PHỤ NỮ
NHẬT - Kết hôn và sinh con chẳng khác nào tự sát
Đối
với nhiều phụ nữ Nhật hiện đại,
kết hôn và sinh con chẳng khác nào tự sát; và với xu thế
này, sau 40 năm nữa, 40 triệu người Nhật sẽ
biến mất.
Tốt
nghiệp đại học ở Mỹ, với tŕnh độ
tiếng Anh tốt hơn nhiều so với phần
đông người Nhật, Kiyoko trở về Nhật và không
quá khó khăn để kiếm được việc làm
tốt ở Đài truyền h́nh NHK. Sau khoảng thời
gian làm việc khá áp lực, cô quyết định chuyển
sang Toyota.
Năm
nay đă 33 tuổi, khi được hỏi về hôn
nhân, cô hỏi ngược lại: Tại sao phải kết
hôn khi cuộc sống của tôi đang quá hoàn hảo? Hết
giờ làm, tôi đi mua sắm, đi ăn tối với bạn
bè, nghe ḥa nhạc. Kết hôn đồng nghĩa với các
thú vui trên chấm dứt, bạn phải ngửa tay xin
đàn ông từng đồng, bạn phải ràng buộc số
phận ḿnh vào một người đàn ông mà bạn cũng
chẳng biết có tốt với bạn hay không.
Tại
một trường đại học ở Niigata, dù
năm nay đă 44 tuổi nhưng Mariko vẫn chưa biết
khi nào sẽ là ngày cưới của ḿnh. Dù đă có bạn
trai, nhưng cô vẫn luôn đặt câu hỏi rồi ḿnh
sẽ thế nào nếu kết hôn? Bố mẹ cô đă mệt
mỏi với việc thuyết phục cô kết hôn, mỗi
lần về thăm nhà đối với cô chỉ là những
câu hỏi gượng gạo. Bố mẹ luôn cố gắng
nghe ngóng, chờ đợi từng cuộc điện thoại
của cô với bạn bè để chờ một tín hiệu
kết hôn, cô hiểu điều đó, nhưng để
thay đổi tất cả cuộc sống độc lập
cô đang có, không phải dễ dàng.
10
năm học hành ở Mỹ và châu Âu với 2 bằng tiến
sỹ, sự nghiệp của cô đang là niềm mơ
ước của bao phụ nữ Nhật. Chấm dứt
tất cả để ở nhà làm bà nội trợ
chăm con, đâu có dễ. Cùng trường của cô, kể
cả nam và nữ, số lượng giáo sư không lập
gia đ́nh chiếm quá nửa.
Những
buổi tối đi dạo dọc các con phố sôi động,
sầm uất của Tokyo, người ta dễ dàng nhận
thấy số lượng những người phụ nữ
trẻ dắt chó đi dạo nhiều hơn hẳn so với
những phụ nữ đẩy xe nôi. Trên khắp nước
Nhật, sẽ ngày một khó khăn hơn nếu người
ta mong có cơ hội được chứng kiến khoa sản
đông đúc kín chật người. C̣n ở nhiều
trường mẫu giáo ở Nhật, số lượng
pḥng học trống đang tăng lên.
Tỷ
lệ sinh tại Nhật hiện đang ở mức 1,39,
thấp nhất trên thế giới. Từ đầu thập
niên 1990, dù chính phủ đă cố gắng đưa ra nhiều
chính sách hỗ trợ phụ nữ sinh con, thông qua việc
kéo dài thời gian nghỉ sinh cho phụ nữ; hỗ trợ
tài chính; giảm số ngày và giờ làm việc cho phụ nữ
mang thai, nuôi con nhỏ, lập nên các trung tâm hỗ trợ
nuôi dạy trẻ em trên khắp nước Nhật. Thậm
chí có nhiều chính trị gia c̣n tính đến việc cấm
phá thai hay bao cấp tiền nuôi con cho các bà mẹ trong khoảng
thời gian nhất định.
Bất
chấp tất cả những nỗ lực trên, năm
2003, tỷ lệ sinh của Nhật rớt xuống mức
thấp kỷ luc 1,29. Từ năm 2005, dân số Nhật bắt
đầu giảm liên tục cho đến nay. Các chuyên gia
ước tính dân số Nhật từ mức 128 triệu
vào năm 2010 sẽ giảm xuống chỉ c̣n 101 triệu
vào năm 2030, đến năm 2048 dân số Nhật sẽ
chỉ con 99,13 triệu.
Và
đến năm 2060, dân số chỉ c̣n 86 triệu. Ai
đó có thể tưởng tượng được sau
khoảng 40 năm nữa, 40 triệu người Nhật
sẽ biến mất? Và nếu xu thế này không thể
được cải thiện một cách đáng kể,
50 năm nữa, dân số Nhật sẽ chỉ
tương đương thời điểm năm 1953,
tức là cách đây tới 60 năm.
MỘT NƯỚC NHẬT BỪNG
TỈNH
Chiến
tranh Thế giới thứ Hai kết thúc, nước Nhật
bước theo mô h́nh phát triển của phương Tây. 3
thập kỷ phát triển thần kỳ rồi tiếp
đó dù phải trải qua đến 3 thập kỷ khó
khăn và bước vào giai đoạn được coi
là mất mát, nhưng Nhật vẫn đứng đầu
thế giới về nhiều mặt. Dù vậy, ngay cả
những giai đoạn kinh tế phát triển thịnh
vương, phụ nữ vẫn chịu nhiều thiệt
tḥi.
Trước
thập niên 1970, các kỹ năng, kiến thức mà phụ
nữ được học, được dạy dỗ
ở Nhật chỉ để phục vụ cho việc
chăm con, chiều chồng.
Cuộc
sống của phụ nữ Nhật cho đến trước
thập niên 1970 khi kinh tế dịch vụ và thông tin phát
triển mạnh mẽ, phụ nữ buộc phải kết
hôn mới có thể tồn tại được, kể cả
về tinh thần và vật chất. Các kỹ năng, kiến
thức mà phụ nữ được học, được
dạy dỗ ở Nhật chỉ để phục vụ
cho việc chăm con, chiều chồng. Có lẽ v́ lư do này
mà ở Việt Nam từng tồn tại câu nói: "Ăn
cơm Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật". Bằng
việc kết hôn, phụ nữ chuyển họ theo chồng,
được đảm bảo về tương lai kinh
tế cũng như được xă hội thừa nhận.
Nếu
người phụ nữ có đi làm, họ cũng chỉ
được phân công làm những việc "pha trà rót
nước", kiếm một tấm chồng và nghỉ
việc chăm con. Một thời gian dài, nhiều cô gái cố
gắng học hành để vào được một công
ty tử tế, nơi họ có thể t́m được
những người chồng lương cao, đảm bảo
được tương lai cho họ, kết hôn với
anh ta, và cứ thế yên tâm ở nhà chăm con bằng
lương của người chồng. Ngay cả nếu
họ có muốn thay đổi, xă hội cũng không tạo
cơ hội. 30 năm sau Chiến tranh Thế giới thứ
Hai, độ tuổi kết hôn lần đầu của
phụ nữ Nhật vẫn ở mức 24,5. Phụ nữ
ngoài 25 tuổi vẫn chưa kết hôn có thể coi như
gái ế, điều hết sức xấu hổ đối
với chính bản thân cô gái đó và gia đ́nh.
Khi
thành công về kinh tế mang đến cho xă hội cuộc
sống vật chất dư dả hơn, cơ cấu nền
kinh tế thay đổi theo hướng dịch vụ
mang đến thêm nhiều việc làm cho phụ nữ
hơn, từ cuối thập niên 1970 cho đến thập
niên 1980, xă hội Nhật bừng tỉnh. Văn hóa
phương Tây thâm nhập vào Nhật qua phim ảnh, âm nhạc
cũng thay đổi cách suy nghĩ của phụ nữ
Nhật. Đầu thập niên 1990, các công ty nước
ngoài tại Nhật trở nên phấn khích hơn bao giờ
hết, họ đua nhau mở thêm cửa hàng cửa hiệu
phục vụ nữ khách hàng, họ mở thêm chi nhánh nhà
máy ở Nhật khi họ được tiếp cận với
nguồn nhân lực phụ nữ chăm chỉ làm việc,
ít đ̣i hỏi hơn người lao động nam.
Từ
vị thế phải bám lấy một người đàn
ông và đặt cược toàn bộ cuộc đời của
ḿnh vào một người đàn ông, nay phụ nữ Nhật
có việc làm, có tiền, có vị thế để quyết
định cuộc đời ḿnh. Lương cao hơn,
chi phí đi lại rẻ hơn, phụ nữ Nhật có
tiền đi du lịch hoặc ra nước ngoài học.
Chứng kiến cuộc sống độc lập của
phụ nữ phương Tây, phụ nữ Nhật tự
hỏi tại sao họ phải lập gia đ́nh, cuộc
sống độc thân giàu có không vướng bận chẳng
phải tuyệt vời hơn rất nhiều hay sao?
Từ
chỗ 25 tuổi bị coi là gái ế, chẳng ai muốn
lấy, th́ đến nay, kết quả của một số
cuộc điều tra xă hội học cho thấy chỉ
11% phụ nữ Nhật cho rằng kết hôn mang lại lợi
ích về tinh thần và vật chất. Rieko Suzuki, hiện
đang là nhà nghiên cứu tại viện Dentsu hàng đầu
tại Nhật, đồng thời là tác giả của
hàng chục cuốn sách phân tích về t́nh trạng tỷ lệ
sinh suy giảm tồi tệ tại Nhật, khẳng định:
"Một
người phụ nữ thông minh sẽ không kết hôn
để được hưởng cuộc sống hoàn
hảo".
Độ
tuổi kết hôn trung b́nh của phụ nữ Nhật hiện
tăng lên mức 27,5. Năm 2000, 54% phụ nữ trong
độ tuổi 25 đến 29 chưa bao giờ mặc
áo cô dâu, con số đă tăng 54% so với thập niên
1980. Số lượng phụ nữ chưa bao giờ kết
hôn tăng chóng mặt với tốc độ 2 con số
qua từng năm. Số lượng phụ nữ Nhật
ở tuổi 50 mà chưa bao giờ kết hôn tăng gấp
đôi trong 40 năm qua.
Nếu
như ở phương Tây và nhiều nước châu Á, phụ
nữ được khuyên nên sinh đứa con đầu
ḷng trước tuổi 30 để ngăn khả năng
ung thư vú, đảm bảo sức khỏe bà mẹ trẻ
em th́ ở Nhật suốt 2 thập kỷ nay, phụ nữ
cho biết họ chẳng bao giờ nghe thấy lời khuyên
nào như vậy. Bởi có lẽ chính phủ lo nếu phụ
nữ ư thức rơ hơn về điều đó, họ sẽ
c̣n ngại sinh con hơn nữa.
MỘT XĂ HỘI KIỂU MỸ
SẼ PHÁT TRIỂN TRÊN ĐẤT NHẬT?
Độ
tuổi kết hôn trung b́nh của phụ nữ Nhật hiện
tăng lên mức 27,5.
Dự
báo về xă hội Nhật năm 2060 sẽ thực sự
gây sốc với nhiều người. Một xă hội với
số dân ngày càng giảm, chẳng có nhiều lư do để
lạc quan. Cấu trúc xă hội Nhật năm 2060
được dự báo như sau: 40% người già và 10%
trẻ em từ 0 đến 14 tuổi, 50% dân số ở
trong độ tuổi lao động và sinh đẻ. Có
nghĩa là 1 người làm sẽ để nuôi 1 người.
Hiện nay 65% người Nhật đang lao động
để nuôi 35% c̣n lại mà hệ thống an sinh xă hội
c̣n rất chật vật, không thể tưởng tượng
hệ thống an sinh, quỹ bảo hiểm xă hội và nợ
công sẽ diễn biến theo hướng nào khi nửa dân
số làm để nuôi nửa c̣n lại.
Nếu
không thể cải thiện được t́nh trạng tỷ
lệ sinh quá thấp, chính phủ Nhật sẽ chỉ c̣n
cách phát triển xă hội theo mô h́nh Mỹ, có nghĩa khuyến
khích nhập cư thật nhiều để đảm bảo
lực lượng lao động cho xă hội. Đầu
tháng 6 này, chính phủ Nhật đă quyết định
thay đổi Luật Nhập cư để thu hút thêm
lao động cho xă hội Nhật. Theo đó những
người có việc làm ổn định đóng thuế
ở Nhật từ 3 năm trở lên sẽ được
tạo điều kiện thuận lợi hơn để
cư trú vĩnh viễn ở Nhật.
Nhưng
Nhật khác Mỹ, nước Mỹ hàng trăm năm qua
đă quen với việc khuyến khích lao động nhập
cư, các ông chủ đă quen với việc làm việc với
người lao động đến từ nhiều quốc
gia, tôn giáo khác nhau. Xă hội Nhật sau nhiều thập kỷ
công nghiệp hóa cho đến tận thời điểm
hiện tại c̣n rất cứng nhắc và không tạo
cơ hội công bằng cho lao động nhập cư.
Hơn nữa ngôn ngữ cũng là rào cản lớn, tiếng
Nhật khó học và khó sử dụng hơn tiếng Anh rất
nhiều.
Nội
tại nước Nhật, với nhiều phụ nữ
có điều kiện kinh tế, dù họ chấp nhận
sinh con, nhưng họ đang từ chối xă hội Nhật.
Đối
với họ, xă hội Nhật quá cứng nhắc, nguyên tắc
và đắt đỏ để con họ có cuộc sống
tốt đẹp ở nơi này, nước Úc đang là
điểm đến được nhiều bà mẹ Nhật
lựa chọn. Dù vậy, số phụ nữ chọn
không sinh con mới đáng để lo lắng nhất,
Kiyoko tuyên bố: "Ở Nhật, chi phí cuộc sống
học tập cho trẻ con quá đắt đỏ,
hơn nữa khi có con, bạn không thể tiếp tục
làm việc. Xă hội Nhật hơn nữa c̣n đánh giá
người phụ nữ quá nhiều qua thành tích nuôi dậy
con của cô ta. Sống
thế khổ quá, tôi thà mua thêm vài cái túi
Hermes bổ sung vào bộ sưu tập của ḿnh c̣n
hơn sống vất vả khốn khổ để nuôi
một đứa trẻ để nó vào được
đại học Tokyo, trường danh tiếng nhất tại
Nhật."
(Huon Doan sưu
tầm và chuyển)