Vui Buồn
Chặng Cuối: TỪ PHI TỚI MỸ
(TRIỀU
PHONG)
Tác giả từng sống ở trại
tỵ nạn PFAC của Phi Luật Tân gần mười
một năm, và đây là loạt bài 3 kỳ kể về
người Việt trên đất Phi sau cưỡng bách hồi
hương tại trại PFAC, chặng cuối từ
đất Phi tới Mỹ. Ông tên thật Trần
Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại tiểu
bang South Carolina và cũng đang theo học ở trường
Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ
Yên" viết về thời kỳ thanh lọc và cưỡng
bách hồi hương tại trại tị nạn
Palawan-Philippines,Triều Phong đă nhận giải Danh Dự
Viết Về Nước Mỹ 2014, và nhân dịp này,
đă cùng gia đ́nh trải qua tám giờ bay để về
dự họp mặt Viết Về Nước Mỹ 2014
và thăm Little Sàig̣n.
* * *
I.
Từ "Làng Việt Nam tại Phi" tới Niệm Phật
Đường
"Có tin vui
giữa giờ tuyệt vọng / Một ṿng tay vừa mới
mở ra, cứu anh em những đời mạt vận /
đường mơ đi càng lúc càng xa .. có em tôi nuốt
từng giọt lệ / ngậm oan khiên đợi măi một
ngày .. /Hăy nói cho mọi người cùng nghe: người
đă cứu người .."
Bài t́nh ca "có tin vui giữa giờ
tuyệt vọng" do cố nhạc sĩ Trầm Tử
Thiêng sáng tác sau khi Bản Ghi Nhận (The Memorandum of
Understanding) được kư kết giữa đại diện
của Giáo Hội Công Giáo Phi Luật Tân và chính phủ của
Tổng Thống Fidel Ramos vào tháng Sáu năm 1996 cho phép thuyền
nhân Việt Nam được ở lại có thể xem
như kết thúc một giai đoạn đầy đau
thương của người vượt biển trên
đường tỵ nạn t́m tự do.
Sau hơn bảy năm đảo bị
đóng cửa và tranh đấu chết sống, những
người ở lại đă được định
cư tại chỗ và Làng Việt Nam bắt đầu
thành lập tại Santa Lourdes trong vùng "Honda Bay," là vịnh
có hàm lượng thủy ngân rất cao, cách trại cũ
mười ba cây số do tiền quyên góp hơn một triệu
đô của đồng bào ở bên Mỹ giúp đỡ
th́ dù không tới được đệ tam quốc gia
nhưng vẫn c̣n may mắn hơn là phải trở về
với chế độ cộng sản tàn ác nơi có ngục
tù đang chờ đón.
Tuy nhiên suốt thời gian chờ
đợi chính phủ cấp quy chế thường trú
nhân sau đó, thuyền nhân không được đi làm hay
đi học v́ chưa có tư cách pháp nhân. Người lớn
và trẻ em có thể đến trường nhưng chỉ
học "dự thính" và khi măn khóa sẽ không
được cấp chứng chỉ hay bằng cấp
như công dân Phi. Làng mới đang thành h́nh, chưa có công
ăn việc làm cho mọi người, thế cho nên cuộc
sống của thuyền nhân xem ra vẫn c̣n đen tối
và bấp bênh như xưa.
Trước t́nh trạng ấy, một
số lớn thuyền nhân "bỏ làng, chấp nhận
mất nhà" để ra ngoài xă hội Phi, tha
phương cầu thực bằng cách "bán bà ba ngố!"
"Bà ba ngố"
là phiên âm tiếng Phi, có nghĩa là dầu thơm.
Chuyện "bà ba ngố" bắt
đầu một cách dài ḍng từ nhiều năm về
trước. Vào khoảng cuối năm 1992 hay đầu
năm 1993 ǵ đó. có một em trai, tuổi c̣n rất nhỏ,
sau khi "rớt thanh lọc minor" đă trốn trại
lên Manila, gặp các cô người Việt theo chồng Phi về
nước năm 1975 rồi được những cô này
giúp cho mua trước trả sau một số hàng hoá của
các cô để mang đi bán kiếm tiền độ nhật
qua ngày. Những loại hàng này phần lớn là giày dép, quần
áo trẻ em, đồ lót phụ nữ và tranh hay b́nh, hũ,
lọ sơn mài để trang trí nhà cửa .. mà các cô
đi Việt Nam mua về Phi để bán hay bỏ mối
cho những người bán lẻ ở những chợ nhỏ.
Ngày ngày em này mang ba lô đựng
đầy các hàng hoá nọ lang thang trên phố phường
ở Manila để bán "door to door." May mắn cho em
là trong số các mặt hàng này có dầu thơm hiệu
Sàig̣n lại được người Phi vô cùng ưa chuộng.
Mỗi ngày em có thể bán từ năm đến mười
chai một cách dễ dàng. Vốn một chai dầu em mua là
mười lăm hoặc hai mươi pesos* lúc ấy
nhưng em đă bán được cả trăm pesos cho mỗi
chai nên số tiền lời em kiếm được rất
nhiều. Từ đó em không bán các mặt hàng khác mà chỉ
chuyên tâm bán dầu thơm mà thôi, và chẳng bao lâu sau mỗi
ngày em có thể bán tới dăm ba thùng tức là năm bảy
chục chai và em trở nên giàu có, cuộc sống
vương giả hẳn lên. Danh từ "đi bán bà ba
ngố" ra đời từ đấy.
Lâu ngày tin này đưa về tới
dưới trại PFAC (The Philippine First Asylum Camp) khiến
nhiều người xôn xao. Lần lượt một số
người v́ chán nản, thất vọng với cuộc
sống tăm tối, tương lai mịt mù, thanh lọc
bất công, sợ bị cưỡng bách về Việt
Nam, đă bắt chước em trai kia bỏ trại. Họ
không những chỉ ở Manila thôi mà c̣n bắt đầu
đi sang các đảo khác. Tại đây các người
này bày ra một cách mua bán mới để phát triển công
việc làm ăn dưới h́nh thức "bán nợ, trả
góp" mà tiêng Phi gọi là "utang."
Trả góp th́ tùy theo trị giá món
hàng mà trả làm mấy lần. Mỗi lần như vậy
gọi là một "give!" Ở Phi Luật Tân th́ công
nhân viên chức thường lănh lương hai lần trong
một tháng nên người Việt cũng dựa trên
căn bản này để "thu nợ" nghĩa là mỗi
tháng họ cũng tới hai lần vào hôm sau ngày lănh
lương của người mua nợ để lấy
tiền do đó món hàng họ thường bán là "two
gives" tức trả hai lần. Ví dụ họ bán món
hàng một trăm pesos th́ họ sẽ đi lấy hai lần
tiền, mỗi lần là năm mươi pesos vào ngày
mười sáu và ngày hai của tháng kế tiếp. Nếu
chậm lắm là thêm một ngày sau nữa thôi bởi v́ nếu
thu trễ quá th́ người Phi sẽ xài hết tiền là
đành phải khất lại một kỳ th́ ḿnh sẽ
tốn thêm thời gian.
Thường thuyền nhân mang hàng
hóa, đồ đạc vào mấy trường tiểu học
bán cho các thầy cô giáo ngay trong giờ dạy học. Rồi
dần dà họ vào tận các trường trung học,
đại học, toà thị chính (municipal) xă ấp tiếng
Tagalog của Phi là barangay, hoặc trạm y tế .. bán luôn.
Bán "utang" lời nhiều
nhưng đ̣i hỏi phải có vốn lớn, tốn nhiều
thời gian, kiên nhẫn và chấp nhận rủi ro mất
mát khi bị quịt nợ! Lúc bị giựt tiền hay
hàng hoá th́ họ cũng không thể kiện cáo ǵ được
v́ chưa có giấy tờ định cư hợp lệ.
V́ lẽ đó, buôn bán "utang" cũng có cái bất lợi
của nó về mặt pháp lư. C̣n đi "door to door"
th́ bán lấy tiền mặt nhưng mệt hơn lại
hay bị "chó cắn" nhưng dần dần rồi
người ta cũng chuyển sang bán nợ luôn.
Một số kẻ khác ít vốn,
không muốn mất mát, chọn phương cách bán ở chợ
hay trên các lề đường, hè phố. Bán kiểu này cũng
có tiền mặt ngay nhưng thường chỉ đủ
ăn hoặc dư giả chút đỉnh thôi chứ không
thể làm giàu được. Tuy vậy, vài ba năm sau, những
kẻ ra đi cũng khấm khá lên nếu chịu khó cần
kiệm, chí thú mua bán. Thỉnh thoảng họ trở về
trại thăm gia đ́nh hoặc thân nhân bạn bè với
nhiều quà cáp và tiền bạc. Từ đó hễ thấy
ai vắng mặt hay biến mất khỏi trại một
thời gian là người ta biết kẻ ấy đă
đi bán bà ba ngố, lâu ngày lại hài hước gọi
là "một cơi đi dầu!" Chuyện vui buồn về
cơi khác thường này của dân bán "bà ba ngố" sẽ
được kể trong bài kỳ tới.
Tuy "có tin vui" cho thuyền nhân
Việt được định cư tại chỗ và
Làng Việt Nam được thành lập, nhưng theo tổ
chức BPSOS (The Boat People SOS) lúc ấy th́ họ vẫn tin
rằng sẽ có một số người "broken
family" v́ có vợ hay chồng đang ở Hoa Kỳ và
các quốc gia khác sẽ được định cư nếu
tiếp tục tranh đấu nên mới gợi ư cho chúng
tôi mở một Niệm Phật Đường ở
Manila cho đồng bào phật tử có chỗ cúng bái thờ
phượng trên đường đi buôn bán, đồng
thời cũng lấy nơi đó làm văn pḥng giúp đỡ
pháp lư cho thuyền nhân. Ư định này là nguyên nhân sâu xa ban
đầu của sự xung đột giữa BPSOS và Ban
Quản Trị Làng Việt Nam v́ ngày đó những người
có trách nhiệm của Làng Việt Nam quy kết BPSOS là
"có ư đồ phá làng!"
Với sự giúp đỡ bảy
trăm đô la ($700.00) ban đầu của Tiến Sĩ
Nguyễn Đ́nh Thắng, giám đốc BPSOS, từ Mỹ
gửi qua cùng nỗ lực to lớn của Cô Hằng
Phương, một huynh trưởng cấp tập của
gia đ́nh phật tử theo chồng là bác sĩ người
Phi hồi hương về nước năm 1975, Sư
Cô Thích Nữ Diệu Thảo đă thuê được một
căn nhà làm "Niệm Phật Đường" tại
Merville-Paranaque với giá mười lăm ngàn pesos ($500.00)
một tháng. Rồi hàng tháng anh phải gửi qua giúp Niệm
Phật Đường cả ngàn đô để trang trải
cho chi phí thuê nhà, cũng như tiền điện, tiền
nước tiền ăn uống và đi lại của luật
sư.v.v.. Sau này đồng bào đi mua bán khá giả lên nên
mỗi lần ghé thăm hay về làm giấy tờ, bà con
thường đóng góp vào quỹ để sư cô chi tiêu
nhưng vẫn thiếu hụt v́ số lượng
người làm giấy tờ mỗi lúc một đông. Lắm
lúc "chùa" chật cứng như nêm, cái ăn không
đủ, chỗ ngủ không có. Mọi nhu cầu cần
thiết tăng vọt!
Thời gian này may mắn có anh Trần
Quang Nhân đang làm việc trong chính giới của Hoa Kỳ
và nhiều lần anh Thắng đă nhờ Nhân đi
"lobby" cho các nỗ lực anh đang vận động
cho thuyền nhân v́ vậy Nhân đă hợp tác với BPSOS
như một thiện nguyện viên. Nhân thường xuyên
bay từ Mỹ sang Phi thúc đẩy chương tŕnh này
hoạt động. Anh đă ở nhiều tháng liền với
người tỵ nạn trong điều kiện sống
vô cùng chật vật bằng tài chánh của ḿnh. Tháng ngày
trôi đi mọi chuyện ổn định dần và công
việc tiến triển thuận lợi hơn.
Rồi người đầu tiên tới
Phi để bắt đầu làm việc cho chương
tŕnh này là một luật sư bên Úc, anh Nguyễn Hoàng Vũ.
Vũ th́ c̣n trẻ, vui tính, mới ra trường và rất
năng nổ. Thời gian này v́ Niệm Phật Đường
chưa chuẩn bị xong nên BPSOS và Sư Cô Diệu Thảo
thu xếp để Vũ ở nhờ trong một nhà thờ
lớn do Cha Joseph Vũ Đảo quản nhiệm gần
phủ Malacagnang (Dinh Tổng Thống) trên đường
Jose P. Laurel, San Miguel, thuộc khu vực Metro Manila.
C̣n tôi khi ấy đang theo Khánh,
người phụ trách kỹ thuật của chùa Vạn
Đức, về Davao ở Mindanao để chuẩn bị
khởi nghiệp "một cơi đi dầu!"
Mindanao là thành phố lớn, giàu có,
nổi tiếng vào hàng thứ tư và nằm tận Miền
Nam của Phi Luật Tân c̣n được biết đến
như là Thủ Đô Sầu Riêng (Durian Capital) với dân số
gần một triệu ba trăm ngàn người tính tới
thời điểm đó, đa số theo đạo Hồi.
Người Muslim ở vùng này có thể sản xuất ra
súng ngắn, đồng hồ đeo tay đủ loại
và một số thứ cần thiết khác nên họ có vẻ
sống tách biệt và lập một xă hội riêng với
chính quyền. Ngoài ra về mặt địa lư thiên nhiên,
Mindanao có nhiều hải sản quư, phong phú như cá ngừ
vây vàng, tôm cua, cá bông lau .. khiến cho đời sống của
dân cư ở đây khá sung túc. Tuy nhiên, ở Davao chưa
được bao lâu th́ sư cô lại gọi tôi về
giúp văn pḥng luật sư để liên lạc với
thuyền nhân đang ở tứ tán khắp mọi nơi.
Tại Manila, tôi phải ở nhờ
nhà của một người quen đang đi bán dạo ở
Fairview và ngày ngày đi "jeepney**" tới gặp Vũ
để làm việc chung. Tôi lo liên lạc với những
đồng bào có diện đoàn tụ để thu thập
hồ sơ giấy tờ cho Vũ. Phần Vũ th́ lo
nghiên cứu hồ sơ, viết thư gửi đến
các toà đại sứ để kêu gào cứu xét. Thỉnh
thoảng Vũ dẫn tôi vào Makati tới từng ṭa đại
sứ "gơ cửa" van xin t́nh thương cho người
tỵ nạn!
Cũng chính Vũ là người
đề nghị tôi với anh Nam, Tổng Thư Kư Liên Hội
Đ̣an hồi ở trại, đặt tên cho văn pḥng
luật sư để dễ làm việc trong một buổi
ăn tối của ba anh em ở phố Tàu. Cuối cùng
chúng tôi chọn cho văn pḥng cái tên là "Hội
Tương Trợ" của người Việt tại
Phi do anh Nam làm hội trưởng và dĩ nhiên sư cô là cố
vấn của hội, nhưng ngày đó chúng tôi chưa
đăng kư chính thức với chính phủ sở tại
để lập hội.
Sau ba tháng đi tiên phong, mở
đường cho kế hoạch mới, luật sư Vũ
trở về lại Úc, người ta thấy có cô Trà My từ
Texas tới rồi luật sư Trịnh Hội sang sau khi
chấm dứt thời gian thiện nguyện ở các trại
cấm Hong Kong; mà ngày nay hẳn mọi người đều
biết đến anh. Tiếp theo là cô Nguyễn Song Liên
Phúc ở Úc, anh Nguyễn Quân ở Virginia và cô Thùy
Dương bên Úc tới làm việc với anh Trịnh Hội
đang t́nh nguyện phục vụ dài hạn tại
văn pḥng ở Paranaque-Manila trước khi cô trở thành
MC rồi c̣n nhiều và nhiều nữa. Họ là những
người trẻ đầy nhiệt huyết sang Phi giúp
đồng bào không lương, không vụ lợi, họ
hy sinh thời gian, sự nghiệp, làm việc trong điều
kiện thiếu thốn mọi bề.
Công việc ban đầu này vất
vả, nhiều khó khăn, bởi hầu hết những
ṭa đại sứ đều cho rằng chúng tôi không c̣n
"stateless" nữa v́ đă được chính phủ
Phi cho định cư tại chỗ rồi! Có đi
như thế mới thấy cay đắng cho thân phận
bị bỏ rơi, vô tổ quốc của ḿnh và
thương cho các luật sư. Họ v́ nghĩa đồng
bào, t́nh người Việt mà phải hạ ḿnh cầu khẩn
những nhân viên ở ṭa đại sứ của các quốc
gia tự do cứu xét cho đồng bào của họ. Hay
ngày sau như Trịnh Hội có lần nói với bà Courtney,
đặc trách về di dân của Mỹ tại ṭa đại
sứ rằng "anh sẵn sàng quỳ xuống đây nếu
bà muốn chỉ với một mong ước duy nhất
là bà hăy làm ơn xem xét lại các trường hợp của
thuyền nhân Việt Nam mà anh vừa đệ tŕnh với
bà!" Lời van xin thống thiết của anh khiến
bà Courtney bối rối, sững sờ thương cảm,
c̣n tôi đứng kế bên th́ nghèn nghẹn, mắt chợt
cay. Họ làm việc bất kể nắng mưa nhất
là phải chịu đựng t́nh trạng kẹt xe vào những
giờ cao điểm.
Niệm Phật Đường là
căn nhà một lầu, nằm trong con hẻm nhỏ, sâu,
gần trại Chuyển Tiếp (Transit Center) trước
đây. Phía bên dưới là gian pḥng khá rộng có nhà vệ
sinh và nhà bếp dùng để tiếp khách, nấu ăn,
cho người tỵ nạn về tá túc làm giấy tờ.
Trên lầu th́ có ba pḥng và một cái kho hẹp chứa đồ.
Pḥng nhỏ nhất dùng làm nơi thờ cúng vong. Trong pḥng
này mỗi bên có một bàn vong nam và vong nữ riêng biệt.
Pḥng thứ hai là pḥng thờ Phật với h́nh Phật Di
Lặc ngự trên cao. C̣n pḥng lớn nhất dùng làm văn
pḥng luật sư với nhà vệ sinh nhà tắm bên trong.
Tuy vậy nhiều hôm trời nóng bức ở trong nhà vẫn
không chịu nổi trừ văn pḥng là có một cái
air-conditioner cũ kỹ thở ph́ pḥ như ḅ đi hổn
hển mỗi khi sử dụng, hay những ngày mưa
nước ngập lơm bơm bên ngoài, hắt đầy vào hàng
ba trên lầu làm ướt át cả "chùa!" Đó là
chưa kể tới các hôm cúp điện th́ mọi người
phải ra khỏi nhà để t́m chút gió. C̣n ngày cúp nước
th́ khỏi nói "mạnh ai nấy lo, hồn ai nấy giữ"
mọi người tự đi kiếm chỗ tắm rửa
như thuở c̣n ở trại. Những lúc ấy tôi c̣n nhớ,
Trịnh Hội phải xách quần áo chạy tuốt ra chỗ
mấy người bạn Úc; là nhân viên của toà đại
sứ Úc ngoài Makati để "tắm tỵ nạn!"
Ngày tháng trôi qua, một số anh em
trẻ có khả năng Anh ngữ và lại không phù hợp
với hoàn cảnh mua bán kia nên đă về làm giúp các luật
sư. Nhận thấy nhân sự lúc này đă có nhiều và
nếu tiếp tục ở lại th́ Niệm Phật
Đường không có đủ chi phí ăn ở cho
đông người nên sẵn dịp khi sư cô ủy thác
tôi trọng trách về Palawan để cùng với anh Thiên,
Phó Ban Đại Diện Chùa Vạn Đức, giao tượng
Phật Bà Quan Âm lại cho Ban Quản Trị của Làng Việt
Nam xong th́ tôi đi thẳng tới Dumaguete là thành phố thuộc
vùng Negros Oriental luôn. Cũng như Davao, các tỉnh ở Miền
Nam thường dùng tiếng Visayas trong giao tiếp thay v́ là
tiếng Tagalog. Cuộc đời mua bán đầu
đường xó chợ để sinh tồn của tôi bắt
đầu từ đây.
Hằng ngày khi trời c̣n mờ
đất là tôi đă lỉnh kỉnh vác đồ đạc
đựng trong các bịch nylon trắng thật to có sọc
đỏ cùng ba lô, túi xách ra khỏi nhà đón tricycle tới
bến xe jeepney để bắt xe đến chợ
Tanghay cách nơi tôi ở cả giờ đồng hồ rồi
kiếm chỗ trống hay góc phố nào đó bày hàng ra bán.
Ngoài một số mặt hàng Việt Nam của mấy d́ bỏ
mối người Việt mang từ bên nhà qua c̣n có những
mặt hàng như giày dép nam nữ, quần jeans hiệu
Levis hay Docker, áo thun Tomy, Fila, dầu thơm hiệu Eternity, Polo,
đồng hồ đeo tay đủ hiệu. Tất cả
các thứ này đều là "hàng nhái" được
các người tỵ nạn bỏ trại đi ra ngoài
buôn bán lâu năm bây giờ đă giàu có đi lên Baclaran hay
Quiapo trên Manila; những trung tâm thương mại sầm
uất của người Tàu để mua về bỏ mối
lại cho đám mới đi buôn như chúng tôi kiếm lời.
Hồi xưa ở xứ ḿnh có câu
"Hồng Kông bên hông Chợ Lớn" th́ ngày ấy t́nh
trạng hàng hóa mua từ các nơi kia đều là giả
nhưng đóng mác (mark) nước ngoài như giày th́ giày Ư
hay Hong Kong, China hoặc áo thun hiệu La Coste .. nhưng thật
ra đều được người Tàu ở Phi sản
xuất trong nội địa cả nên cũng có thể
nói "Hồng Kông bên hông phố Tàu" là vậy!
Suốt gần bốn, năm tháng
trời lam lũ "bưng thúng bán mẹt" từ
Tanghay tới Bais rồi có hôm đi sang tới các chợ ở
đảo Cebu hoặc Bacolod hay Tacloban (nơi vừa bị
băo Haiyan càn quét) mà vẫn không đủ ăn. Tôi bắt
đầu mệt mỏi và chán nản. Đang lúc ḷng đầy
thất vọng v́ bao năm tranh đấu cho tự do mà
bây giờ được sống trên xứ sở tự
do rồi mà vẫn chưa được trọn vẹn
v́ ngay cả một tờ giấy tạm trú để
đi đường cũng chưa có và lỡ xảy ra
điều ǵ không may cũng chẳng biết làm sao th́ lại
được trên văn pḥng luật sư gọi về
lăn tay bổ túc hồ sơ đi Mỹ. Thế là tôi vội
vàng từ giă Dumaguete trở lại Manila ngay!
Sỡ dĩ tôi có được may
mắn này là v́ năm 1996 Thầy Giác Lượng qua sau chuyện
chùa bị quân đội Thủy Quân Lục Chiến Phi phá
hủy để cưỡng bức hồi hương,
thầy thấy trong cơn pháp nạn mà tôi và anh Khánh vẫn
quyết tâm ở lại sống chết với phật
pháp th́ thầy thương t́nh và có bảo rằng về Mỹ
thầy sẽ bảo lănh hai anh em tôi. Lúc đó chúng tôi cũng
không chú ư lắm và điều đó đi vào quên lăng của
tháng năm.
Cho đến một lần, nhân nói
chuyện với anh Nguyễn Đ́nh Thắng qua điện
thoại, khi anh hỏi thăm về hồ sơ của
tôi th́ mới hay ra tôi không có được ai bảo lănh cả.
Tới chừng ấy anh mới ngă ngửa ra tôi không có một
diện ǵ để có thể được định
cư hết. Anh khá ngạc nhiên v́ hồi nào tới giờ
anh thấy tôi làm việc hăng say anh cứ tưởng
tôi cũng có phần, khi ấy tôi có kể cho anh nghe về
lới hứa của Thầy Giác Lượng th́ anh nói
để anh liên lạc với thầy t́m cách giúp bọn
tôi v́ trong thời gian nghiên cứu luật tỵ nạn của
Mỹ anh biết trong hiến pháp của Hoa Kỳ có điều
khoản cho diện di dân tôn giáo. Tôi nghĩ anh muốn an ủi
tôi thôi nên không quan tâm lắm. Nhưng rồi tại Hoa Kỳ,
anh Thắng và anh Trần Quang Nhân đă ráo riết vận
động để cuối cùng Hoa Kỳ đồng ư sẽ
cứu xét hồ sơ nếu quả thật trại PFAC
có những người trong diện này.
Từ đó bên Phật Giáo ở
Chùa Vạn Đức th́ ngoài Sư Cô Thích Nữ Diệu Thảo
ra c̣n có anh Thiên phó ban đại diện (anh là một nghệ
nhân, rất khéo tay và rất giỏi trong việc trang trí tổ
chức các ngày lễ hội, và là người bị
đánh thương tích nặng nhất trong đợt chùa
bị cưỡng bức hồi hương mà tôi đă
đề cập đến trong bài "Chùa tôi" lúc
trước) với tôi và Khánh. Phía Thiên Chúa Giáo, Cao Đài và
Tin Lành cũng có một số trường hợp
được BPSOS đề nghị thêm. Sau đó diện
"religious worker" này mở rộng tới Việt Nam
luôn cho đến bây giờ!
Trong mấy ngày ở Niệm Phật
Đường và chờ đi lăn tay, thỉnh thoảng
Luật Sư Trịnh Hội có nhờ tôi đưa một
vài gia đ́nh đi khám sức khỏe, đi lấy
"police clearance" để hoàn tất thủ tục
đi Mỹ hay ra đầu ngơ copy giấy tờ ở tiệm
của ông người Úc có vợ Phi cho anh. Lúc này số
người được chấp nhận đi định
cư gia tăng nên rất cần người phụ việc
do đó Trịnh Hội nhờ bất cứ ai có mặt
và có thể làm tùy theo khả năng của mỗi người.
Lăn tay xong rồi chờ đợi
nhưng không biết đến bao lâu. Ngày tháng chờ đợi
vẫn phải kiếm ăn. V́ vậy mà chính bản thân
tôi cũng trở thành dân "bán bà ba ngố" (Dầu
thơm)
II. Đời Buôn "Bà Ba Ngố"
Ở Phi
Dù về Niệm Phật Đường,
nhưng chẳng thể sống và ăn ở trong chùa mà
không làm việc được nên tôi rủ Khánh đi buôn.
(Anh Khánh sau này thành tài tử xi nê với vai thuyền trưởng
Nam, đồng diễn với Kiều Chinh, Diễm Liên
trong phim "Journey From The Fall" của đạo diễn
Hàm Trần.)
Hàng ngày mang đồ đạc tới
các chợ xung quanh khu vực Manila buôn bán kiếm tiền sống.
Cứ thế sáng sớm mỗi ngày hai anh em tay xách nách mang
hàng hoá, lưng đeo ba lô t́m chợ bày hàng.
Cuộc sống tạm bợ, bữa
cháo bữa rau, dăi nắng dầm mưa cơ cực
nhưng xem ra không c̣n cách nào khác hơn. Để có đủ
tiền trang trải, nhiều buổi chiều chúng tôi lại
phải t́m những lề đường đông đúc
người qua lại mua bán thêm. Một ngày kia, khoảng
ba giờ chiều, trời c̣n nóng hừng hực bên ngoài
nhưng chúng tôi phải đi trước giờ cao điểm
để khỏi bị kẹt xe. Thế là hai anh em tôi rời
nhà, đón jeepney tới Baclaran. Lên xe xong hai đứa tôi
chui tuốt vô trong ngồi sát sau lưng tài xế, đồ
đạc th́ để ở giữa lối đi. Lúc này
trên xe cũng c̣n thưa thớt hành khách, chỉ có một cặp
trai gái đang ôm nhau ngồi đối diện với chúng
tôi, tay trong tay, cạnh là một bà tuổi khoảng trung
niên mặc jupe đen, áo sơ mi hồng đậm mà tôi
đoán là cô giáo, xa xa phía dưới một người
đàn ông trạc ngoài ba mươi vận aó sơ mi trắng
bỏ trong quần tây đen thẳng nếp chân đi giày
bít cũng màu đen bóng loáng đang ngồi trong góc của
băng ghế lơ đăng ngó ra ngoài.
"After some time, I ve finally made up my
mind. She is the girl and I really want to make her mine. I m searching
everywhere to find her again. To tell her I love her. And I m sorry bout the
things I've done .. Boy I've missed your kisses all the time but this is Twenty
five minutes too late .." nh́n cô gái tươi tắn cùng chiếc
váy xanh dương đậm, cái áo sơ mi cổ tṛn, màu
vàng hột gà nằm ngay ngắn bên trong chiếc váy dài,
gương mặt cô đẹp, đôi mắt thật to,
đôi hàng lông mi dài, cong vút, cặp chân mày đen đậm
tôn làn da trắng ngần càng làm cho khuôn mặt của cô
thêm thanh tú, đang cong đôi môi quyến rũ màu đỏ
tươi say sưa hát theo bản nhạc "25
minutes" đầu lắc lư qua lại nhè nhẹ theo
tiếng nhạc điệu "soft rock" phát ra từ
cái speaker nhỏ gắn trên cao trước mặt tài xế
khiến cho cô gái càng thêm dễ thương.
Vào những năm cuối của thập
niên 1990 th́ mấy bản nhạc của các anh chàng nhạc
sĩ b́nh dân Michael Learns To Rock đang trở thành "top
hits" ở Phi. Và người Phi lại là một dân tộc
rất mê nhạc nên lúc ấy ở bất cứ chỗ
nào từ trên xe tricycle đến quán sá, Mega Mall, đâu
đâu người ta cũng nghe các ca sĩ nghèo này rên rỉ
như Chế Linh ngày xưa vậy. Trong khi đó anh thanh
niên, bạn của cô gái, cũng rất đẹp trai,
đầy nét nam tính, ăn mặc tươm tất
như người đàn ông nọ, đang âu yếm mân mê
bàn tay cô gái. Một tay anh ôm lấy bờ vai cô, tay kia th́ vuốt
nhè nhẹ trên làn da mịn màng mà cánh tay cô gái đang đặt
trên đùi anh ta. Lâu lâu cả hai lại hôn nhau thật thắm
thiết, tự nhiên khiến bọn tôi cảm thấy tủi
phận lưu vong không ngày tháng của ḿnh!
Như chúng ta cũng biết, Phi là
thuộc địa lâu đời của Tây Ban Nha nên phải
nói rằng sự pha trộn giữa người Âu và Á tạo
nên một nép đẹp riêng, duyên dáng mặn mà nhưng
không kém phần mạnh mẽ như cặp trai gái tràn
đầy sức sống đang ngồi trước mặt
bọn tôi đây. Tôi nghe chú Ôn Văn Tài, chồng của cô
nữ danh ca Thanh Thúy, sang thăm chúng tôi ở Niệm Phật
Đường cuối năm 1996 hay 1997 ǵ đó mà lâu quá
tôi không c̣n nhớ rơ bảo rằng "hơn hai
mươi năm trước khi chú đến Phi th́ Manila
c̣n nghèo, dân trí Phi c̣n thấp, thua Sàig̣n ḿnh. Nhưng bây giờ
Manila phát triển nhiều. Makati đẹp không thua Mỹ,
đời sống và dân trí họ cao hơn hẳn Việt
Nam ta rồi." Thế mới biết đâu là "đỉnh
cao của trí tuệ!"
Quả thật, Phi Luật Tân là
nước đang phát triển nên cũng c̣n nhiều vấn
nạn nhưng phải nói thẳng rằng người Phi
bây giờ ra đường ăn mặc lịch sự,
cư xử nhă nhặn, hiếu khách và lịch lăm đặc
biệt là ít có thủ đoạn ma mănh, lường gạt
như trong xă hội Việt Nam hiện nay. Đời sống
người dân Phi tương đối hiền ḥa êm ả
hơn người Việt bên nhà v́ dẫu sao cũng là xứ
tự do. Đó là sự khác biệt lớn lao giữa hai
quốc gia hiện tại. Măi suy nghĩ miên man trong tiếng
nhạc dập d́u rồi lại nh́n họ, tôi đoán chừng
họ là sinh viên và trông họ đang yêu thật hạnh
phúc làm sao!.
Khi nắng chiều vừa nhạt
nḥa, bước nhẹ xuống lề đường c̣n
hừng hực nóng của một góc phố th́ hai anh em tôi
đến. Dáo dác ngó trước nh́n sau, chọn lựa
địa điểm xong xuôi chúng tôi đổ đồ
đạc ra tấm trải bằng nhựa. Hàng bày vừa
xong th́ có một bà già Phi xăng xái đi tới. Sau một
hồi xăm xoi chọn lựa, bà cầm lên một cái áo
ngực và rất tự nhiên bà ướm vào người
giữa chốn thanh thiên bạch nhật đông người
qua lại rồi nhảy nhót, xoay ṿng một đổi ra
chiều rất thích thú:
- How much? Bà già hỏi.
- Two hundred pesos, ma am! Tôi trả lời.
Bà lại giơ chiếc áo ngực
lên ngang mặt ngắm nghía thêm một lúc rồi để
xuống, dợm bỏ đi. Tôi gọi bà lại và mời
mua, bà trả lời bằng tiếng Tagalog:
- Walang
pera (No money!)
Tôi ngẩn người. Khánh nh́n tôi
không nói tiếng nào, bóng bà già khuất ở dăy phố cạnh
bên. Tới khoảng tám giờ tối, khi đèn đường
hắt ánh sáng nhợt nhạt lên người, da tay bọn
tôi như sẫm lại màu bùn. Gió đêm hiu hắt thổi
qua phố xá, hai đứa tôi dọn đồ về, ḷng
buồn thiu v́ suốt buổi không bán được đồng
nào. Ngày đó kể như lỗ vốn!
Chiều hôm sau bà lại tới, tôi
lại mời. Bà trả giá một trăm pesos cho cái áo ngực
hôm qua. Mới vừa đủ vốn, tôi nghĩ bụng.
Không bán được, tôi nói. Bà bỏ đi !
Ngày kế tiếp, bà già lại
đến nh́n cái áo ngực đang nằm mời gọi
và vẫn chỉ trả một trăm. Không bán được!
Bà lắc đầu quày quậy, tính bỏ đi. Khánh
đứng kế bên bỗng vừa cúi xuống cầm chiếc
áo ngực lên vừa nh́n tôi:
- Ông đưa tui mượn cái kéo.
Tôi ngạc nhiên không hiểu Khánh muốn
ǵ nhưng vẫn khom người tháo hộp kéo và lấy
ra một cái đưa cho nó. Khánh bảo bà già cầm lấy
đầu kia của cái nịt ngực, c̣n hắn cầm
đầu này đọan vói tay lấy cái kéo tôi đưa
để vào giữa chiếc áo ngực:
- What are you doing?
Bà già vội vàng buông chiếc nịt
ngực xuống, vừa hỏi vừa nh́n hắn, mắt
trợn tṛn ngạc nhiên. Khánh tỉnh bơ bảo nịt
ngực này giá hai trăm mà ngày nào bà cũng tới trả một
trăm nên thôi hắn cắt ra làm hai bán bà phân nửa c̣n hắn
giữ lại phân nửa. Nghe Khánh giải thích, tôi không nhịn
được cười. Riêng bà già biết là bị Khánh
chọc quê nên cũng mắc cở, cười gượng
bỏ đi không quên lí nhí trong miệng:
- Loco! Loco! (Khùng điên! Khùng
điên!)
Thế nhưng chiều ngày hôm sau bả
lại tới móc hai trăm pesos trả và lấy cái áo nịt
ngực mà không nói tiếng nào. Khánh cũng đưa bà ba
mươi pesos mà hắn nói là "discount" cho bà. Bà cầm
tiền và cám ơn. Từ đó lúc nào đi ngang bà cũng
"hello" với hai thằng tôi.
Sau nhiều ngày buôn quanh bán quẩn,
một hôm anh Thiên và tôi ra cảng Manila đi tàu tốc hành
gọi là SuperCat của hăng Supercat Fast Ferry Corporation chạy
thẳng về cảng Lamao là cảng đối diện với
cảng Manila; một barangay nhỏ của Limay. Limay là thành
phố lớn thứ hai sau Balanga. Từ đây chúng tôi
đi jeepney về tới nhà chị bạn ở thành phố
Balanga mất chừng bốn mươi lăm phút đồng
hồ!
Balanga là thủ phủ của tỉnh
Bataan, toạ lạc tại Miền Trung của đảo
Luzon. Theo Wikipedia th́ Balanga là thành phố nông nghiệp với
diện tích khoảng 11.163 mẫu đất đă
được khai khẩn và đưa vào canh tác. Các cơ
sở hạ tầng như trường học. bệnh
viện đều đầy đủ, đời sống
dân chúng nơi này khá sung túc với các tiện nghi có sẵn.
Ngày đầu tiên, chị bạn
nhường lại cho tôi một số hàng hóa trị giá
chừng khoảng năm ngàn pesos của chị và nghỉ
một ngày bán để dắt tôi đi tập sự v́ hồi
nào tới giờ tôi chỉ bán ở chợ và hè phố mà
thôi.
Nơi đầu tiên chúng tôi đến
là Municipal của Limay. Khi chị kêu tài xế ngừng lại
và lúc xuống khỏi xe jeepney rồi tôi h́ hục cùng chị
vác một đống đồ đựng trong các giỏ
bước vào một cái sân xi-măng rộng lớn
như sân bóng rổ. Nh́n thấy cái municipal thật to tít
đàng xa, tuốt trên cao với lối vào là nhiều bậc
cấp được chia làm hai bởi một mảng
xi-măng ở giữa dùng để nghỉ chân mà trong kiến
trúc gọi là chiếu nghỉ (tiếng Pháp gọi là palier,
tiếng Anh là plateau hay tableland) rộng ngang bằng với
tiền diện của đại sảnh, tôi chợt e dè.
Nhưng rồi thấy chị
đi xăng xái phía trước tôi đành lủi thủi
bước theo. Quen mua bán đă lâu, chị vào chỗ công
quyền như đi vào nhà ḿnh. Chị lựa một pḥng
lớn có đông nhân viên nhất đang ngồi làm việc
bước vô. Bằng một thứ "broken English"
chị thản nhiên chào hỏi mọi người rồi
lu loa bày những bao hàng ra giữa pḥng, đoạn xổ
tung các thứ ra.
Người Phi nghĩ cũng ngộ,
đang làm việc vậy mà tự động đứng
dậy rời bàn tới chọn hàng hoá, không những thế
họ lại c̣n chạy sang các pḥng khác réo gọi bạn
bè, đồng nghiệp sang. Chẳng mấy lúc cả pḥng
đă ồn ào như cái chợ.
Tôi lặng lẽ để hai bịch
đồ của ḿnh vào góc và đứng quan sát. Nhân viên ở
đây đi làm công chức chánh phủ mặc đồng
phục hẳn hoi. Người nào cũng mặc jupe
đen ngang gần tới đầu gối và áo sơ mi
xanh da trời nhạt cổ to, tṛn có viền xanh
dương đậm, chân mang vớ da, đi giày bít nâu hoặc
đen trông rất lịch sự. Một đỗi sau, chị
bạn bất chợt quay sang thấy tôi với hai giỏ
đồ c̣n nguyên trong góc chị trợn mắt:
- Ủa, sao không đổ đồ
trong đó ra?
Trong lúc tôi c̣n đang lúng túng th́ một
cô nhân viên c̣n trẻ khá đẹp, cao to, tiến lại gần:
- What is it?
Tôi chỉ nh́n cô ta cười, "say
hi," và đổ đồ ra. Mắt cô bỗng sáng lên
và reo to:
- Oh, panties! Oh, you have bras too, my friend!
Tôi ngượng quá, không nói tiếng
nào. Mọi người bỏ hàng hoá đang lựa dang dở
đàng kia bu lại chỗ tôi. Kẻ lấy quần lót,
người cầm áo ngực xem một cách thoải mái. Có
cô kía cũng khá đẹp thấy tôi mắt cở c̣n trêu
bằng cách cầm cái áo ngực ướm lên người
rồi nh́n tôi chu miệng ra khiến các cô bên cạnh cười
khúc khích. Bạo dạn hơn, cô lấy cả cái quần
lót màu xanh lá mạ áp vào trên cái váy, dưới bụng và kêu
tôi:
- My friend, what do you think if I wear it?
Cả pḥng cười vang, tôi sượng
sùng, mặt cứng ngắc. Một bà già trông có vẻ làm lớn
mà sau này tôi biết là trưởng pḥng, ngó cô gái cười
nhưng nói ǵ đó bằng tiếng Tagalog khiến cô gái rụt
cổ, lè lưỡi. Tôi đoán chừng bà la cô ta đừng
giỡn quá lố làm tôi có ư nghĩ không tốt về phụ
nữ Phi chắc. Sau này tôi biết người Phi là vậy.
Họ có một tính cách rất tự nhiên, vui vẻ, dạn
dĩ và dễ làm thân, đặc biệt là họ khá ngay thẳng
và thành thật v́ cuối cùng khi chọn hàng hoá xong th́ chị
bạn tôi đưa họ một cuốn sổ tay. Mỗi
người tự động ghi tên, ngày mua, pḥng làm việc
của ḿnh, mặt hàng và tổng cộng số tiền của
mấy mặt hàng họ lựa để kế bên và hẹn
ngày đến lấy nợ. That's it!
Xong xuôi chị lại dẫn tôi lên
lầu và cứ thế chúng tôi đi từ pḥng này sang pḥng
khác. Đến gần 12 giờ trưa th́ gần như
chúng tôi đă bán xong chỗ này. Mấy túi xách đă nhẹ
hẳn đi, chị bạn hớn hở dẫn tôi ra về.
Ngồi trên xe trong lúc tài xế đợi thêm khách chị lấy
sổ ra xem một hồi rồi quay qua tôi:
- Hôm nay bán được hơn bốn
ngàn pesos ở đây. Mua một, bán gấp đôi! Vậy
là ông lời được hai ngàn hơn rồi thấy
chưa?
- Nhưng đâu có thấy tiền
đâu? Tôi cười hỏi đố lại.
- Nè, ông coi. Bây giờ ông c̣n một
đống đồ ở đây mà vốn chỉ cỡ
hai ngàn rưởi pesos thôi. Mai ông đi xuống Lamao bán nữa,
được thêm vài ngàn nữa là lời bộn rồi.
Trong lúc chị huyên thuyên kể lể,
tôi nhủ thầm trong bụng "à, th́ ra bán nợ là dzầy
đây. Đúng là một cơi đi dầu!"
- Ờ, mà hồi năy sao ông không chịu
bỏ đồ lót ra vậy? Chị thắc mắc.
Tôi chỉ lắc đầu cười.
Chị lên cao giọng dạy đời:
- Mẹ .. đi bán mà bày đặt
mắc cở nữa. Tui cho ông hay bán quần lót áo ngực
này là lời nhất đó. Có ngày tui bán được
năm bảy lố chứ hổng phải chơi đâu!
Rồi chị lại tiếp
như nói với chính ḿnh:
- Bán cái này vừa nhẹ vừa khỏe
mà lại lời nhiều nữa, sướng chết mẹ
luôn, đừng tưởng bở!
Đúng là vác nhẹ th́ khoẻ
nhưng .. sướng th́ tôi không biết sướng chỗ
nào? Rồi tiếng chị lại văng vẳng bên tai
tôi.
- OK, bắt đầu từ ngày mai
khu vực này là "của ông." C̣n trên Balanga đổ
về Manila là "của tui," không được xâm phạm
nghe. Vùng này bán cũng "ngon" chớ, hồi đó tui
nghĩ chỗ này nghèo nên chê. Thôi bây giờ giao ông "quản
lư" cũng được!
"Cái ǵ mà của ông với của
tui ghê thế? Làm như gia bảo của ông nội, ông ngoại
ḿnh để lại không bằng!" Bụng nghĩ thế
nhưng tôi chỉ làm thinh, v́ dù sao th́ như chị cũng
đă là tốt lắm rồi bởi ngoài chuyện cho ở
đậu trong nhà, giúp vốn cho mua bán, chị lại c̣n dắt
đi buôn.
Hôm sau tôi một ḿnh vác đồ
đạc đi về hướng Lamao. Đoạn
đường từ Limay đến Lamao nhiều núi
đồi nên khá nguy hiểm, đôi khi các tài xế phải
uốn éo, lạng lách hay quẹo mấy đoạn cua thật
gắt mà một bên là vách núi c̣n phiá kia là thung lũng với
rừng cây bên dưới bạt ngàn ngó không thấy đáy
làm tôi liên tưởng tới nếu không may mà lúc đó xe
bi lọt xuống đấy th́ có lẽ cha mẹ tôi ở
Việt Nam sẽ không bao giờ biết tôi ở đâu nữa
trên cơi đời này.
Lamao nhỏ hơn Limay nên chỉ có
"barangay" mà thôi và cũng như hôm qua tôi vào đó sau
một hồi đứng lưỡng lự bên ngoài. Cuối
cùng th́ tôi cũng bán được gần hai ngàn v́ nhân viên
ở đây không nhiều như ở municipal. May mắn là
tôi được người bảo vệ viết giấy
giới thiệu tới một trường tiểu học
gần đó v́ chị ông ta là hiệu trưởng trường
này. Nhờ vậy mà tôi bán thêm được gần một
ngàn nữa th́ về.
Thời gian tựa gió thoảng mây
bay, thắm thoát mà chúng tôi ở đó đă hơn nửa
năm. Ngoài các trường tiểu học ra tôi c̣n bán thêm
tại một số trạm y tế hay cơ sở công
quyền nữa. Lúc này tôi đă có bốn năm cuốn sổ
thu nợ. Cuộc sống tạm ổn với việc mua
bán hằng ngày. Lâu lâu chị bạn gom những đồ
đạc bị ế v́ bán đă lâu mà người ta chê lại
mà chúng tôi gọi là "hang tồn" rồi rủ tôi
đem lên chợ Morong gần trại Bataan cũ để
bán lấy tiền mặt mà về Manila mua hàng mới.
Đời đi buôn bà ba ngố cứ
vậy mà xoay vần, trong khi mọi người an phận,
bất cần ngày mai không nghĩ ngợi tới
tương lai con cái nữa và bắt đầu giàu có lên.
Họ bắt đầu sắm xe gắn máy hay có vài gia
đ́nh đă mua được cả xe hơi cũ (used
car) để làm phương tiện đi lại hay buôn
bán th́ với tôi nỗi ê chề cay đắng ngày càng tràn
ngập. Có những trưa hè oi ả, ngồi trên jeepney
nóng hầm hập, lúc xe chạy qua mấy đồng lúa
chín vàng nằm sát chân mấy ngọn núi trọc dưới
ánh nắng hồng, nh́n các con trâu đang nhởn nha gặm
cỏ trong những bóng cây râm mát tôi chợt nhớ nhà, nhớ
Việt Nam và bỗng thèm được .. viết một
chút. Đă lâu lắm rồi, cuộc sống trần trụi
đến thô tục đă giết chết đam mê viết
lách của tôi tự khi nào!
Một ngày nọ như lệ
thường, đến kỳ thu tiền tôi ra khỏi nhà
không mang theo đồ đạc ǵ cả chỉ cầm sổ
nợ theo thôi v́ nếu vừa thu nợ vừa bán th́ không
kịp thời gian lấy hết nợ. Đứng
trước nhà, tôi đón tricycle ra bến xe jeepney tới
Limay. Lúc này trên bậc cấp sát cửa ra vào municipal có vài
người đàn ông Phi đang đứng tán gẫu. Tôi
nhận ra một số trong họ là nhân viên, kẻ là tài xế
c̣n lại một hai người khác th́ tôi không biết.
Buôn bán ở đây khá lâu họ đă quen mặt tôi nên vui vẻ
chào hỏi. Tôi tươi cười đáp lễ và đi
vào trong.
Vô pḥng tài vụ, bà Beth trưởng
pḥng thấy tôi ngoắc lại và ch́a tay ra. Tôi đưa sổ,
bà giở ra t́m tên bà rồi trừ phân nửa số tiền
đoạn móc mấy bốn trăm pesos trong giỏ xách
tay ra trả ngay. Phải nói thẳng rằng bà rất lịch
sự, ṣng phẳng và lẹ làng. Nghe đâu bà tốt nghiệp
đại học ở Manila mấy mươi năm về
trước và hiện bà cũng có con gái đang du học tại
tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Mấy người khác cũng
lần lượt trả tiền tôi. Chỉ đến
lượt Mélanie th́ cô buồn buồn bước đến
gần tôi nói nhỏ là con cô đau, cần tiền đi bệnh
viện và mua thuốc nên cô khất lại lần sau. Biết
làm sao hơn trước hoàn cảnh đó, tôi đành gật
đầu thông cảm. Phải vậy thôi, coi như là lỗ
một "give" vậy!
Đang khi ấy th́ Lisa, cô gái tôi gặp
lần đầu tiên lúc đến đây, tươi tắn
đứng cạnh vừa bá lấy cổ tôi vừa nhún
nhảy hát nho nhỏ "Baby want you tell me why there is sadness
in your eyes I dont wanna say good bye to you .. I won't forget the way you're
kissing the feeling's so strong were lasting for so long, but I'm not the man
your heart is missing that's why you go away, I know you were never sastified
.." để chờ đến phiên ḿnh trả tiền.
Mùi dầu thơm từ người Lisa đưa thẳng
vào mũi làm tôi choáng váng.
Xong bên dưới, tôi vội vàng lên
lầu vào pḥng kế hoạch rồi sang pḥng thuế vụ.
Sau khoảng hai tiếng đồng hồ lấy nợ
xong xuôi tôi trở ra. Khi tôi vừa xuống tới lưng
chừng bậc cấp th́ có người gọi giật giọng:
- Yong, where are my panties?
Người Phi không đọc
được tên tiếng Việt của tôi nên cứ kêu
tôi là "Yong" mà thôi. Nghe ai gọi ḿnh, tôi nh́n lại th́
thấy Lisa đang hớt hải đuổi theo và hỏi
từ trên cao. Sực nhớ mấy cái quần lót mà Lisa
"order" kỳ trước nhưng đang nóng ḷng sang
trường tiểu học kế bên lấy nợ v́ sợ
bà Joy đi về sớm bởi bà cô giáo này đă "trốn"
tôi hai lần rồi nên tôi nói vọng lên:
- OK, tomorrow. I do not have any stocks today.
- I want white, pink and yellow one, Yong.
- OK, OK, I will.
Rồi không đợi Lisa nói thêm tôi
quày quả bỏ đi nhưng như sợ tôi c̣n quên
điều ǵ nàng vẫn léo nhéo phía sau:
- Yong, my ..
- Yeah, I remember your size!
Tôi ngắt lời nàng rồi hấp
tấp bước đi. Nhưng khi tôi vừa xuống khỏi
bậc cấp cuối cùng th́ bỗng nhiên có ai nắm lấy
cổ áo tôi lôi lại từ sau lưng làm tôi suưt ngă. Ngẩng
mặt nh́n lên tôi thấy một gă mập bự đứng
ngoài thềm khi tôi mới tới lúc năy. Trông đôi mắt
long lên ṣng sọc và gương mặt bặm trợn của
gă tôi hết hồn chưa hiểu chuyện ǵ. Đoán biết
suy nghĩ của tôi gă gằn gịong:
- Why do you know the panties size of my wife?
Bấy giờ th́ tôi vỡ lẽ tại
sao gă lại nắm cổ áo tôi. tuy nhiên tôi chưa kịp
nói ǵ th́ Lisa trông thấy thế cũng lật đật
chạy xuống. Một tay Lisa gỡ tay chồng nàng ra khỏi
cổ áo tôi, tay kia th́ đẩy tôi đi:
- No, no .. honey! Sorry Yong, no problem. Go ..
go! You should go, Yong!
Đi được mấy bước
rồi tôi ngoái đầu nh́n lại thấy gă vẫn c̣n
ngó theo ḿnh giận dữ. Chiều về, ngồi trên xe nhớ
lại chuyện này lúc trưa tôi chợt bật cười,
ḷng nhủ thầm "ḿnh thiệt là bậy bạ hết
sức!"
III.
Gặp Lại Ở Cali
Một hôm tin anh Nguyễn Hữu
Thám được Úc chấp nhận cho đi đoàn tụ
với vợ sau khi phỏng vấn đă như một quả
bom nổ lớn trên bầu trời tỵ nạn của
người Việt c̣n kẹt lại ở Phi. Ngày Trịnh
Hội đi lấy Visa nhập cảnh vào Úc cho anh Thám cả
Niệm Phật Đường như lên cơn sốt. Mọi
người lao xao không biết phải làm ǵ, cứ nhốn
nha nhốn nháo. Tôi c̣n nhớ thời gian đó anh Thám nhiều
lúc cứ ngồi đờ ra cười cười có lẽ
anh quá bất ngờ với kết quả ngoài sức
tưởng tượng của anh sau bao năm tuyệt vọng
trong khi ấy thằng Công, người phụ Hội giúp
cho trường hợp anh Thám th́ lại như con "lật
đật" nhào lên nhào xuống, mồm miệng tía lia,
gọi điện thoại lung tung báo cho bạn bè ở khắp
mọi đảo. Riêng Hội th́ lúc ấy cũng mừng
lắm v́ chuyện anh Thám đi định cư Úc như
một cố gắng to lớn mở được cánh cửa
tái định cư dân tỵ nạn đang đóng kín.
Như vậy th́ bảo sao mọi người không vui mừng?
Bởi ánh dương quang đă bắt đầu le lói ở
cuối chân trời!
Rồi không đợi anh Thám chờ
vợ gửi tiền sang mua vé máy bay và các thứ tối
thiểu cần thiết khác mà Hội c̣n xuất ra mấy
trăm đô cho anh mượn để mua vé máy bay lên
đường ngay bởi "đêm dài lắm mộng,"
sợ anh sẽ bị các thế lục ngầm t́m cách giữ
lại, hay bởi không ai muốn v́ lư do nào đó mà anh bị
đ́nh lại chuyến bay, bởi mọi người
đều mong ước anh là mũi khoan đầu tiên
phá tan lớp đá cứng ngăn chặn con đường
tỵ nạn đang hé mở.
Và chẳng những thế Trịnh
Hội c̣n bỏ ra thêm vài trăm pesos để tổ chức
"farewell party" tiễn anh Thám lên đường định
cư nữa. Đêm trước ngày anh đi, một số
người Việt sống xung quanh và đang mua bán gần
đó hay tin, kéo về đầy cả "chùa." Tất
cả đều mừng rỡ và tràn đầy háo hức
hy vọng. Lâu lắm rồi mới thấy lại một
bữa tiệc chia tay tiễn đưa thế này như ở
dưới trại ngày xưa. Các nụ cười vui, những
ánh mắt lạc quan ngỡ đă tắt tự khi nào! Mọi
người vây quanh lấy Hội để nghe anh bàn bạc
cho dự tính sắp tới. Buổi tiệc kết thúc vào
nửa đêm khuya khoắt trong niềm hân hoan oà vỡ!
Thành công trong chuyện đưa anh
Thám đi định cư đă khích lệ Luật Sư
Trịnh Hội và BPSOS thêm hăng say hoạt động cứu
người, là tin mừng cho thuyền nhân. Bấy giờ
uy tín của văn pḥng luật sư tại Niệm Phật
Đường đă lên cao. Trịnh Hội như một
cứu tinh, như anh hùng Don Quixote giữa đàn cừu, và
trở thành cái gai cho những người có định kiến
"không thể nào có chuyện các quốc gia thứ ba giải
quyết cho đi định cư nữa trong lúc này!"
Những tháng kế tiếp nếu
không đi cầu khẩn với ṭa đại sứ Mỹ,
ṭa đại sứ Canada hay họp với toà đại sứ
Úc nhằm thảo luận t́m kiếm một giải pháp khả
thi cho thuyền nhân th́ Trịnh Hội bay sang Hong Kong kiếm
tiền về cho quỹ của Niệm Phật Đường
v́ lúc trước Hội làm thiện nguyện bên đó có
quen rất nhiều người giàu có như cô Tuyết
Nguyệt nào đó mà anh hay nhắc tới mỗi khi nói chuyện
với bọn tôi và có lần anh c̣n đóng cả phim nữa.
Vốn dĩ anh có quen biết với một đạo diễn
Hong Kong và nhân dịp nhà đạo diễn này muốn hợp
tác với Phi để sản xuất một phim
được quay tại Quiapo-Phi Luật Tân thế là anh
lọt được vào "mắt xanh" của ông ta.
Tôi c̣n nhớ rơ chuyện này v́ chiều
một hôm trong khi tôi đứng tựa lan can trên lầu ở
chùa th́ thấy Hội về. Ít phút sau anh lên pḥng thay đồ
và ra hàng hiên nơi tôi đang đứng cho tôi một gói
thuốc lá. Tôi hơi ngạc nhiên v́ Hội chẳng hút thuốc
bao giờ! Trong khi tôi vô tư rút một điếu rồi
t́m hộp quẹt đốt th́ Hội lặng yên quan sát
cách tôi hút thuốc. Vài phút sau nhận thấy thái độ
hơi khác lạ của Hội tôi hỏi ra th́ mới biết
Hội đang tập cách hút thuốc v́ trong phim anh sắp
đóng anh được phân vào vai một tay đại ca
cưỡi mô tô và dĩ nhiên dân giang hồ phải biết
hút thuốc là cái chắc rồi. Đó là chưa nói tới
chuyện Hội c̣n có phải tập thêm những thói
hư tật xấu nào nữa không th́ tôi không biết bởi
"dân anh chị" là phải tứ đổ tường
mà lị!
Ngày sư cô cùng cha con anh Thiên đi
tiếp kiến phái đoàn Mỹ rồi cũng tới.
Trong khi tôi và Khánh ở nhà hồi họp chờ đợi
th́ buổi chiều mọi người trở về, mày
châu ủ dột, thất vọng năo nề làm bầu không
khí tối đó ảm đạm hẳn đi. Hỏi ra
th́ mới biết anh Thiên bị bà Courtney "quay" suốt
gần tám tiếng đồng hồ. Bà không tin những ǵ
anh tŕnh bày, bà không tin anh sống và làm việc trong chùa nhiều
năm bởi bà Courtney nhận được bức
thư của người có trách nhiệm quản lư dân tỵ
nạn dưới Làng Việt Nam gửi cho bà với nội
dung phủ nhận quá tŕnh sống và làm phật sự của
anh trong chùa Vạn Đức tại PFAC trước
đây. Nh́n bức thư mà bà Courtney mới ch́a ra cho Hội
xem, anh cảm thấy như đất trời sụp
đổ, bao hy vọng chợt tan thành bong bóng trong phút chốc.
Anh không hiểu tại sao trên đời này lại thật
sự c̣n có người tàn ác như thế? Không biết họ
nghĩ thế nào khi mà người ta phải chờ đợi
suốt cả chục năm trời mới t́m được
cơ hội tự do mà nỡ ḷng nào họ lại bóp méo sự
thật để triệt hạ anh v́ tư thù cá nhân một
cách vô lương tâm như thế khi mà chính họ lại
là người tu hành?
Bà Courtney cho biết là bà sẽ gửi
trả hồ sơ của anh về lại Mỹ và bà
không biết là bao lâu nó sẽ được mở lại.
Có thể một năm, hai năm, hay mười năm hoặc
.. không bao giờ! Hội có xin bà một bản copy bức
thư quái ác kia nhưng bà Courtney từ chối. Trước
t́nh h́nh quá căng thẳng ấy Hội đă xuống
nước năn nỉ bà. Không biết Hội đă nài nỉ,
khẩn khoản thế nào mà cuối cùng hơn cả giờ
đồng hồ sau bà đồng ư "suspend" hồ
sơ của anh phó ban lại trong thời hạn một
năm để cho anh t́m thêm những chứng cứ bổ
túc là anh đă nhiều năm ở và làm việc cho chùa.
Đêm đó Hội nói với chúng tôi rằng bằng mọi
giá Hội phải ráng vận động để giúp anh
Thiên được định cư trước. Bởi
nếu anh không đi được th́ chúng tôi cũng khó
ḷng mà thoát ra khỏi chỗ này. Do trường hợp của
anh mà hồ sơ của sư cô cũng bị
"delay" luôn. Con đường đi diện "di
dân tôn giáo" trở nên khó khăn nhiều!
Tương lai bỗng như bị
đám mây đen kéo ngang, mịt mờ tăm tối hẳn
đi. Vấn đề đi định cư trở nên
xa vời và chúng tôi không thể ở lại Manila lâu hơn
nữa mà cần phải có tiền để sinh sống
nên bọn tôi được một người chị
quen ở trại dẫn về Balanga làm ăn mua bán.
Trong khi ấy th́ tại Manila, để
cho diện đi tôn giáo được thuận lợi
hơn nên anh Thắng đă bàn với Trịnh Hội tách hồ
sơ của sư cô và anh Thiên ra và để sư cô xin phỏng
vấn trước. Do đó vài tháng sau sư cô được
gọi tái phỏng vấn, kết quả là lần này hồ
sơ của sư cô được chấp thuận dễ
dàng. Đêm hôm trước sư cô lên đường
đi định cư, bà con thuyền nhân đă tề tựu
về chùa đông nghịt đến nỗi một số
người phải ngồi ra tới tận ngoài
đường hẻm trước chùa. Kế tiếp là
các người có diện đoàn tụ vợ chồng bên
Mỹ cũng được ra đi kể cả trường
hợp PIP (Parole In Place.)
Cùng trong thời gian đó, Trịnh
Hội đă cố gắng liên lạc với tất cả
mấy thầy từng biết hay ở Chùa Vạn Đức,
PFAC, ngày xưa như Thầy Thích Tâm Hoà, Chánh Đại Diện
trước đây hiện đang định cư ở
Canada .. để nhờ quư thầy viết thư cho phỏng
vấn viên của Sở Di Trú (interviewing officer of Immigrant
Visa Section) tại Ṭa Đại Sứ Mỹ ở Manila,
xác nhận cho trường hợp của anh Thiên, là phó ban
đại diện đă sống và làm phật sự nhiều
năm cho chùa ḥng hóa giải bức thư oan nghiệt của
người quản lư thuyền nhân lúc ấy.
Kết quả vượt ra ngoài
mong đợi của mọi người. Mọi việc
đều được suông sẻ và cha con anh Thiên cũng
vội vă ra đi trong âm thầm lặng lẽ để
tránh bị "d́m hàng!" Khánh giờ phải thay sư cô
trông nom chăm sóc Niệm Phật Đường, tôi trở
thành phụ tá của nó. Lúc này thiên hạ lũ lượt
kéo về chùa làm giấy tờ rất đông. Và một số
người khác cũng bắt đầu lên đường
đi định cư Canada. Chánh phủ Úc giải quyết
hồ sơ đoàn tụ ngày một nhiều hơn.
Trải qua mấy năm, BPSOS đă
cạn kiệt tài chánh, kinh phí giúp cho Niệm Phật
Đường không c̣n bao nhiêu. Trịnh Hội bấy giờ
phải đứng ra cáng đáng chuyện tiền nong. Môt
hôm Hội phải sang Hong Kong t́m cách xoay sở, giao chùa lại
cho hai anh em tôi trông nom sau khi thức suốt đêm hôm
trước "draft" một loạt thư từ gửi
đi các nơi cho bà con xong. Gần mười hai giờ
trưa hôm sau khi Trịnh Hội đứng trước cửa
chùa chuẩn bị ra phi trường th́ Sang, một phật
tử ở chùa lâu năm, không được b́nh thường
lắm lên tiếng hỏi tưng tửng:
- Ủa, Hội! Hội .. mày đi
rồi không để tiền lại anh em tao lấy ǵ
ăn Hội?
Anh em tụi tôi sống chung nhiều
năm, lâu ngày đâm thân thiết, những người trạc
cỡ tuổi với Hội thường xưng "mày,
tao" như trong gia đ́nh. Nghe Sang hỏi, Trịnh Hội
chưng hửng, mấy người có mặt lúc đó im lặng
ngó nhau không nói ǵ. Rồi không nghĩ ngợi Hội lấy
ra hơn năm trăm pesos đưa cho tôi:
- Anh giữ tiền này đi chợ
cho anh em ăn. Đợi em, ngày .. em về!
Hội đi rồi, tôi cầm tiền
đứng phân vân một đỗi ngẫm nghĩ mới
thấy tội cho sư cô ngày c̣n ở đây phải lo
trong lo ngoài. Bây giờ sư cô đi rồi không biết những
ngày tới Niệm Phật Đường sẽ ra sao?
Một tuần lễ trôi qua, trong
chùa khi đó có khoảng tám chín người tá túc. Sáng sớm
một hôm trong khi Khánh đang lui cui kiếm hũ chao để
ăn với cơm nguội th́ tôi lại gần:
- Ê, Ó ơi! Bữa nay c̣n có năm
mươi hai pesos này nữa là hết rồi nghe. Không biết
ngày mai tiền đâu sống?
Ó là biệt danh của Khánh từ hồi
c̣n ở trại. Tôi cũng không biết tại sao Khánh có
biệt danh đó? Nghe tôi nói Khanh ngẩng đầu lên tay
c̣n cầm hũ chao:
- Vậy hả? Th́ ăn hết bữa
nay rồi biểu tụi nó đi thôi!
Đoạn Khánh giơ hũ chao lên
cao lắc lắc, chép miệng:
- Chao cũng hết. Khỏi ăn
luôn!
Tôi gọi Sang đang ở trên lầu
xuống đưa cho nó năm mươi hai pesos cuối
cùng đi chợ cho ngày hôm nay. Cầm tiền xong và mặc
áo vào nó quay sang tôi:
- Sư huynh, đi xe đạp lôi
ra chợ và về là hết bốn pesos rồi. C̣n lại
bốn mươi tám đồng là vừa đủ cho bốn
ki lô (kgr) gạo và hai bó rau muống luôn đó.
- Ừ, sao cũng được.
Tùy mày tính thôi.
Tôi hững hờ trả lời,
trong khi ấy Khánh thông báo cho mọi người đang ở
trong chùa rơ:
- Nè, bây giờ cho anh em hay nghe
"ngày mai Niệm Phật Đường tạm thời
đóng cửa. Chờ Hội về mới mở lại,
do đó hôm nay là ngày cuối cùng. Thành thử anh em coi thu xếp,
kiếm chỗ khác ở đỡ nghe!"
- Sao vậy?
- Hết tiền ăn rồi chứ
sao ǵ nữa!
Chợt có người lắc lắc
chốt cửa cổng từ bên ngoài, chúng tôi nh́n ra thấy
thằng Nhân, em của Dung làm Ban Lương Thực dưới
trại ngày xưa. Hiện Nhân đang sống gần
đây, hổm rày nó không đi mua bán ǵ v́ bị găy tay.
Đang đứng tựa cửa cái, Sang vói lấy ch́a khoá
mở cửa cho Nhân vào và dợm bước ra đi chợ
luôn. Nhân bước vô, một tay th́ đang băng ṭn teng,
có dây treo ngang cổ, tay kia cầm cái chén ch́a về phía Ó:
- Anh Khánh có chao cho em xin miếng anh.
Mọi người bỗng cười
ồ dù đang lo lắng, nghe thế Khánh sẵn trớn sạt
thằng Nhân một phát:
- Mẹ, tao c̣n hổng có ăn
đây mà cho mày!
Thấy sắc mặt của Khánh
thằng Nhân biết không phải là nói giỡn, và nh́n thấy
cả đám đứng ngồi đầy pḥng khách nó
đoán có việc nghiêm trọng nên vội thối lui
nhưng miệng cũng làu bàu:
- Chùa mà không có chao!!!!
Hôm sau chúng tôi tắt điện, tắt
nước, đóng cửa chùa khi người cuối cùng
rời khỏi Niệm Phật Đường rồi ra bến
xe Genesis ở Pasay Rotonda về Balanga.
Trong những ngày này đường
sá th́ trơn trượt ướt át v́ mùa mưa bắt
đầu tới. Có những chiều đi bán về, hai
anh em ngồi trên xe nh́n bầu trời xám, âm u, vắt ngang
đầu núi, giăng mờ một giải như tấm
màn che mưa tôi chợt bâng khuâng, ḷng tự nhủ
"không biết đến bao giờ ḿnh mới được
phỏng vấn và chẳng biết rồi sẽ ra sao chứ
c̣n sống kiểu này hoài cũng bấp bênh quá!".
Như hôm qua chẳng hạn, ghé lại cơ quan Bảo Vệ
Môi Trường (The Environmental Consultants Company) của Limay lấy
nợ th́ mới hay ra thằng Robert đă chuyển công tác
đi nơi khác. Hỏi th́ ai cũng bảo chả biết
là nó tới chỗ nào. Thế là mất toi gần cả
ngàn pesos tiền đôi giày và cái bóp (ví) đàn ông!
Thời gian qua mau như chớp, một
tuần nữa trôi nhanh. Chúng tôi chuẩn bị trở về
chùa trước Hội một hôm. Khi ra bến xe Khánh bảo
tôi ghé chợ Limay để nó mua một mớ trái cây, hoa
quả giả, làm bằng nhựa đem về trang trí bàn
Phật v́ nó nghĩ ở chùa mà để bàn thờ trống
th́ cũng khó coi. Cùng về với chúng tôi ngày đó có cha
con anh Hiếu, người hớt tóc thiện nguyện
không lấy tiền cho đồng bào trong trại bên Liên
Minh Thánh Tâm, thằng Sang, mẹ con chị Hải và Thành ở
Hội Thánh Tin Lành. Rồi mỗi người một tay dọn
dẹp, lau chùi bụi bặm, quét tước chùa chiền.
Ngay từ sáng sớm hôm trước
khi ra phi trường đón Trịnh Hội, tôi mở tủ
lạnh lên cho nó chạy lại và kêu thằng Sang:
- Sang, hứng mấy chai nước
đi em?
- Chi, sư huynh?
- Để có nước uống chứ
chi mậy?
Sang đứng dậy đi lấy
mấy chai không và hỏi mà chẳng quay lại nh́n tôi:
- Lấy nước ở đâu
anh?
- Hứng trong "robinet" đó!
Rồi chúng tôi đi ra phi trường
Aquino. Máy bay xuống. Ít phút sau Hội ra gặp lại chúng
tôi th́ vui lắm tay bắt mặt mừng đọan cả
bọn đón taxi về "nhà!" Vừa bước vô
chùa vừa cởi áo, Hội tiến tới bên tủ lạnh
mở cửa và la lớn:
- Trời!
- Vụ ǵ? Khánh hỏi.
Hội quay lại trợn mắt:
- Sao tủ lạnh trống trơn,
hổng có ǵ hết vậy?
- Có mấy chai nước đó.
Thằng Sang nhanh nhẩu đáp, phân
bua tiếp:
- Mày đi tụi tao ở nhà không có
tiền ăn nữa th́ lấy ǵ có tiền dư mà mua
đồ bỏ tủ lạnh mậy. Được mấy
chai nước là may lắm rồi, c̣n bày đạt la la!
Và nó cười hắc hắc:
- Mày hên lắm đó, anh Ngôn mới
nhắc tao bỏ vô sáng nay không th́ giờ mày khỏi có uống
luôn chớ mà nói.
Hội vừa cầm chai nước
đưa lên tới miệng tính uống chợt dừng lại
thắc mắc:
- Ủa, nước này ở đâu
vậy?
Sang đáp tỉnh bơ:
- Th́ trong ṿi nước đàng kia chứ
đâu nữa!
- So "bệnh!"
Hội kêu lên bằng cả tiếng
Anh lẫn tiếng Việt, nhăn mặt bỏ chai nước
xuống, móc bóp ra lấy tiền đưa Sang.
- Mày làm ơn chạy ra tiệm tạp
hóa đầu ngơ mua mấy chai nước ngọt về uống
Sang ơi. Trời sao khổ dữ vậy trời!
Đoạn Hội xách vali lên pḥng.
Chúng tôi lục đục bước theo, khi đi ngang
pḥng thờ Phật ngó vào trong, Trịnh Hội nói to:
- Cha, chùa hổng có nước uống
mà cũng có trái cây bày cúng ê hề ngon quá ta!
- Đâu có, đồ cao su mới
mua hôm qua không đó chứ.
Khánh đi sau đỡ lời.
Đang bước đi, Hội bỗng dừng lại
quay nh́n chúng tôi nhíu mày, rồi lắc đầu bỏ vô
pḥng. Chắc là "hết ư kiến" với đám tỵ
nạn này. Chiều hôm đó Hội đưa tiền cho
chị Hải đi chợ mua gạo cùng các thứ cần
thiết khác cho chùa và làm một bữa "bún ḅ xào" cho
anh em ăn tối bù lại những ngày đói khát!
Tháng Bảy năm 1999 tôi qua Mỹ
định cư, Khánh ở lại chờ đến phiên
ḿnh. Thời gian này Niệm Phật Đường dời
ra Baclaran và chính thức xin phép lập hội để tiện
cho bà con vể làm giấy tờ luôn. Lúc ấy anh Nguyễn
Đ́nh Thắng không c̣n khả năng cung cấp tài chính nữa
nên quyết định đóng cửa văn pḥng luật
sư v́ anh nghĩ dẫu sao th́ cũng đă mở
được một con đường định
cư cho mọi người rồi và những ai có diện
th́ cứ theo đó mà tự túc lo liệu. Tuy nhiên Trịnh
Hội lại muốn đưa mọi người đi
hết và Hội tin rằng Hội có thể làm được
nên Trịnh Hội "take over" văn pḥng và tiếp tục
cho đến sau này.
*
Tôi về Cali tham dự ngày hội
Việt Báo hôm Chủ Nhật, 17 tháng 08 vừa rồi nhân dịp
nhận giải thưởng "Viết Về Nước
Mỹ năm 2014" nhờ vậy mà có cơ hội gặp
lại một số bà con anh em bên trại tỵ nạn
như gia đ́nh anh Thiên, vợ chồng Đỗ B́nh, Dũng
"búa," vợ chồng Khánh hồi xưa buôn bán ở
Roxas, Palawan, tại nhà của anh Cả, cựu Chủ Tịch
trại PFAC, ở Garden Grove.
Ngay từ trưa ngày Thứ Bảy
bọn tôi đă lục tục kéo tới nhà anh. Kể sao
cho xiết niềm vui gặp gỡ ấy, chỉ tính từ
ngày tôi lên đường đi Mỹ tới hôm đó thôi
cũng đă mười lăm năm hơn. Mọi
người tay bắt mặt mừng, chúng tôi lai rai tâm sự
suốt buổi chiều. Vẫn là những chuyện đấu
tranh chống thanh lọc bất công, các tháng ngày biểu
t́nh đ̣i quyền tỵ nạn cực khổ đầy
sôi động ngày xưa, nói măi không bao giờ dứt. Con
đường t́m tự do, đi Mỹ, lắm gian nan ấy
như được trải ra lại trước mắt.
Dũng "búa" nh́n tôi:
- Tới trại từ 1989 đến
Mỹ năm 2006, gần hai mươi năm lận đận,
nhưng cuối cùng cũng được tự do, anh. Bây
giờ nghĩ lại thấy hănh diện và không uổng
công chờ đợi thiệt.
Khánh tiếp:
- Cũng may nhờ có anh (Trịnh) Hội
chứ không thôi tụi em đâu đi được, anh.
Tôi gật đầu:
- Ừ, tụi ḿnh rất may. Tụi
ḿnh mang ơn nhiều người lắm và cả cộng
đồng người Việt ở hải ngoại nữa.
Nghe tôi nói thế mọi người
chợt im lặng, bồi hồi cảm khái theo đuổi
ư nghĩ riêng.
Giờ đây năm tháng đă làm
cho chúng tôi có già hơn, da có nhăn hơn, đuôi mắt
đă nhiều dấu chân chim hơn và dù sống trong sung
túc, hay nghèo hèn nhưng tôi biết chắc một điều
là ai cũng măn nguyện, tự hào với con đường
ḿnh đă chọn lựa.
Ngày xưa, chúng tôi chấp nhận
đánh đổi sinh mạng với phong ba băo tố, hải
tặc hay đói khát. Chấp nhận làm mồi cho cá, vùi
thây trên biển, chấp nhận sống lây lất thiếu
thốn ở trại, bị mắng nhiếc, bị
đánh đập xua đuổi, nhưng vẫn kiên tŕ chờ
đợi suốt bảy tám năm trời chớ nhất
quyết không trở về với chế độ cộng
sản. Rồi sau tháng năm đen tối ấy chúng tôi lại
chấp nhận lên rừng xuống núi, buôn thúng bán bưng,
cực khổ lầm than, dăi nắng dầm mưa để
mưu sinh nhưng ḷng vẫn bền bỉ mong ngày "thái
lai." Nên không ai trong chúng tôi bây giờ có thể quên các kỷ
niệm về những câu chuyện tỵ nạn khổ
đau ấy, v́ như Martin Luther King, Jr. đă nói
"Freedom is not free!"
Không có hy sinh nào cho tự do là quá
đáng. Không có hy sinh nào cho tự do là quá lớn. Tự do
không có cho không bao giờ. Tự
do là tất cả!
Mùa thu, Ohio
Miami-Township, 21 tháng 09 năm 2014
Triều Phong (TPN)
Chú thích:
* Đơn vị tiền tệ của
Phi Luật Tân.
** Một loại xe chở khách thông
dụng ở các thành phố của Phi.
(Xíu Muội Rạch
Giá sưu tầm và chuyển)