TƯỞNG NHỚ THẦY NGUYỄN XUÂN HOÀNG
(Song Lam)
Bài được
viết trong tuần tang lễ để tưởng nhớ
nhà giáo Nguyễn Xuân Hoàng, ông thầy dạy Triết lớp
12. Với 12 bài viết trong năm, cho thấy một sức
viết mạnh mẽ, tác giả Song Lam đă nhận giải
Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Định
cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân
Cherry Hill, New Jersy, bà vui vẻ tự sơ lược tiểu
sử "22 năm dạy học trong nước, 22
năm làm culi job trên đất Mỹ".
* * *
Trang
Vietbao online sáng Thứ Bảy 13/9 thông báo về sự ra
đi của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng làm tôi bồi hồi
xúc động cả tuần nay. Vậy là thêm "một
người đi trên mây", thêm một người
"giă từ vũ khí". Nguyễn Xuân Hoàng là một tên
tuổi quen thuộc trong văn giới trong nước và
cả ở hải ngoại, đặc biệt ở
California, San Jose. Ông là nhà báo, nhà văn đồng thời
là nhà giáo ở Saigon. Viết về ông hôm nay là tâm t́nh của
người học tṛ cũ của ông gần nửa thế
kỷ, tôi thật sự có nhiều nỗi niềm riêng.
Nếu
đúng như phần tiểu sử trong bản cáo phó từ
gia đ́nh, thầy Nguyễn Xuân Hoàng tuổi Đinh Sửu.
Ba số 7 trùng lập trong ngày tháng năm sinh của thầy
làm tôi ngẩn ngơ: 7 tháng 7 năm 1937. Có một chút vui khi
người viết nghĩ ḿnh cùng tuổi Sửu với
thầy và nhỏ hơn thầy một giáp.
Chúng
tôi học môn Triết đạo đức với thầy
năm 1967, lúc thầy vừa đúng 30, tôi 18. Nhưng trong
giấy khai sinh của tôi, tôi bị sụt đi một tuổi
v́ làm khai sinh trễ. Tôi trở thành học sinh trẻ nhất
lớp, mà lại là lớp trưởng nên có ít nhiều tiếp
xúc thân cận với quư thầy để ghi điểm
danh, ghi sổ đầu bài, ghi tên học sinh trong lớp
trốn học và "nhắc nhở" bạn học về
học phí trong tháng.
Xin quư
độc giả cho phép tôi được nói về lớp
12C1 của tôi ở trường Trường Sơn
năm 1967. Đó là trường tư thục ở
đường Lê Văn Duyệt gần chợ Đũi
và rạp chớp bóng Nam Quang. Trường này do nhà văn
Nguyễn Sỹ Tế làm hiệu trưởng, chuyên về
Ban C, tức Ban Văn Chương thời đó. Sau khi thi
tiểu học, học sinh phải qua kỳ thi tuyển
vào Đệ Thất. Nếu đậu, học trường
công lập như Trưng Vương, Gia Long (trường
nữ), học Petrus Kư, Chu Văn An (trường nam). Nếu
không đậu th́ phải học trường tư. Trong
7 anh chị em trong gia đ́nh, chỉ có tôi học trường
tư v́ không đủ tuổi và học Ban C. Các anh chị,
các em tôi học Ban A, Ban B tức là Ban Hóa Sinh và Toán Lư. Tôi là
đứa con gái "đặc biệt" như vậy
của gia đ́nh nhưng lại ra trường, đi làm
sớm nhất.
Những
trường tư thục lúc đó cũng có sự cạnh
tranh, giành học tṛ. Trước khi khai giảng, trước
cổng trường hoặc những ngă tư, chúng ta thấy
những tấm băng-rôn to tướng quảng cáo tên
trường, ngày khai giảng và danh sách giáo sư. Các cô
giáo, nữ giáo sư thời đó ít khi dạy trường
tư v́ sợ học tṛ không có kỷ luật, nề nếp
như trường công. Học tṛ tư thục có quyền
chọn trường, chọn thầy để học.
Tôi không rành về giáo sư ngành toán lư nhưng tên tuổi của
thầy Nguyễn Đ́nh Chung Song rất thu hút học tṛ
Ban B, cũng như tên tuổi của các nhà văn đồng
thời là nhà giáo rất được học sinh Ban C
chúng tôi tín nhiệm, Thầy Nguyễn Xuân Hoàng là một ví dụ.
Tôi là
đứa học tṛ may mắn nhất. Trong suốt 7
năm trung học, tôi được học với nhiều
giáo sư là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng: thầy
Bùi Nhật Tiến dạy Lư, thầy Nguyên Sa Trần Bích
Lan, thầy Lê Linh Thảo, thầy Nguyễn Sỹ Tế
.. và năm Đệ Nhất C sau cùng học Triết với
giáo sư nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng.
Cách
đây đúng 47 năm, cũng vào mùa tựu trường
1967, thầy Nguyễn Sỹ Tế giới thiệu với
chúng tôi thầy dạy Triết đạo đức Nguyễn
Xuân Hoàng cho lớp. Thầy Tế dạy Tâm lư c̣n một thầy
khác dạy Siêu h́nh. So với các giáo sư dạy trong lớp
chúng tôi, thầy Nguyễn Xuân Hoàng trẻ nhất, "sáng
sân khấu" nhất!
Sau 2
giờ học con nhỏ Thu Nguyệt nổi tiếng lanh
chanh nhất lớp, kê tai tôi nói nhỏ: "Ông thầy này
đẹp trai quá mày ơi!". Và chính cái chuyện đẹp
trai này mà lớp tôi có một chuyện t́nh "lâm ly, bi
đát"!
Lớp
của tôi không quá 40, đa số là con gái, con trai chỉ
hơn 10 trự. Thời đó, con trai học Ban C bị
chê là "yếu" là chicken die, nên đám này bị đa
số con gái lấn át. Mọi việc lớn nhỏ trong lớp
đều do đám con gái quyết định, mấy anh
nam - tử - hán chỉ có mỗi việc là nghe theo!
Trong số
hơn 10 anh con trai, có một anh nổi bật tên LĐT,
con trai của tiệm nước mía VĐ góc Pasteur - Lê Lợi.
Quư bạn đọc nào ở Saigon thời đó đều
biết tới tiệm nước mía này: nước mía
nguyên chất xay tại chỗ, thêm múi cam hoặc vài trái tắc
ngọt lịm, thơm quá chừng. Nếu quư vị vừa
ghé xe đạp hoặc xe Mobylette trước cửa
VĐ để "xiên" vài miếng phá lấu ḷng heo của
ông Tàu, sau đó uống ly nước mía giữa trời chiều
nóng bức của Saigon th́ không c̣n ǵ nói nữa. Trời
ơi, nó ngon tuyệt trần. Bây giờ ở Little Saigon
Cali có nước mía Viễn Tây cũng khá ngon, nhưng khó
so với VĐ ngày cũ ..
Sở
dĩ người viết phải cà kê dê ngỗng như vầy
để giới thiệu với quư bạn người
đẹp hoa hậu của lớp tên T.A, học sinh
trường Tây mới chuyển qua chương tŕnh Việt.
Anh "chủ con" VĐ này ngắm nghía T.A, trong khi
người đẹp T.A bị ông thầy Triết Nguyễn
Xuân Hoàng hớp hồn ngẩn ngơ. Dĩ nhiên là thầy
Hoàng không hề biết ǵ, có khi đến bây giờ thầy
cũng không hề hay biết!
Con gái
học Đệ Nhất, tức là đă có mảnh bằng
Tú tài I rồi, thời đó oai lắm, đâu thèm ngó tới
bạn cùng học chung một lớp! Nếu có ngó là ngó mấy
"ông thầy" ḱa, hoặc mấy ông bác sĩ, kỹ
sư mới ra trường, hoặc mấy sĩ quan vơ bị,
sĩ quan không quân, hải quân .. T.A học trường Tây
lại con nhà giàu, ba nó là thầu khoán nổi tiếng ở
Saigon, có căn nhà lầu mặt tiền đường Hồng
Thập Tự. Nó có đủ điều kiện để
kén chồng học thức, địa vị, giàu có; thế
mà con nhỏ lại mê thích giáo sư nhà văn Nguyễn Xuân
Hoàng.
Ngoài
những giờ khắc đi học, tôi c̣n phải phụ
giúp gia đ́nh nuôi một bầy em nên không có giờ chơi
với mấy bạn nhà giàu cỡ T.A. Theo lời của
chị Thu Thủy người bạn lớn tuổi
hơn chúng tôi trong lớp th́ T.A muốn "cua" thầy
Hoàng.
- Em
để ư th́ biết liền hà. Nè, mỗi ngày nó bận
váy đầm đi học, tóc thắt bím. C̣n ngày nào có giờ
thầy Đạo đức, nó mặc áo dài, xơa tóc ngang
vai, cài bandeau màu tím, màu hồng .. giờ Pháp văn của
ông Hoàng Cung nó nói liên hồi, giờ Lư, giờ Toán nó quậy
lung tung, c̣n giờ thầy Hoàng nó ngồi im thin thít, ngoan
ngoăn như con mèo ướt.
- Vậy
là sao, chị?
- Sao
trăng ǵ nữa. Nó khoái ông thầy Hoàng chứ c̣n ǵ nữa.
Đây nè, tụi nó lục trong hộc tủ của nó bài
thơ này mới là "dữ dội".
Vừa
nói, chị Thủy vừa đưa tôi coi:
Hăi hùng tôi thắp
cây bạch lạp
Bằng ánh
đèn của thế kỷ non xanh
Rồi bỗng
dưng tôi t́m ra sự thật
Có bao giờ
tôi sáng ở trong anh?
Hoặc:
Anh đến
làm sao em biết được
Cho trời rộng
mở một ṿng tay?
Chị
Thủy nói tiếp:
- Em thấy
dữ dội chưa? Em là lớp trưởng mà không biết
ǵ hết.
- Lớp
trưởng đâu phải lo tới chuyện này?
-
Đồng ư là vậy! Nhưng em phải khuyên nó. Năm
nay là năm thi, môn Triết hệ số 3, kẹt lắm!
Dừng
lại một lát, chị Thủy lại nói:
- Cả
lớp đều biết, chỉ có ḿnh em. Em biết hai
câu thơ bí hiểm của Thanh Tâm Tuyền: "Tôi gọi
tên em cho đỡ nhớ Thanh Tâm Tuyền" chứ ǵ? Tụi
nó chế thành: "Em gọi tên thầy cho đỡ nhớ
Nguyễn Xuân Hoàng" rồi bỏ vào sách của T.A để
chọc nó, mà nó tỉnh bơ .. Tao nói mà, con đó "lậm"
thầy Hoàng rồi mà ..
Phía
trên tôi đă thưa với quư vị, thầy Hoàng trẻ
nhất trong số các giáo sư dạy Đệ Nhất C
của Trường Sơn, của Nguyễn Thượng
Hiền, của Văn Học .. lại có dáng dấp thanh
tú, nghệ sĩ. Trong khi giáo sư Hoàng Cung chễm chệ
với nào là cặp táp bự sự, veston cà-vạt, thêm cây
gậy bệ vệ; thầy Nguyễn Sỹ Tế khắc
khổ; thầy Nguyên Sa Trần Bích Lan "quá khổ"
th́ thầy Hoàng gọn bân. Đi dạy thầy hay mặc
sơ-mi dài tay trắng, màu xanh nhạt, vàng nhạt, quần
ka-ki sậm màu, thầy không cài măng-sết, chỉ
xăn tay áo tới khủy tay, và trên tay đôi khi chỉ có
tờ báo hay tạp chí ǵ đó, và bước ra khỏi lớp
hay mang kiếng râm. Vào lớp thầy không gọi học
sinh bằng em A, em B .. ǵ hết
mà gọi là anh, chị .. trong khi thầy hiệu trưởng
hay cười đùa gọi là các cô, các cậu .. và hay
đem bài làm của chúng tôi ra chế diễu. Thầy Hoàng
Cung ngọt ngào, lúc nào cũng "Bonjour, mes enfants"
nhưng đến lúc học tṛ ra chơi vào trễ là mắng
như tát nước vào mặt:
- Cái lớp
của tao đa, không phải là cái chợ đa, mà thằng
nào, con nào muốn ra là ra, muốn vô là vô .. đa!
Năm
cuối trung học với môn Pháp văn hệ số 3, môn
Triết hệ số 3 .. cho
nên chúng tôi sợ mấy ông thầy này như sợ giặc.
Con trai lớp tôi hễ rớt Tú tài II là bị kêu lính liền,
c̣n con gái, rớt là .. ế chồng, không thể vào đại
học.
Thầy
Nguyễn Xuân Hoàng ít hay cười đùa, ông hơi nghiêm
nghị, khi giảng bài không bao giờ ngó đám học tṛ
nữ mà chỉ ngó ra .. cửa sổ, cửa lớp
như đang chờ đợi ai, trong khi giáo sư dạy
Lư thầy Nhật Tiến với đôi kính cận dày cộm
th́ hay ngó lên .. trần nhà như đang kiếm thằn lằn.
Thầy nói giọng Nha Trang Đà Lạt, nên mấy thằng
con trai hay ghẹo T.A: "Chiều
nay có phải anh ra miền Trung? Về thăm quê mẹ cho
em về cùng". Mấy ông thầy trẻ "dị ứng"
với đám nữ sinh cũng phải v́ nếu có chút ǵ
"lăng mạn" với nữ sinh là báo chí đăng
rùm beng, sẽ bể "show". Nói như vậy không có
nghĩa là không có mối t́nh thầy tṛ, sau đó thành vợ
thành chồng, có điều chỉ xảy ra ngoài cổng
trường, đằng sau "hậu trường sân khấu".
Nữ
sinh hay nữ sinh viên thời đó lăng mạn số một,
nhưng đó là "sóng ngầm" chớ không lộ liễu
như bây giờ. Thứ nhất, do họ tiếp cận
với văn hóa Pháp, văn hóa Mỹ và sau đó là tiểu
thuyết "mở cửa" của Chu Tử với
tác phẩm một chữ của ông "Sống",
"Yêu", "Loạn" ..
Con gái thời mới lớn có cái "mốt" là
yêu người lớn tuổi hơn ḿnh như yêu thầy
giáo, yêu bạn của bố, của anh trai. Cho nên thời
đó, người đời hay nói "Đừng gọi
anh bằng chú" hay "Đừng gọi chú bằng
anh". C̣n bạn cùng lớp hay cùng tuổi, bọn con gái
chúng tôi hồi thời đó hay chê là "con nít".
Lâu quá
rồi, tôi không nhớ rơ bao nhiêu giờ Triết học
trong một tuần, chỉ nhớ gặp thầy Hoàng mỗi
tuần chỉ với 2 giờ Đạo đức. Thầy
ít biểu lộ t́nh cảm với học sinh, chỉ
đến lớp rồi về nên "lư lịch sưu
tra" của thầy chúng tôi không nắm rơ. Học tṛ là
chúa ṭ ṃ về đời tư của thầy cô giáo nên thầy
cô giáo hồi đó không ai dám một ḿnh ngồi chong ngóc
trong chợ Saigon, chợ Vườn Chuối, chợ Đũi
.. ăn bún riêu, bún ốc! Một
đứa phát hiện là nó "đồn thổi" khắp
Saigon. Có lẽ trong thời gian này, thầy Nguyễn Xuân
Hoàng cộng tác với tạp chí Văn của Trần
Phong Giao bên cạnh những cây bút lừng lẫy:
Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đ́nh Toàn, Du Tử
Lê, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Trần Dạ Từ, Nhă Ca
.. và ông là Tổng thư kư tạp chí Văn sau đó!
Đă
hơn 47 năm qua, tôi không có cơ may gặp lại thầy
Hoàng, dù vẫn đọc văn chương ông thường
xuyên trên báo hoặc những cuốn sách ông đă xuất bản.
Tôi đă nhiều lần nhắc đến "Ai cũng
cần có một người mẹ" của ông với
lối văn nhẹ nhàng, kín đáo, mang phong cách miền
Trung sang cả, quyền quư. Tôi ở khá xa nơi có cộng
đồng người Việt đông đảo như
Cali, Texas nên t́m đọc sách báo cũng hơi khó khăn.
Chỉ 5, 7 năm trở lại đây, trên net tôi gặp gỡ
nhiều hơn những thông tin về văn hóa nghệ thuật,
về những người thầy cũ như thầy
Hoàng, thầy Nhật Tiến ..
Nh́n tấm
ảnh thầy Hoàng chụp chung với các học sinh Ngô
Quyền của thầy ở San Jose, tôi thoáng giật ḿnh:
th́ ra thời gian không dành ngoại lệ cho bất cứ một
ai. Thầy Nguyễn Xuân Hoàng tóc bạc trắng, đă thật
sự già rồi với cây gậy trước mặt. Trời
ơi, học tṛ của thầy ngày xưa là tôi bây giờ
cũng đă đi gần tới con số 70. Thầy
ơi, thầy tṛ ta đă cùng già hết rồi, th́ đâu
c̣n bận ḷng ǵ với cái nghiệp tử sinh?
Thưa
thầy,
Chắc
thầy không thể nào nhớ được cô học tṛ
trưởng lớp 12C1 của trường Trường
Sơn năm 1967, cũng như thầy không thể nào biết
được cô học tṛ T.A đă đem ḷng yêu thầm
thầy dạy Triết của cô là giáo sư Hoàng một
thời "Xuân Hoàng" của tuổi 30? Mọi sự
đă trở thành quá khứ. Thầy không c̣n nữa,
nhưng tên tuổi Nguyễn Xuân Hoàng sẽ c̣n trong những
trang sách cho thế hệ mai sau.
Tôi
thường hay nói đùa với mọi người là những
người tuổi Sửu đa đoan lắm, cơ cực
lắm, nhưng lại là những người vượt
lên số phận, cười đùa với số phận
và ít nhiều có được thiên tài. Thầy Hoàng có khi
nào nghĩ như vậy không?
Bây giờ
thầy đă đi xa, xa cuộc đời vô thường
này. Mong thầy được bằng an, hạnh phúc chốn
Vĩnh Hằng. Trong chừng mực nào đó, thưa thầy,
triết học là nhân học, ước vọng của thầy
gởi lại thế nhân, thầy nói thầy ra đi với
tư cách một nhà văn, v́ suốt cuộc đời thầy
luôn luôn theo đuổi, ǵn giữ như pháp danh TÂM NGUYÊN của
thầy. Hơn thế nữa, vai tṛ người thầy
giáo của thầy cũng không thể lu mờ hơn, bằng
cớ là trong lúc này những học tṛ của thầy ở
Ngô Quyền Biên Ḥa ngày xưa, đang ở bên cạnh linh cữu
của thầy ở San Jose để nói với thầy lời
giă biệt.
Và, sau
cùng bên trang viết này, người học tṛ cũ của
thầy ở Saigon năm 1967 đang tưởng nhớ
đến thầy như "ánh sao vụt tắt trên nền
thẫm". Kính mong thầy được chút ḷng yên ấm!!
Xin
thay mặt đám học tṛ cũ của thầy ở
Saigon năm xưa, gởi đến thầy bài thơ nhỏ
đang trào dâng trên giấy:
"Trang vở
khép nhưng cuộc đời vẫn mở
Trường
lớp xưa thành kỷ niệm mất rồi
Lời thầy
giảng trong những giờ Đạo đức
Vẫn
như c̣n sống măi ở trong tôi."
Viết trong tuần
tang lễ thầy Hoàng.
SONG LAM
(T.T.K.D sưu tầm
và chuyển)