còn những quán cà phê
vỉa hè, nhưng "phong cách nghèo
nàn, bình dân" ấy không phải
là đầu đề để dân sành
điệu cà phê Sài Gòn chuyện
trò bù khú. Phải là quán cà
phê Panorama tọa lạc ở từng thứ 33, từng
cao nhất, của Sài Gòn Center. Người ta
đến đây không phải để uống
cà phê, mà là để mua chỗ ngồi
ngắm thành phố từ trên cao chót
vót. Hay cà phê Skyview tại tầng thứ 13 của
Diamond Plaza (khu gần Vương
Cung Thánh Đường), nơi dành cho những
vị khách chuộng không gian lịch sự, lặng
lẽ. Hoặc cà phê Highlands dưới chân
tòa nhà Metropolitan ở đường Tự Do.
Chỉ cần ngồi ở đây một hai tiếng
đồng hồ, người ta có thể bắt
đúng được nhịp tim đập của
thành phố. Từ bảnh sáng đến khuya
khoắt mịt mù, hiếm khi nào quán vắng
khách. Có mặt đủ loại các
celebrities (những người nổi tiếng) ca sĩ, nhạc
sĩ, người mẫu, đại gia, công tử,
dân chơi v.v… Ở những quán cà
phê "đầy phong cách" như thế,
không khí của nó là biểu hiện cho
một lối sống, chắc hẳn là không thuộc
về đại đa số người dân kiếm
ăn từng bữa. Vì thế, khi nói về
văn hóa cà phê, người ta vẫn phải
nhìn vào những nơi tụ họp đông
đảo giới lao động cùng với những
lo âu, vui buồn bày tỏ trong lúc họ ngồi
nhâm nhi ly cà phê với giá cả phải
chăng.
Ở Hà Nội, trước đây cũng
có những quán cà phê ra đời từ
những năm 50s như cà phê Giảng, cà
phê Nhân. Cà phê Giảng, theo lời những
người lớn tuổi, là điển hình
cho cà phê phố cổ Hà Nội. Cà
phê Nhân, năm 1954 đã di cư vào
Sài Gòn, và mở lại ở một căn
nhà nhỏ xinh xắn mặt tiền đường
Lý Thái Tổ, kế bên tiệm phở Tàu Bay và gần nhà thờ
Bắc Hà. Sau này, theo giới sành điệu
cà phê của Hà Nội, đất ngàn
năm văn vật có thêm các quán
cà phê đầy "phong cách văn hóa
trữ tình và lãng mạn" như cà
phê Ánh ở đường Quán Sứ, chung
quanh tường được trang trí bằng những
bức ảnh của nhiếp ảnh gia Hoài Linh, hay
cà phê Lâm, cà phê Tùng Hậu cũng
trang trí bằng những bức tranh của các họa
sĩ nổi tiếng Việt Nam. Và cũng như
Sài Gòn, Hà Nội không thiếu những
quán cà phê nhạc sống, dưới
hình thức nhạc thính phòng.
Xem ra, văn hóa cà phê của Sài
Gòn, của Hà Nội cũng không thiếu những
đặc trưng cơ bản của văn hóa
cà phê thế giới.
4.
Trong ly cà phê có hương vị của
cuộc sống. Vì cà phê vốn đắng,
nên người ta phải cho thêm đường.
Bỏ bao nhiêu đường, thì lại tùy
khẩu vị mỗi người. Giới sành điệu
bảo rằng, chớ nên hâm lại cà
phê nguội, vì sẽ làm vị cà
phê đắng thêm. Cũng như hãy để
những gì thuộc về quá khứ lãng
quên trong quá khứ, đừng khơi lại, chỉ
chuốc lấy thêm nhiều dư vị không lấy
gì làm ngọt ngào.
Văn hóa cà phê còn nhắc nhở
người ta rằng, hãy uống cà phê khi ly cà
phê còn nóng, tức là hãy sống hết
mình cho hiện tại.
Đừng bận tâm ngoảnh mặt nhìn
ngày hôm qua, đừng cố kiễng chân
nhìn về ngày sắp tới, vì làm thế
chỉ khiến ly cà phê trước mặt nguội
dần, mất ngon.
Triết lý cà phê cũng ngụ ý
rằng, cuộc đời đôi khi đắng
chát như một ly cà phê đen thiếu
đường. Nhưng cà phê đắng
còn có hộp đường bên cạnh.
Còn cuộc đời chẳng may chát đắng,
thì phải làm sao ?
Lại nhớ câu thơ được nghe từ
những ngày còn lưu đầy đất Bắc.
Nói lên cảnh ngộ của vợ những
người tù cải tạo năm xưa.
Cà phê đắng cho thêm
đường thì ngọt.
Đời đắng cay em biết bỏ
thêm gì ?
Văn hóa cà phê thật đa dạng.
Triết lý cà phê cũng đủ sâu
để luận bàn. Vậy, xin mời bạn,
chúng ta hãy "rót cả tâm hồn
vào đáy cốc .. cà phê". Hay, nếu
ly cà phê đời của bạn đã
có quá đủ chất đắng, thì
chúng ta vẫn có thể thưởng thức vị
ngọt của ly bạc xỉu, với một chút
cà phê đen trong ly sữa trắng, như một
chút mặt trời trong ly nước lạnh của
Francoise Sagan**.
T.Vấn
Chú thích :
*Tiểu đoạn 2, phần viết về văn
hóa cà phê châu Âu, lấy ý từ
bài "Văn nghệ sĩ và văn hóa
cà phê" của Thanh Huyền, Evan.com tháng
11-2006. Tiểu đọan 3, phần về văn hóa
cà phê Sài Gòn ngày nay, lấy ý từ
bài viết "Cà Phê Sài Gòn",
VNExpress tháng 5-2005.
** Francoise Sagan (1935-2004), nhà văn nữ người
Pháp, mới 18 tuổi đã nổi tiếng
trên thế giới với tác phẩm "Buồn
ơi chào mi" (Bonjour Tritesse). "Một chút mặt
trời trong nước lạnh" (Un Peu de Soleil Dans
l’eau Froide) là tên một tác phẩm
khác, xuất bản năm 1969 của bà.
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)