NHỮNG ĐÀN CHIM
THIÊN DI
(Phạm Tín An Ninh)
Cả hai tuần nay, mấy quan chức sở "bảo
vệ súc vật" thành phố thường
xuyên đến thăm gia đình tôi, để
tìm hiểu lý do vì sao, trước mùa
đông năm nay những đàn chim trane không
còn trở về vùng này nữa. Họ
đã cho người dọn dẹp lại khu bờ
sông, chăm sóc cánh đồng cỏ và
trồng thêm mấy hàng thông phía bên
kia để đón những đàn chim, nhưng
chờ mãi mà chẳng thấy bóng dáng một
con trane nào trở lại.
Trane là một
loài chim sống thành đàn, màu nâu
đen, có dáng như con hạc ở quê
nhà. Là một giống chim không chịu lạnh,
nên hàng năm, cứ trời sắp sang
đông là tụ tập từng đàn ở
một nơi nào đó rồi chia nhau bay tìm
những xứ nóng phương nam. Ở Bắc
Âu có nhiều loài chim trốn lạnh,
nhưng loại trane này nhiều nhất, có tổ
chức khá qui củ, và khi bay đi chúng bay
thành từng nhóm theo hình những mũi
tên, có khoảng cách đều nhau, rất
đẹp.
Định cư ở Na-uy hơn ba năm. Lúc
kinh tế gia đình và việc học hành của
mấy đứa con tạm ổn định, cũng
là lúc vợ chồng tôi bắt đầu
có thời gian để hồi tưởng về
quá khứ, và nhớ quê hương.
Chúng tôi quyết định mua một ngôi
nhà dưới thung lũng nhỏ, bên bờ
sông Nitelva yên tĩnh, bên kia là cánh
đồng cỏ mênh mông tiếp giáp với
núi rừng. Cái khung cảnh có mang một
chút hình dáng và màu sắc quê
nhà giúp tâm hồn tôi yên ả hơn
mỗi khi thấy lòng trăn trở, nhung nhớ một
điều gì.
Những lúc buồn, tôi ngồi hằng giờ
trong bao lơn nhìn ra phía cánh đồng
và rừng núi phía xa xa, để ngỡ
là quê hương mình như đang ở
phía bên kia triền núi đó. Không những
vợ chồng tôi mà mấy đứa con đều
thích thú ngôi nhà này, vì nó
khá rộng rãi đủ để mỗi đứa
có một phòng riêng, trang trí, sắp xếp
theo sở thích của mình. Trong thung lũng nhỏ
này, ngoài chúng tôi, chỉ có ba gia
đình láng giềng, một đến từ Thụy
Điển, một đến từ Tây Đức, chỉ
có một gia đình là dân bản xứ
chính tông. Có lẽ sống trong một khu
"hợp chủng quốc" bé nhỏ nhất
trên lục địa này, nên chúng
tôi sớm gần gũi, thân tình.
Dọn đến cuối mùa xuân, nên suốt
hè năm ấy, chúng tôi lần lượt
là khách mời của mấy người bạn
láng giềng. Ông bà người Thụy
Điển có chiếc du thuyền lớn với
đầy đủ tiện nghi. Cả nhà chúng
tôi được cùng họ xuôi ngược
cả một tuần trên con sông Nitelva chảy
dài qua những rừng thông, đồng cỏ
và một vài vùng quê êm ả,
lãng mạn. Những ngày còn lại,
cùng với gia đình ông bà người
Đức vào rừng cắm trại, đi săn, rồi
cùng với gia đình ông bà Na-uy đi cắm
lều bên kia bờ sông, vừa câu cá vừa
ngắm những cặp thiên nga tung tăng bơi lội.
Khi những chiếc lá vàng cuối
cùng rơi xuống, trời đột nhiên trở
lạnh, báo hiệu sắp chấm dứt mùa thu
bắc âu thơ mộng, cũng là lúc
chúng tôi bắt đầu chuẩn bị mọi
thứ cho một mùa đông băng giá
kéo dài cả năm, sáu tháng.
Một buổi tối, khi ngồi ở phòng
khách đọc mấy tờ báo, tôi nghe tiếng
chim kêu, mỗi lúc một nhiều, vang động
cả một vùng xưa nay tĩnh mịch. Tiếng
chim có cái âm sắc như đang tìm
nhau, gọi nhau, mừng rỡ. Hôm sau, hỏi ông
láng giềng người Đức, tôi mới biết
là chính ngã ba sông ngay trước
nhà tôi, từ bao nhiêu năm nay, là nơi
nhiều đàn chim trane di xứ chọn làm địa
điểm tập trung để bay về phương nam
trước khi mùa đông đến.
Cả mấy đêm liền sau đó, cứ
vào khoảng chín giờ tối, những
đàn chim từ mọi nơi bắt đầu
kéo về tụ tập ở bờ sông và
cánh đồng cỏ bên kia, kêu gọi nhau cả
đêm. Đến mờ sáng, chia nhau từng
nhóm chừng hai mươi con, nối tiếp bay
đi, theo hình những mũi tên, vẽ lên nền
trời mờ hơi sương một bức tranh tuyệt
đẹp.
Nhiều đêm, tôi lặng lẽ ra bờ
sông, ngồi cả mấy tiếng đồng hồ,
nhìn chim từng đàn bay tới, cả trăm,
rồi hàng vạn con. Chúng đón nhau gọi
nhau líu lo mừng rỡ. Tiếc là loài
người đã không hiểu được
ngôn ngữ của loài chim, để nghe nó
chào nhau, nói với nhau những lời tình tự,
và bàn nhau phân công, tổ chức, sắp
xếp từng đàn lần lượt bay đi
trong trật tự. Tôi miên man hồi tưởng
thời gian hơn mười năm trong lính. Rồi
bất ngờ nảy ra một ý tưởng so
sánh lạ kỳ: Những "đội
quân" chim trane này có tinh thần kỷ luật
và tình đồng đội. Các "vị
chỉ huy" của nó còn tài giỏi
hơn nhiều ông quan chỉ huy của bọn tôi
ngày trước. Con chim dẫn dầu trong một
đội hình mũi tên chắc chắn phải
là con chim chỉ huy cấp nhỏ nhất, nhóm
trưởng. Con chim "tổng tư lệnh" phải
là con chim bay lên ở những nhóm cuối
cùng. Phải như thế mới có được
một cuộc "hành quân triệt
thoái" diễn ra trong trật tự và đẹp
đẽ như tôi vừa chứng kiến. Cái
may mắn, là chúng có cả một không
gian yên bình để sắp xếp những chuyến
ra đi, khác với những người lính
chúng tôi vào những ngày cuối
tháng tư, với bom đạn xe pháo dày
đặc của cả một khối liên minh đối
phương kéo từ phương Bắc. Trong
lúc chúng tôi bị người bạn đồng
minh bội phản, và điều đáng buồn
hơn, đã có nhiều cấp chỉ huy
hèn mạt, xa chạy cao bay trong khi chúng tôi vẫn
còn kiên cường chiến đấu.
Những năm sau đó, năm nào cũng
thế, khi trời chỉ mới vào thu là
tôi đã bắt đầu ngóng chờ những
con chim trane trở lại. Tôi chờ chúng như
đã từng chờ những chiến hữu của
mình. Tôi thấy như mình trẻ lại,
lòng rộn rã niềm vui. Cho dù cứ mỗi
lần đàn chim tụ tập về đây
là tôi có nhiều đêm mất ngủ,
trăn trở nghĩ suy về quê hương và
thân phận của mình cùng những bạn
bè xưa.
Hầu hết bạn bè tôi, nếu còn
sống sót sau cuộc chiến tang thương
đó, kẻ đã phải ra đi trong loạn
lạc, ly tan, người thì được ông bạn
đồng minh phản bội năm xưa, can thiệp với
kẻ cựu thù cho "ra đi trong vòng trật
tự" sau nhiều năm bị đày đọa
ngục tù, vợ con nheo nhóc, để giờ
này mỗi người trôi dạt một
phương, mang theo những vết thương không
lành được ở trong lòng. Biết đến
khi nào chúng tôi mới được như
những con chim trane đang tụ tập ca hót
líu lo ngoài kia, trước giờ bay xuống
phương nam ?
Có một lần, dường như vào
mùa đông thứ năm, khác với mọi
năm, khi trời đã sáng hẳn rồi
mà đàn chim cuối cùng vẫn chưa rời
khỏi địa điểm tập trung, kêu lên
những tiếng kêu lạ, buồn và khắc khoải.
Tôi tò mò chạy ra xem. Lúc ấy những
con chim vội vàng tung cánh bay lên rồi lần
lượt xếp lại thành đội hình mũi
tên, nhưng vẫn bay vòng lại mấy lần
và tiếp tục những tiếng kêu buồn
không dứt. Tôi đứng nhìn theo, lòng
lắng xuống như muốn nhắn gởi theo từng
cánh chim một ít nỗi niềm. Nghe có tiếng
sột soạt trong một hốc đá, tôi chạy
lại tìm. Một chú chim, chẳng hiểu
vì sao bị gẫy đôi chân, nằm sâu
trong đó, bên cạnh có khá nhiều hạt
lúa mì, thức ăn dành cho nó. Tôi bế
con chim vào nhà. Nó nhìn tôi như van
lơn, đôi mắt ướt nhè. Tôi
có cảm tưởng là nó đang khóc.
Tôi lại chợt nhớ tới những đồng
đội bất hạnh, bị trọng thương
trong những ngày cuối cuộc chiến, đau
đớn, cô đơn, rồi lang thang sau khi bị
đuổi ra khỏi các quân y viện. Mắt
tôi bỗng nhòe đi khi nghĩ đến mấy
vị tướng oai hùng, cùng ở lại sống
chết với anh em rồi tuẫn tiết trước giờ
thứ hai mươi lăm.
Từ ngày có con chim trane thương
tích, nhà tôi lại vui hơn, nhất là
hai cô con gái nhỏ của tôi, tha hồ
nâng niu, chăm sóc và kể cả tâm
tình với nó. Cô bé thích sau này
làm nghề y tá, thì mang nó ra phòng
bác sĩ thú y khám, mua thuốc băng
bó cho nó. Riêng tôi, mỗi lần chăm
lo cho nó, tôi có cảm giác như đang
lo cho một đồng đội bị thương
tích của mình. Hơn hai tháng sau, khi
đôi chân của nó lành hẳn, cũng
là lúc tuyết đang rơi trắng cả khung
trời. Được thả ra khỏi lồng, nhưng
nó chỉ quanh quẩn trong nhà. Suốt gần một
năm nó là một thành viên đặc
biệt trong gia đình tôi và là bạn
thân của hai cô con gái nhỏ.
Khi mùa thu trở lại, tôi bàn bạc,
khuyên mấy đứa con chuẩn bị trả
nó lại với đàn, khi những con chim
thiên di đầu tiên trở lạị Giải
thích và năn nỉ mãi mấy cô mới
chịu. Hôm trả nó lại sum họp với
đàn, hai cô con gái nâng niu, âu yếm
tâm tình rồi chia tay nó. Không khí cảm
động không thua gì những cuộc chia ly
trên thế gian này.
Một điều làm cả nhà tôi ngạc
nhiên và xúc động. Cuối mùa thu
năm sau, khi những đàn chim bắt đầu trở
lại, một buổi tối khi sửa soạn đi ngủ,
mấy cô con gái của tôi bất ngờ thấy
con chim trane đậu ngoài cửa sổ. Khi cửa sổ
vừa mở, nó bay vào trong phòng, kêu
lên rộn rã. Nhờ vết thương cũ
còn in dấu trên đôi chân của
nó, mấy cô con gái mới biết chắc,
nó chính là con chim năm trước. Từ
đó, có thể tôi còn biết về
loài chim trane này nhiều hơn những nhà
nghiên cứu chim muông: trung thành và có
trí nhớ.
Không ngờ, những con chim trane lại là
những niềm vui, nỗi nhớ cho gia đình
tôi trong những ngày lưu lạc ở một
vùng bắc âu xa lạ.
Bây giờ mấy cô con gái của
tôi đã thành người lớn. Tất cả
đã đi học bên Mỹ, bên Anh rồi ở
lại làm việc luôn bên ấy, nhưng cứ
gần tới cuối mùa thu đều gọi về
nhà hỏi thăm đàn chim trane có còn
tụ tập trước nhà, và con chim bị
thương ngày trước có còn bay về
đậu trên khung cửa sổ.
Suốt mùa thu vừa rồi, tôi trông chờ
nhưng đàn chim không trở lại. Tôi thấy
nhớ tiếc những đêm nghe tiếng chim
kêu, và những buổi sáng tinh mơ
nhìn từng nhóm lặng lẽ bay theo hình những
mũi tên hướng về phương nam, hùng
vĩ như một binh đoàn vượt tuyến xuất
phát, bắt đầu một cuộc hành
quân qui mô dài hạn. Nhiều lúc tôi
đã từng ước mơ có thêm
đôi cánh, để cùng được bay
lên với chúng.
Cơ quan bảo vệ súc vật và sở
y tế & vệ sinh thành phố, cũng đã
đến đây từ đầu mùa thu, xịt
thuốc sát trùng và dọn dẹp bờ
sông, đồng cỏ, để đón những
đàn chim trane trở lại. Năm nay, họ
làm việc nhiều hơn, chuẩn bị mọi
điều chu đáo hơn, vì có tin bệnh
"cúm gia cầm" ở một vài xứ
nóng phía nam. Họ lo lắng những con chim trane
bị lây nhiễm vi khuẩn H5N1. Loại vi khuẩn
mà cả thế giới đang bàn tán về
nguy cơ một cơn đại dịch. Hội Đồng
thành phố họp liên miên, bàn bạc về
khả năng những con chim trane, có thể sẽ bị
giết chết trên một xứ nóng nào
đó, để ngăn ngừa mang bệnh vào.
Họ liên lạc với cơ quan y tế Liên Hiệp
Quốc, gởi thư cho chính phủ của một số
nước nhiệt đới phía nam, nhằm bảo
vệ cho những đàn chim trane bay sang trốn lạnh.
Họ chuẩn bị, lo lắng để đón những
đàn chim của họ quay về.
Trời đã vào đông, ngoài kia,
bầu trời đã đổi sang màu trắng
đục, trên dòng sông Nitelva dày đặc
sương mù, báo hiệu những hạt tuyết
đầu mùa sắp rơi. Bà Anne-Mari, trưởng
Sở bảo vệ súc vật thành phố,
cùng một số nhân viên đến nhà
tôi từ chiều nay. Họ kiên nhẫn ngồi
chờ để hy vọng được đón những
đàn chim trane có thể trở lại muộn
màng. Họ cùng vợ chồng tôi uống hết
mấy bình trà, rồi chia tay lúc nửa
đêm. Tuyết bắt đầu rơi. Chắc chắn
giờ này những con chim trane không còn đến
nữa. Khi đứng lên chia tay, nhìn họ
thoáng buồn nhưng không tuyệt vọng. Mỗi
người đều nắm chặt tay tôi và
nói lời cầu nguyện bằng an cho những con
chim trane di xứ, dù nó đang trôi dạt ở
nơi đâu cũng mong cuối mùa thu năm sau sẽ
kéo nhau trở lại nơi này.
Suốt cả đêm tôi không hề chợp
mắt. Không phải tôi nghĩ đến những
con chim trane, mà nghĩ đến thân phận của
chính mình cùng những người đồng
hương đang lưu lạc khắp năm châu.
Ngược lại với loài chim trane thiên di, bay
về nam tìm nắng ấm, chúng tôi
đã phải bỏ quê hương bốn
mùa nắng ấm để đi tìm tự do
và tình người ở những vùng
băng tuyết xa xăm. Những mùa đông
kéo dài, trong cái lạnh lẽo mới thấy
thấm thía tận cùng nỗi cô đơn
xa xứ.
Tự dưng, tôi nghĩ đến một
điều: Biết đến khi nào chính quyền
ở quê nhà thật lòng xem những người
ra đi là "khúc ruột ngàn dặm",
là "một bộ phận không thể tách
rời", để biết yêu thương lo lắng
và mong ước đón tiếp họ trở về,
như chính quyền của cái thành phố
nhỏ ở xứ Bắc Âu xa xôi này -
nơi từng cưu mang gia đình tôi -
đã lo lắng mong chờ những con chim trane di xứ
? Điều đặc biệt hơn, là những
người Việt tha phương sẽ mang về cho
quê hương biết bao nhiêu tài năng,
trí tuệ, và bạc tiền, còn những
con chim trane kia có thể sẽ mang về cho họ những
con vi khuẩn chết người.
Tôi đắp kín chăn nhưng vẫn thấy
lạnh toát, mơ hồ như tuyết đang phủ
đầy người, và vết thương cũ
trong lòng vừa mới nhói đau trở lại.
Phạm Tín An Ninh
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)