NGÔ ĐỒNG NHẤT DIỆP
(Phạm Hoàng)
Ngô đồng nhất
diệp lạc,
Thiên hạ cộng tri
thu.
Câu thơ ở
đâu, do một liên tưởng nào đó bỗng chợt
hiện ra bất ngờ. Thiên hạ cộng tri thu. Cả
thiên hạ ai cũng biết là mùa thu. Bây giờ đang là
mùa hè nhưng buổi tối mát và nhiều gió. Hơi ấm
từ băi cỏ sau vườn được tưới
kỹ như giúp thêm cái mát dịu dàng của một miền
gần. Trời đă tối từ lâu và hai người
khách đă kiếu từ. Bát đũa đă được
thu vén gọn ghẽ. Tôi được nói khẽ:
- Ông ở lại chơi với tôi
một chút hăy về.
Và tôi rút ra sau
vườn ngồi trên chiếc ghế xếp. Bữa
ăn đơn giản mộc mạc. Người nữ
chủ nhân đă kín đáo để mâm cơm thêm thịnh
soạn bằng đĩa chả chiên chắc mua ở
đâu đó trong tiệm Việt Nam. Chả không ngon, nhiều
bột nhưng canh rau cải đắng th́ tuyệt vời.
Thịt kho ăn với dưa giá muối khéo, vừa đủ
chua nhưng cọng giá vẫn c̣n ḍn, không bị ủng. Tôi
thoải mái sau bữa ăn vừa phải.
Cuộc gặp gỡ
đă bắt đầu từ trưa kéo măi tới lúc sắp
ăn cơm mới coi như xong. Hai người khách kia phải
về nhà v́ quá xa. Bốn trăm dặm đường
không thể là một quăng đường gần. Nhưng
có những quăng đường hơn thế nữa mà bạn
tôi đă vượt qua. Tôi ngồi trầm ngâm ngắm trời.
Mọi sự trong vắt thanh khiết. Màn đêm không ép nổi
vẻ trong sáng của một đêm hè mát. Nơi ấy bây
giờ ra sao ? Mùa này nóng, cái nóng cháy da cháy thịt làm sạm
người, làm súc vật cũng lờ đờ. Tôi nhớ
đoạn đường từ Mỹ Chánh ra tới Quảng
Trị mùa hè năm đó. Xác người và gió Hạ Lào trộn
thêm vào với những ngọn phi lao không lớn nổi những
đụn cát chói chang và những khuôn mặt hốc hác của
người dân đă làm tôi điên lên nhiều lần. Tôi
đá vào thành xe M113 khi người dân quê chui từ một
xó nào đó ra run rẩy gọi tôi là "Thầy"
xưng "Con", xin nước, xin cơm, xin được
thoát khỏi hỏa ngục. Tôi đă mất ngủ v́ trông
thấy những con gà lạc chủ đứng
bươi xác người khô đét. Tôi đă không nuốt
nổi cơm khi nh́n thấy con chó cúp đuôi, lưỡi
thè ra thở ph́ pḥ trong cái nóng nung người. Ôi cái mùa hè dù
đă lui vào dĩ văng mà mổi lần nhớ đến là
máu lại sôi lên v́ giận dữ.
Người bạn
từ trong nhà đi ra mang theo một cái bàn nhỏ.
- Tôi mời ông uống
trà. Có người cho một lọ Thiết Quan Âm từ ba
năm rồi. Tôi vắng nhà nên bà vợ vẫn cất ở
một xó. Thiết Quan Âm của lục địa, có hậu
lắm.
Tôi ngồi quay lại
nh́n bạn:
- Tôi biết ǵ về
trà đâu, toàn là uống như trâu. Hồi xưa ông vẫn
chê tôi là thiếu phong nhă, không biết thưởng trà.
- Nghiện th́ không nên nhưng nếu
biết uống trà th́ cũng là một cái thú đáng ca ngợi.
Có điều cái ǵ cũng đừng thái quá. Nghe bà vợ
tôi kể có mấy ông ở đây lên tận San Francisco cất
trà 120 đồng một pound. Tại sao họ có thể
phung phí như thế trong khi tụi tôi hà tiện chắt
bóp từng xu.
- Nhớ cái hồi uống trà với
ông ở sân Đại Nội. Mười năm rồi.
- Hơn chứ. Gần mười
hai năm rồi.
Tôi im lặng nh́n bạn
nhẹ nhàng vén khéo bộ đồ trà xinh xắn ra.
Cái hôm ở Đại
Nội, trăng sáng như gương. Cung điện vua
chúa triều Nguyễn hoang tàn đổ nát im ĺm ch́m trong cái
thanh vắng của đêm trung thu nguyệt bạch. Dạo
đó đơn vị hậu cần của tôi đóng ở
Mang Cá và quản trị an ninh luôn khu Đại Nội. Bạn
tôi ở binh chủng khác tiến theo phía núi bên trái quốc
lộ trong khi tụi tôi đánh dọc theo bờ biển
ngược lên phía Bắc Mỹ Chánh Trường Phước
La Vang Triệu Phong.
Trưa hôm Trung Thu
tôi ngồi ăn cơm mắm tôm chua ở quán 76 th́ bạn
tôi bước vào. Súng đạn mịt mù, và dù cùng một
cái đích là Quảng Trị, tôi biết bạn tôi c̣n
đang bị gh́m cứng ở La Vang. Tay bắt mặt mừng,
ḥ la inh ỏi trong cái quán toàn là lính ngồi ăn, súng ống
mũ sắt ba lô ngổn ngang. Bạn tôi về Huế họp
tham mưu. Trước khi đứng dậy bạn tôi có
nói có trà, bánh đậu xanh và bánh dẻo của bà vợ mới
cưới gửi ra, nếu muốn th́ đến bộ
chỉ huy uống trà. Tôi cười ngất. Giữa cái
nóng khủng khiếp của miền Trung và trong cái không khí
này mà uống trà th́ thật tréo cẳng ngỗng. Tôi đồng
ư và đề nghị lại thay v́ đến với bạn
tôi, tôi sẽ đón vào sân vua uống trà thưởng
trăng.
Đêm hôm đó hai
đứa ngồi giữa sân chầu uống Thiết Quan
Âm đun bằng ca nhôm. Nếu các vị vua nhà Nguyễn có
luyến tiếc ngai vàng lẩn quất đâu đó trong
cái hoang tàn đổ nát của Đại Nội ắt cũng
sẽ tha thứ cho hai tên lính giầy "saut" áo trận
ngất ngưởng ngồi trên thùng đại liên uống
trà ăn bánh đậu xanh Hải Dương nh́n trăng
thu.
- Ông nghĩ ǵ vậy ? Sao có vẻ
đăm chiêu ?
- Hà, nhớ lại tuần uống
trà với ông ở Đại Nội, Huế.
Hôm nay không phải
là thu. Trời cũng không có trăng và nơi đây cũng
không có tro tàn điện ngọc, Ngọ Môn, Tịnh Tâm.
Thoáng từ đâu đó từ tâm thức, tôi nghe vẳng
giọng ḥ:
"Cầu Trường Tiền sáu vài
mười hai nhịp
Thương nhau rồi hăy kíp về mau
Nữa mai đây bóng xế qua cầu
Bậu c̣n thương, bậu biết
gửi sầu về nơi mô"
Thương nhau rồi
hăy kíp về mau. Nhiều người đă về. Bạn
tôi cũng đă về và trở ra. Ngày mai bạn tôi lại
trở về sau khi hoàn tất việc làm ở đây. Tôi
ngồi thoải mái, nhắm từng ngụm nhỏ nước
trà Tàu đặc vị chát nhưng khi thấm vào để
lại dư vị ngọt mát lan dần từ cuống họng
tới khắp châu thân. Bạn tôi ngồi đó, bàn tay to lớn
quả cảm x̣e rộng đặt trên đùi. Tôi muốn
nói một điều ǵ. Tôi thực sự muốn
được góp với bạn tôi một chút, dù chỉ của
một cái ǵ to lớn, mênh mang mà bạn tôi đang suy nghĩ.
- Ngày mai, ông đi
mấy giờ?
- Ba giờ chiều.
Tại sao cái câu hỏi
đó lại bật ra. Tôi biết từ cả tuần ba
giờ chiều mai bạn tôi sẽ ra đi. Chúng tôi không
c̣n ǵ để nói với nhau nữa. Đêm vẫn giữ
êm mầu, êm tĩnh và trong sáng. Trà Tàu làm tôi tỉnh táo,
nhưng đầu óc tôi trống rỗng, đầu óc tôi
tê liệt. Tôi muốn nói cả triệu lần, muốn
thao thao bất tuyệt, hùng hổ như ở Khe Sanh hai
đứa bất ngờ cùng chờ một chuyến trực
thăng. Hay ít ra tôi có thể chửi thề văng tục
như ngày hai đứa tả tơi nh́n nhau ở Guam.
Nhưng tôi bất động. Cái bạn tôi làm lớn quá,
thiêng liêng quá. Không có ngôn từ để diễn tả. Bất
chợt tôi nói:
- Chẳng biết
nói ǵ với ông.
Bạn tôi cười:
- Cần ǵ. Ông là
đứa mồm loa mép giải, lúc nào cũng ruột
để ngoài da, vậy mà hôm nay ông không nói mới là quí. Vả
lại có ǵ cũng đă nói hết rồi. Tôi tin những
ǵ ḿnh đă thảo luận, ông sẽ làm chu đáo. Với
ông, thế là đủ. Mỗi người có cách nào đó
để góp tay vào việc này. Tôi với ông c̣n quá anh em ruột.
Vậy đừng áy náy. Làm một tuần trà nữa nghe.
Ly trà nhỏ trắng
ngần, nước trà trong mầu hổ phách, hương
trà thoảng trong đêm. Câu thơ lại trở lại. Cả
thiên hạ ai cũng biết đă vào thu. Trong cái tĩnh
mênh mang với bạn, tôi chợt hiểu câu thơ một
cách rơ ràng. Ngô đồng nhất diệp lạc. Chỉ có
một lá cây ngô đồng rụng xuống. Cả thiên hạ
đều hiểu mùa thu đă bắt đầu thay thế
cho mùa hè nóng nực. Vũ trụ tuần hoàn và khi một
chiếc lá ngô đồng rụng th́ không thể có trở
lực nào kéo dài mùa hè và không ai có thể cản mùa thu. Lịch
sử đă xoay vần. Khi bạn tôi đă về, khi các bạn
tôi đă về, bánh xe lịch sử đă quay. Tôi và tất
cả những người Việt Nam khác - hay cả thiên
hạ - biết rằng chúng tôi sẽ cùng về. Mùa thu thay
chỗ cho mùa hè. T́nh người sẽ thay cho hận thù.
Tiễn bạn
không có ba ngàn tân khách chít khăn sô bên bờ sông Dịch. Chỉ
có những tách trà đắng ngọt và sự im vắng vô
cùng của một đêm hè nơi sân sau nhà. Tiễn bạn
không cần bản đồ Hàm Dương, thủ cấp
Ô Kỳ. Chỉ có một lời thề đă được
hô lớn khắp năm châu bốn biển và lúc nào cũng
vang vọng trong tâm kể cả lúc ăn lúc ngủ. Bạn
tôi đi không có gươm báu, không v́ cảm cái t́nh của
Thái tử Đan, cũng không nấn nà chờ Cao Tiệm
Ly. Bạn tôi đi v́ bạn tôi phải đi, giống
như chiếc lá ngô đồng báo thu, đi để xoay
lại lịch sử chứ không v́ "một lưỡi
dao bay muôn thuở đẹp". Đêm vẫn vô cùng và bạn
tôi vẫn im lặng, ung dung chuyên trà ra những chiếc
chén hạt mít. Liệu Kinh Kha có được như vậy
chăng hay phải có rượu nóng dê béo, đàn ngọt
hát hay mới đi sang Tần. Kinh Kha đi nhưng biết
là ḿnh thất bại. Bạn tôi khác. Bạn tôi đi và biết
ḿnh sẽ thành công.
- Ông nghĩ ǵ vậy ?
- Một câu thơ. Tự nhiên tôi nhớ
một câu thơ. Nhưng thôi, để tôi sẽ đọc
câu thơ vào lần thưởng trăng tới ở
Đại Nội.
PHẠM HOÀNG
Tháng
8/1983.
(Viet Truong sưu tầm và chuyển)