Năm Sửu cà
kê dê ngỗng về trâu !
(Nguyễn Thanh Ty)
Tết Kỷ Sửu
năm nay, ngày Mồng Một Tết lại nhằm
ngày thứ Hai, 26 tháng 01 năm 2009, vì
là trâu ở xứ người nên phải
đi cầy như thường chứ đâu có
được như trâu ở xứ mình nằm
nhà thảnh thơi nhơi cỏ ba ngày Tết
như cái “thuở thanh bình” ba
mươi lăm năm trước còn ở quê
nhà, một quê hương miền Nam muôn
ngàn yêu dấụ
Hóa ra cái kiếp trâu đi
đâu, ở đâu cứ vẫn phải khổ. Có đấu tranh cách mấy
cũng vẫn bị đánh trâu! Buồn thật!
Sầu đời thật!
Dục phá thành sầu chi dụng tửu!
Thôi thì để phá nỗi
buồn của ba ngày Tết tha phương,
chúng ta hãy cùng nhau “ngày Xuân
nâng chén” rồi đem cái năm Kỷ Sửu
này ra tán chuyện trâu cho đỡ buồn. Biết đâu cũng có
đôi điều thú vị!
Trước tiên là cái tuổi
Sửu “di động”. Ngày mới qua Mỹ, bỗng
dưng ai cũng tự mình đổi qua tuổi Sửu
hết trơn, dù cho mình trước đó
là tuổi Tý hay tuổi Dần, Ngọ, Mùi …
Đi làm hùng hục một ngày 2 job, 16 tiếng
đồng hồ liên tục, về đến
nhà là lăn ra ngủ như chết không biết
trời đất là gì. Thức dậy, ăn vội ba hột cơm, hay gói
mì rồi lại hối hả đi làm. Chẳng
khác gì con trâu đi cày. Được
ngày nghỉ, hỏi muốn gì? - Muốn ngủ!
Câu trả lời ngắn gọn, dứt
khoát. Quả thật, cái xã hội thực
dụng làm cho con người buộc phải quay cuồng
theo nó để mà thích
nghi và sinh tồn. Nếu không thì cái lũ
giặc “bill” hè nhau đánh tới tấp,
tối tăm mặt mũi, từ chết đến bị
thương, không trốn tránh đi đâu
được. Vậy chẳng phải
“ô tô ma tích” đổi thành tuổi
Sửu là gì?
Thế rồi chừng năm, bảy năm sau, thi
đậu vào quốc tịch, trở thành
công dân Mỹ, đã tậu được
nhà, tậu được xe mới, trong
“băng” có tí tiền “xe vin”
thì lại đổi tuổi một lần nữa
thành tuổi Dậu, làm con gà trống
có cái đuôi cong vòng ngũ sắc,
gáy vang trời.
Lúc này hăm hăm hở hở
xênh xang áo gấm chuẩn bị về làng.
Cầu trời cho mấy con gà trống này
đừng có dại mà nghe lời con cáo
trong truyện ngụ ngôn của ông Tây Cà
lồ Lã phụng Tiên, nhắm mắt lại
mà gáy.
Con cáo của ông Lã phụng Tiện
đem miếng phó mát ra dụ xem ra ít nguy hiểm.
Còn con cáo của ông Hồ
thì đem chùm khế ngọt với “em
bé chân dài” ra dụ thì đáng
sợ hơn nhiều. Nó rất “ép
phê” đối với mấy con gà trống mới
mọc lông đuôi, gọi là giầu nẫy,
xưa nay chưa hưởng mùi đời, nên
khi nghe con cáo Hồ ca bài ca con cá ngọt
như đường phèn thì hai mắt cứ nhắm
tít lại mà gáy. Lúc con cáo Hồ
nhảy lên nhe hai hàm răng chơm chởm, nhọn
hoắc ngoặm vào cổ, lúc đó mới
mở mắt ra thì ô hô! ai
tai! việc đã rồi.
Đó là chuyện giả tỉ
thôi. Thực
ra người Việt tị nạn cộng sản
đã bỏ của chạy lấy người,
mười phần cầm chắc chết hết
chín thì không ai dại mậu gì mà
nghe lời dụ dỗ của bầy cáo đã
thành hồ ly tinh mà bị mắc bẫy một
lần nữa.
Có chăng là chỉ mấy anh chị
“Vịt kìu” yêu nước ham danh, ham lợi,
kéo nhau về nhận bằng khen, nhận khăn
quàng đỏ để rồi bị ngoạm cổ
không kêu lên được một tiếng.
Cũng là đáng đời và
đáng với cái giá phải trả cho sự
tham lam và ngờ nghệch.
Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau
cà kê dê ngỗng về chuyện trâu để
uống rượu thưởng Xuân chơi, cho
nó dzui dzẻ cái cuộc đời!
Địa danh Trâu
Từ cái thời Đông Chu, ông Khổng
Khâu người nước Lỗ, tức Đức
Vạn thế sư biểu Khổng tử còn dẫn
học trò đi lang thang khắp nơi để truyền
bá tư tưởng thì đã đi qua nhiều
nước trong đó có nước Trâu,
nước Quắc, nước Đồ …
Ngày nay tra cứu không còn
biết các nước đó nằm ở
đâu trên cái xứ Trung Hoa rộng mênh
mông.
Trong binh thư của Tôn Vũ tử có ghi
chép mưu kế “Dĩ Đồ diệt Quắc”
nghĩa là giả vờ mượn đường của
nước Đồ để diệt nước Quắc.
Khi quân binh lọt được vào
nước Đồ rồi thì trở mặt cướp
luôn nước Đồ. Tích này nhắc lại
hai địa danh Quắc và Đồ, không thấy
sách nào nhắc đến nước Trâu cả.
Đất nước Trung Hoa rộng vậy
mà bọn vua chúa Tàu vẫn cứ còn
tham, luôn có ý đồ xâm chiếm nước
khác. Chúng
đã chiếm một phần đất, mười
mấy ngàn thước vuông sát biên giới
và mấy quần đảo ngoài khơi của
Việt Nam rồi, mà cái bọn cầm quyền
Việt Nam hiện tại cứ ngậm miệng êm ru
bà rù, lại còn cấm cản và bắt
bớ tất cả những ai lên tiếng hay biểu
tình chống đối sự xâm chiếm ấy.
Người dân trong nước có
ý ngờ rằng hình như bọn cầm quyền
đã có ý đồng lõa bán,
nhượng lãnh thổ cho giặc.
Ở Việt Nam, Hồ Tây, một thắng cảnh
của Hà Nội, trước khi mang tên Dâm
Đàm (hồ mù sương) ở thời
Lý, Đoái hồ, Tây hồ dưới thời
Lê, đã từng mang tên là hồ
Trâu, hồ Trâu vàng. Một câu thơ cổ
còn nhắc nhở:
Ngưu hồ dĩ biến tam triều
cục
Long đỗ nhưng lưu bách chiến
thành
(Hồ Trâu đã trải ba triều
đại
Thành (bách) chiến còn
lưu đất Rốn Rồng)
Họ Trâu
Cái họ Trâu này người
Việt chắc không ai có. Ngày xưa ở
bên Tàu, cũng thời Đông Chu,
chỉ có một người duy nhất. Đó là Trâu Kỵ. Ngoài ra
xưa nay chưa nghe nói tới người thứ hai.
Con cháu ông này cũng không thấy
sách vở Tàu nói tới. Chuyện
ông Trâu Kỵ này cũng lý thú lắm.
Xin chép lại đây để
làm mồi uống thêm đôi ba ly nữa cũng
đậm đà. Truyện như sau:
“Tề Uy vương từ khi
lên làm vua, say đắm tửu sắc, lại ham
mê âm nhạc, không nghĩ gì đến quốc
chánh. Trong
khoảng 9 năm, các nước Hàn, Ngụy, Lỗ,
Triệu đều đem quân đến đánh.
Quân Tề thua luôn. Một
hôm có người thư sinh,
xin vào yết kiến tự xưng họ là
Trâu tên Kỵ, có biết gẩy đàn cầm,
nghe nói vua Tề thích âm nhạc nên
tìm đến. Tề Uy vương cho mời
đến và đưa cho cây đàn cầm.
Trâu Kỵ lên dây đàn
mà không gẩy.
Uy vương hỏi:
- Tiên sinh đã là người khéo
gẩy đàn cầm thì nên cho ta nghe một
bài. Nay tiên sinh lên dây mà không gẩy
dễ thường cây đàn không được
tốt hay là chê ta không biết nghe
đàn chăng?
Trâu Kỵ đặt cây đàn xuống
rồi nghiêm nét mặt, đáp rằng:
- Tôi biết là biết cầm lý,
còn như tiếng chỉ, đường tơ
là của bọn nhạc công, tôi dẫu biết
cũng không đáng gẩy hầu đại
vương làm gì.
Uy vương nói:
- Cầm lý thế nào ?
Xin tiên sinh cho nghe!
Trâu Kỵ nói:
- Cầm tức là cấm, tức là cấm
chỉ những sự dâm tà thì mới giữ
được chính đạo. Vua Phục
Hi đời xưa chế ra đàn cầm có
năm dây. Dây lớn là vua, dây nhỏ
là bề tôi. Đến đời
Văn vương, Vũ vương mỗi ngài lại
thêm một dây nữa, để hợp cái
tình ý vua tôi. Xem thế đủ biết
rằng vua tôi có tương
đắc nhau thì chính lệnh mới hòa hợp,
cái đạo trị nước chẳng qua như thế
mà thôi.
Uy vương nói:
- Tiên sinh nói phải lắm! Nhưng
tiên sinh đã biết cầm lý thì tất
biết cầm âm, xin tiên sinh hãy gẩy
chơi một khúc
Trâu Kỵ nói:
- Tôi học nghề đàn thì phải
biết cái phép chơi đàn. Đại
vương lo việc nước, há lại không
biết cái đạo trị nước hay sao ? Nay đại vương bỏ nước
mà không trị có khác gì tôi
ôm đàn mà không gẩy hay không? Tôi ôm đàn mà không gẩy
thì đại vương không được thỏa
lòng, thế thì đại vương bỏ
nước mà không trị, chắc là
muôn dân không được thỏa lòng vậy.
Uy vương ngạc nhiên nói rằng:
- Thế là tiên sinh mượn cây
đàn cầm để can ta đó. Ta hiểu rồi.
Uy vương mời Trâu Kỵ
lưu lại ở hữu thất. Ngày hôm sau, Tề
Uy vương tắm gội sạch sẽ rồi triệu
Trâu Kỵ vào bàn việc nước. Trâu Kỵ khuyên Tề Uy Vương tiết
bớt những sự tửu sắc, tin dùng người
trung lương, trừ bỏ đứa gian nịnh, sai
luyện tập binh mã. Tề Uy
vương bằng lòng lắm. Tức
khắc cho Trâu Kỵ làm tướng quốc (Thủ
tướng). Nhờ có tài của
Trâu Kỵ mà nước Tề trở nên
bá chủ. Các nước Sở,
Ngụy, Hàn, Triệu, Yên đều chịu
kém và hàng phục không còn dám
đem quân xâm chiếm bờ cõi nữa.
Con trâu với nhà nông.
Việt Nam là nước
nông nghiệp.
Chín chục phần trăm người dân sống
nhờ ruộng đồng. Con trâu là bạn
thân thiết của nông dân. Thuở nhỏ học
tiểu học, ai ai mà chẳng thuộc lòng
bài học thuộc lòng: Trâu ơi
!
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu
cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông
gia
Ta đây, trâu đấy ai
mà quản công
Bao giờ ngọn lúa còn
bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài
đồng trâu ăn
Hoặc là:
Trên đồng cạn dưới
đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy con
trâu đi bừa
Hay gần gũi, thân
thương như trai với gái như một câu
thành ngữ của người Thái:
Nhinh chăm trai,
quai chăm cả
(Gái gần
trai, trâu gần mạ)
Trâu đen
ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà.
Thuở xưa cái cảnh
êm đềm giữa người và trâu
giúp đỡ nhau trong công việc đồng
áng là vậỵ Nhưng kể từ ngày
“Bác Hồ” cõng rắn Cộng sản
vào cắn gà nhà với chính sách
“Cải cách ruộng đất” rồi tiến
tới Hợp tác xã thì nhân dân miền
Bắc đói khổ triền miên. Cái cảnh
cha chung không ai khóc, gọi là “làm chủ
tập thể”, người dân trắng tay, ruộng
tư hữu của mình bỗng dưng bị
trưng thu làm của chung nên chẳng ai tha thiết
gì công việc một nắng hai sương
trên đồng ruộng. Do đó, hồi xưa
ruộng tư hữu, trồng lau ra lúa, bây giờ
Hợp tác xã, trồng lúa lại ra lau,
là do chẳng ai buồn làm cỏ lúa.
Vừa mất mùa do
thiên tai, vừa mất mùa trên sân phơi.
Người dân đói quá bèn làm ca
dao để lâu lâu nhai lưỡi nuốt nước
miếng cho đỡ đói:
Hợp tác rồi
lại hợp te,
Không còn miếng
vải để che “Bác Hồ”
Khi cưỡng chiếm
được miền Nam, việc đầu tiên của
kẻ thắng trận là cướp lấy hết
máy cầy của dân chúng đồng bằng
sông Cửu Long chở về Bắc, tuyên truyền
rằng “dùng chiến lợi phẩm của địch
để công nghiệp hóa nông thôn
ta”. Rồi đặt tên cho máy cầy miền
Nam là “Trâu đỏ” có lẽ
vì màu sơn đỏ hay cái gì vào
tay cộng sản phải đỏ như máu mới
gọi là cách mạng chăng?
Khổ nỗi, máy cầy
thì chất đống ở ngoài trời thi gan
cùng mưa nắng ngày này qua tháng nọ,
không ai biết xử dụng con trâu đỏ
cày bừa ra làm sao. Phải năn nỉ mấy
ông nông dân “ngụy” dạy cho biết
cách điều khiển. Học xong rồi, cán bộ
ta về Bắc lái máy cầy cứ vênh mặt
lên trời, trổ mòi “cách mạng
chuyên chính”. Hợp tác xã nào chịu
đút lót thì mới chịu đến cầy,
nơi nào không của đút thì đồng
ruộng ta cứ nằm đó … chờ cho đến
hết thời vụ.
Nông thôn miền
Bắc lại xảy ra cảnh: "Trâu đen
ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà". Khi nào trâu
đỏ được ăn gà thì máy mới
chạy được. Dầu cặn, dầu nhớt
trâu đỏ ăn thiếu dinh dưỡng máy
không chịu chạy.
Chỉ mấy năm sau,
máy móc hỏng hóc, không ai biết sửa,
không có phụ tùng thay thế, trâu đỏ
biến thành đống sắt vụn bán đồng
nát. Cốt khỉ vẫn hoàn cốt khỉ. Hợp
tác xã thành tan tác xã. Nhà nước
ta xấu hổ nhưng không dám công nhận
đành len lén nhắm mắt cho “khoán
chui”, tức là cho nông dân làm ruộng
lại y như cũ. Rõ là “mèo lại
hoàn mèo”.
Huyền
thoại Trâu vàng và nguồn gốc dùng
trâu cầy ruộng.
Hồ Trâu và
dòng sông Kim Ngưu, một nhánh sông
Tô chảy bao quanh phía Nam Hà Nội, từ
Tây sang Đông, còn gợi lại một huyền
tích của thời kỳ thần thoại Việt
Nam:
Ở vùng đầm
lầy chân núi Tiên Du (Bắc Ninh) có con
trâu vàng náu mình. Một pháp sư
dùng tích trượng yểm lên trán
trâu. Trâu lồng chạy xuống phía nam, quần
nát cả một vùng Khoái Châu lầy lội,
vùng ấy sau gọi là Vũng trâu đầm. Chưa hết
cơn giận giữ, trâu lại bơi qua sông
Cái rồi chạy ngược lên phía bắc,
đường do vết chân trâu dẫm lún
thành sông Kim Ngưu. Rồi trâu chạy vòng vo
làm sụt cả một vùng thành đầm
hồ và ẩn kín dưới nơi ấy.
Đó là hồ Trâu Vàng. Những chỗ
trâu quậy nát mọc lên một loài
lúa dại. Người dân hái lúa dại
để làm thực phẩm rồi dần tiến tới
việc trồng lúa. Ban đầu, người
dân chưa biết cách cầy bừa. Mãi
đến khi thái thú Sĩ Nhiếp đem kỹ
thuật làm cày, bừa và cách dùng
trâu để vỡ đất, cày ruông dạy
cho dân, lúc đó việc canh tác mới
phát triễn rộng rãi.
Lúc đầu
người dân sử dụng trâu vào việc
dẫm nát cỏ, sục bùn trong ruộng để
sửa soạn đất đai trồng lúa. Lề lối
canh tác này sách cổ gọi là “thủy
nậu”. Lối làm ruộng này kéo
dài cho đến trước và sau cái gọi
là Cách mạng mùa Thu vẫn còn phổ
biến trong các thung lũng Thái, Mường miền
Tây Bắc.
Chuyện
ngụ ngôn: Cái khôn mày để ở
đâu ?
Câu chuyện
này, người viết học từ cái thời
còn để chõm, lớp ba trường
làng, cách đây hơn 60 năm nên
quên gần hết nguyên bản, chỉ nhớ lõm
bõm đại ý câu chuyện, vậy xin
được kể theo cách viết hình sự
của báo Công An Nhân Dân trong nước,
như sau:
Cái thuở đất
trời còn nguyên thủy cộng sản, người
và vật sống chung hài hòa với nhau trong
thế giới đại đồng, làm tùy sức,
ăn tiêu tùy cầu, chẳng ai có máu lạnh
hay khát máu. Duy chỉ trong cánh rừng kia
có con cọp ỷ mình mạnh bạo, thường
hay hiếp đáp kẻ yếu, làm điều xằng
bậy, nên tự xưng là Hổ Mạnh Đại
Vương, thỉnh thoảng mò ra làng trộm
chó, bắt trâu ăn thịt, dân làng
đã kịch liệt phản đối nhiều lần.
Đại Vương Hổ Mạnh lần nào cũng
đem luật rừng xanh có 4 điều ghi chép
ra thề thốt, hứa hưu, hứa nai, xin khắc phục,
nghiêm khắc kiểm điểm và rút kinh
nghiệm. Nhưng chứng nào vẫn tật ấy.
Cạnh bìa rừng
có một lực điền trai trẻ tên
là Tấn Lực sống cùng với con trâu
khoẻ mạnh, dễ bảo. Anh Lực đặt
tên nó là Doãn. Mỗi lần đánh
trâu ra ruộng, anh chỉ vỗ nhẹ lên đầu
nó và nói: “Doãn ơi! Ta bảo
Doãn này!” là trâu
vâng lời anh Lực một cách ngoan ngoãn
nên anh Lực chẳng cần dùng đến roi
mây bao giờ. Trâu Doãn có đặc
tính là luôn luôn đi lề bên phải.
Có lúc anh Lực lơ đãng ngó
lên trời xanh, lắng tai nghe chim họa mi hót
trên đầu, quên bẵng việc lái lưỡi
cày mà trâu Doãn cũng cứ theo quán
tính “lề bên phải” mà đi
đúng luật, nên đường cầy cứ
thẳng băng y như ông sĩ phu họ Hà nhắm
mắt “dắt tay nhau đi dưới tấm bảng
chỉ đường …” vậy.
Một hôm, anh Lực
cùng trâu Doãn đang mải mê cầy ruộng
nên không để ý đến Đại
vương Hổ Mạnh đã ngồi rình
trên bờ ruộng từ lâu. Khi cầy ngang qua chỗ
Đại vương Hổ Mạnh ngồi, trâu
Doãn nhe răng ra cười cầu tài với Hổ
Mạnh. Hổ Mạnh cất tiếng hỏi:
- Này đồng
chí Doãn! Đồng chí to xác khoẻ mạnh
như thế kia cớ sao lại cứ sợ thằng
người nhỏ bé như thế? Tại sao cứ
để cho nó bóc lột sức lao động
của mình mà không chịu vùng lên
theo cách mạng để cướp lại quyền
làm chủ tập thể của mình hử?
Trâu Doãn lại
nhe hàm răng trắng nhởn lớn quá khổ
ra cười cười trả lời rằng:
- Báo cáo đồng
chí Đại vương nắm! Thằng người
tuy nhỏ mà nó có trí khôn!
- Trí khôn là
cái gì vậy, đồng chí Doãn!
- Hãy hỏi thằng
người thì khắc biết.
Đại vương Hổ
Mạnh tò mò muốn biết trí khôn
là cái củ gì mà thằng người
lại có thể sai khiến được con vật
to lớn hơn nó đến mấy lần mà
không cần đến điều 4 luật rừng
xanh và móng vuốt sắc bén của
mình nên quay sang hỏi nông dân Tấn Lực:
- Này thằng
nông dân kia! Cái khôn của mày để
ở đâu đưa cho tao coi thử!
- Thưa Đại
vương, trí khôn tôi để ở
nhà! Anh Lực trả lời.
- Vậy hãy về
nhà lấy ra đây cho ta xem mau!
- Tôi về, ở
đây Đại vương ăn thịt con trâu
của tôi sao ?
- Ta xin thề trên
điều 4 là không ăn thịt con trâu của
ngươi!
- Xin lỗi Đại
vương nghe! Đại vượng thề nhiều lần
quá nên lời thề hết linh rồi!
- Vậy, mày muốn
ta làm sao để cho mầy tin?
- Nếu Đại
vương chịu để cho tôi trói vào gốc
cây kia tôi mới yên tâm về nhà.
- Được! Mầy cứ
trói ta lại.
Sau khi trói chắc Hổ
Mạnh vào gốc cây trên bờ ruộng xong,
Tấn Lực xuống ruộng tháo quải ra cho
trâu Doãn đi ăn cỏ, anh lấy cái bắp
cầy đến quất túi bụi vào lưng Hổ
Mạnh. Vừa quất, anh vừa quát:
- Trí khôn của
tao đây này!
Đại vương Hổ
Mạnh đau đớn vô cùng, vừa khóc
vừa van xin tha mạng rối rít.
Người viết
không nhớ đoạn kết anh Lực này
đánh chết Hổ Mạnh hay vì lòng
nhân đạo mà tha cho Hổ Mạnh về rừng.
Nhưng sau gần một thế kỷ, người viết
đoán chừng rằng, có lẽ anh Lực
vì lòng nhân (đàn bà) đã tha
cho Hổ Mạnh nên con cháu đời sau mới
bị cái hậu quả khôn lường “thả
hổ về rừng”, khiến cho 80 triệu dân
phải điêu linh đồ thán vì nạn hổ
vồ.
Công
lao của trâu.
Trong truyện “Lục
súc tranh công” của tác giả
“Vô danh”, trâu đã kể công
như sau:
Trâu mỏi nhọc
trâu liền năn nỉ
“Một
mình trâu ghe nỗi gian nan
Lóng canh
gà vừa mới gáy tan
Chủ đã
gọi thằng chăn vội vã
Dạy rằng:
đuổi trâu ra thảo dã
Cho nó ăn ba
miếng đỡ lòng
Chưa bao lâu
thoắt đã rạng đông
Vừa đến
buổi cày bừa bua việc
Trước cổ
đã mang hai cái niệt
Sau đuôi
thêm kéo một cái cầy
Miệng
đã dàm, mũi lại dòng dây
Trên lưng ruồi
bâu, dưới chân đỉa cắn…
…
Làm không kịp
thở
Ăn không kịp
nhai
Tắm mưa trải
gió chi nài
Đạp tuyết
dày sương chi sá …
Từ đồng cạn
đến đồng sâu, trâu bao thầu hết mọi
việc cày bừa. Đến mùa gặt, xe
trâu lại lo chuyên chở lúa về nhà.
Hết vụ mùa, trâu lên rừng kéo gỗ,
kéo củi, kéo tranh tre lá về cất
nhà, cất trại … Quả thật thân
trâu vất vả một đời chẳng có
lúc nghỉ ngơi, làm quần quật cho đến
ngày sức tàn, lực mỏi. Rồi bị
đem đi xẻ thịt.
Về công trận,
trâu ngày xưa được xử dụng
như đoàn chiến xa bây giờ. Trâu
được buộc gươm nhọn trên sừng
và cho uống rượu say sau đó lùa
xô vào húc, chém phá đội
hình quân địch. Trâu cũng dùng trong
trận hỏa công bằng cách buộc mồi lửa
sau đuôi rồi lùa vào dinh trại của
giặc.
Trong thời Chiến quốc
bên Tàu, quân Yên đã hạ hơn 70
thành của Tề, chỉ còn sót lại mỗi
thành Cừ Tức Mặc. Tướng nước
Yên là Điền Đan dùng mưu bắt
1000 con trâu đực khỏe mạnh, mình
khoác áo đỏ vẽ nhiều màu sặc
sỡ, sừng buộc gươm nhọn sắc.
Đuôi buộc sẵn một bó cỏ khô tẩm
dầu. Khi xuất trận quân Tề xua đàn
trâu đi trước rồi đốt những
bó cỏ khô buộc đuôi. Trâu bị
nóng cuống cuồng chạy xông vào trận
địch, khiến quân Yên hoảng sợ, rối
loạn hàng ngũ, hoảng loạn xéo lên
nhau mà chạy, chết rất nhiều. Thừa thắng
Điền Đan chiếm lại được những
thành trì đã mất.
Tác giả Khuyết
danh có làm bài thơ nhắc đến
tích này:
Con trâu già
Một nắm
xương khô một nắm da
Bao nhiêu
cái ách đã từng qua
Đuôi kia biếng
vẫy Điền Đan hỏa
Tai nọ buồn
nghe Ninh tử ca
Sớm thả
đồng đào ăn đủng đỉnh
Tối về chuồng
quế thở nghi nga
Có người
đem dắt tô chuông mới
Ơn đức
vua Tề lại được tha.
Bài thơ có nhắc
thêm mấy sự tích như Ninh Tử tức Ninh
Thích lúc chưa gặp thời, đi chăn
trâu thường nghêu ngao gõ sừng trâu
mà ca lên chí lớn của mình. Sau gặp
được vua Tề Hoàn công biết đến
và trọng dụng.
Sự tích tô
chuông, ngày xưa khi đúc xong một quả
chuông thì phải giết một con trâu
làm lễ Hấn Chung tức Bôi Chuông. Lấy
máu trâu bôi vào chuông, tiếng
chuông đánh lên mới ngân nga và vang
xa. Bài thơ trên nhắc đến việc vua Tề
Tuyên công thấy người ta dắt trâu
đi để giết lấy máu tô chuông, liền
tỏ lòng thương và ra lệnh tha cho con
trâu này khỏi bị giết.
Trong Việt sử
có ghi chép chuyện Đinh Bộ Lĩnh cùng
trẻ mục đồng cưỡi trâu tập trận
trong thung lũng Hoa Lư. Lê Đại Hành
lùa trâu cùng quân sĩ dàn dày
đặc ở bờ sông Hoàng Long để
chào đón và dọa dẫm tinh thần sứ
thần nhà Tống.
Công dụng
của trâu
Trâu là con vật
rất quí đối với nhà nông nên
ít ai đem ngả thịt để làm thức
ăn, trừ khi trâu đã già yếu, mắt
mờ, chân chậm, chưa ra sức đã
“thở hồng hộc như… trâu”
thì mới đành lòng đem đi mổ.
Thịt trâu màu
hơi tái, không thơm ngon bằng thịt bò
nhưng có vị mát rất tốt cho những
người vượng hỏa. Da trâu dùng bịt
trống. Bong bóng trâu sau khi tẩy mùi
dùng làm bình đựng nước hay rượu
rất tốt trong việc đi xa. Xương trâu
dùng để nấu … xì dầu.
Sừng trâu có
thể làm tù và và các vật trang sức
như lược, hoa tai, tiện con cờ, mõ,
cái hộp, tỉa cán quạt, cán dao.
Sừng trâu cũng
có thể thay sừng tê giác làm thuốc.
Hiện nay tê giác là loài động vật
quí hiếm đang có nguy cơ tuyệt chủng,
đã đưa vào danh sách đỏ
và cấm săn bắt. Y học hiện đại
đã có nhiều công trình nghiên cứu
về tác dụng chữa bệnh của sừng
trâu và kết quả cho thấy sừng trâu
và sừng tê giác thành phần các chất
hữu cơ và vô cơ tương đồng.
Theo Đông y, sừng trâu vị đắng
có tính hàn, có tác dụng thanh nhiệt,
giải độc lương huyết dùng chữa
ôn bệnh sốt cao, hôn mê nói nhảm,
kinh phong điên cuồng, các chứng xuất huyết
như thổ huyết, nục huyết, ban xuất huyết
…
Cũng vì sự
quí hiếm của sừng tê giác nhất
là đặc tính kỳ lạ của nó,
người ta đồn nhau rằng con tê giác
có khả năng giao cấu từ 2 đến 4 giờ
đồng hồ và khả năng ấy đều
dồn lên cái sừng của nó. Một
ít bột mài từ sừng của nó cũng
đủ khiến cho người nhược dương
trở thành người đàn ông phi trường
trong việc “phòng sự”, Viagra phải
chào thua !
Giá một ký sừng
tê giác giao động từ 50.000USD đến
20.000USD.
Các đại gia
kháo nhau “lúc trẻ bỏ sức kiếm
tiền về già dùng tiền mua sức”,
để vớt vát lại tuổi thanh xuân,
các đại gia đua nhau lùng mua “thần
dược” này để dùng cho bản
thân và dành để chiêu đãi
các quan lớn trong triều.
Chính vì vậy
mà các ông bà trong các tòa đại
sứ của Nhà nước ta ở Nam Phi ham làm
giàu mau chóng bằng cách buôn lậu sừng
tê giác mang về nước bán cho các
quan lớn. Vừa mới đây, bà Vũ mộc
Anh, Bí thư Thứ Nhất tại Nam phi bị bắt
quả tang lúc mua bán sừng tê giác ngay
trước Tòa đại sứ mới gọi
là gan cóc tía coi pháp luật Nam Phi
không ra cái thá gì. Khi bị giới truyền
thông Nam Phi lên tiếng chỉ trích, bà Mộc
Anh liền thi thố ngón võ gia truyền của bà
Thúy Thanh và ông Lê Dũng là dài
lưỡi ra chối lia, chối lịa rằng thì
là em chả. Và luôn thề rằng: “Em
mà có buôn lậu thì cho Bác Nông vật
ngửa em ra đi! Mỗi tháng em bị hộc
máu một lần!”. Cả một đống
người trong tòa đại sứ cũng hùa
nhau chối phăng, chối phắt rằng nhân
viên chúng tôi đã được học
tập rất kỹ đạo đức của
“Bác” là thật thà, dũng cảm,
không bao giờ làm chuyện xấu hổ nhục
nhã như thế đâu. Đề nghị
các ông chớ hồ đồ loan tin “trước
khi mọi việc được điều tra
rõ” mà làm mất đi sự hợp
tác thân thiện đẹp đẽ của hai
nước.
Đến khi truyền
hình Nam phi chiếu trên ti vi cái mặt
bèn bẹt của bà Mộc Anh hai năm rõ
mười thì, theo tờ Tuổi Trẻ tường
thuật, Ông đại sứ CSViệt Nam mới
“lấy làm hối tiếc” dù
“đã nhắc nhở nhiều lần”
nhưng “vẫn xảy ra” và cho rằng hành
vi của bà Mộc Anh là “hám lợi”.
Về phần bà Mộc Anh thì cứ cương
quyết không chịu nhận mình là buôn
lậu và không chịu viết bản kiểm
điểm nhận tội, cứ một mực nói
là chỉ cầm dùm cho “người
khác” thôi. Đến đây thì
báo Tuổi Trẻ không dám nói rõ
“người khác” đó là ai
mà có quyền to có thể sai khiến
bà Mộc Anh Bí thư Thứ nhất của
Tòa đại sứ cầm dùm?
Cái gương bị
mất chức và đi tù của PV Chiến cứ
lù lù trước mặt.
Đây không phải
là lần đầu nhân viên toà đại
sứ CSVN bị bắt. Hai năm trước một
nhân viên thương mại của toà đại
sứ CSVN tên là Khánh Toàn cũng bị bắt
về vụ buôn lậu sừng tê giác
và bị “xử lý”. Hiện nay bà Mộc Anh
đã bị triệu hồi về nước để
điều tra làm rõ để tìm cách …
ngừa đẻ. Thật là đẹp mặt cho
cái chế độ ưu việt.
Con trâu trong ca dao tục ngữ
Trong hàng gia súc, có lẽ
con trâu là được người nông
dân thương yêu trìu mến nhất, ngay cả
loài chó vốn được yêu quí
vì đức tính trung thành cũng chưa
được bằng. Trâu được nhắc nhở nhiều
qua ca dao, thành ngữ.
Trong cách chọn lựa mua trâu phải chọn
loại: Sừng cánh
ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi, Mồm
gàu dai, tai lá mít,
đít lồng bàn.
Và nên tránh những con: Xa rừng mắt lại nhỏ con, Vụng
đàn chậm chạp ai còn mua chi
Áp dụng trong đời sống hàng
ngày: Mua trâu xem
vó, lấy vợ xem nòi - Muốn giàu
nuôi trâu cái, muốn lụn bại nuôi
chim bồ câu - Trâu năm sáu tuổi còn
nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi
già. - Trâu quá sá (quá tuổi) mạ
quá thì - Trâu trắng đi đâu, mất
mùa đến đấy. - Trâu he (gầy) cũng
bằng bò khỏe. - Con trâu là đầu
cơ nghiệp - Tậu trâu, lấy vợ cất
nhà, trong ba việc ấy thật là khó thay …
Có những thành ngữ dùng trâu
để ám chỉ về người như: Trâu chậm uống nước
đục dùng để
chế diễu những người chậm chạp
nên thường bị thiệt thòi. Những
người hiềm khích hay ghen ghét nhau thì
có câu trâu cột
ghét trâu ăn.
Câu trâu lấm
vấy quanh dành để
chỉ những người làm sai nhưng hay đổ
lỗi cho người khác. Những ai hay mơ
làm chuyện hão thì bị chế diễu
là dắt trâu qua ống. Ngày xưa mấy anh lái
trâu ưa có thói lường gạt theo kiểu mua
trâu vẽ bóng. Vì vậy, cảnh mẹ chồng nàng
dâu luôn xích mích thì câu thật thà như thể
lái trâu, thương nhau như thể nàng
dâu mẹ chồng thiệt thích hợp.
Ca dao tục ngữ về con trâu rất nhiều
kể không xuể. Chừng nào hết cảnh trâu tìm cột chứ có
bao giờ cột lại tìm trâu thì lúc ấy họa may
dân gian mới hết nói về trâu.
Một chuyện tiếu lâm về
trâu
Để độc giả xả hơi, thư giãn đôi chút vì từ
nãy tới giờ theo dõi ba cái chuyện
khô khan nhức đầu, người viết xin kể
một chuyện tiếu lâm dân gian nơi chốn
đồng quê có con trâu đi cầy để
quí vị nghe chơi cho vui tí chút.
Một hôm nọ, anh sui trai
góa vợ băng đồng sang làng kế cạnh
để thăm đứa con gái đang làm
dâu cho bà sui cũng đang góa chồng. Nhằm
lúc hai vợ chồng đứa con còn đang ở
ngoài đồng cấy lúa chưa về, bà
sui đem rượu ra mời anh sui vừa
nhâm nhi vừa nói chuyện để chờ bọn
trẻ về rồi ăn cơm luôn thể.
Hai anh chị sui nói chuyện
râm ran hồi lâu, tâm tình coi bộ vui vẻ
lắm. Bỗng chị sui cao hứng
đố anh sui:
- Nè anh sui! Đang lúc vui
tui đố anh một câu để anh đoán thử
nó là cái gì nghen!
- Ừa! Chị cứ đố để tui
ráng đoán để trả lời chị. Anh sui cũng vui vẻ đáp lại.
- Vậy chớ đố anh, cái gì bằng
bàn tay, xung quanh có lông,
chính giữa có cái lỗ. Chị sui vừa nói vừa ra điệu bộ,
dơ bàn tay khum khum, dứ dứ trước mặt
anh sui. Anh sui nghe thấy vậy mới
miệng cười chúm chím, trong bụng nghĩ
thầm:
- Chà! Đố cái điệu này chắc
chị sui có ý thả câu
thòng mở đường sẵn cho mình trổ
mòi “dê” đây.
Nghĩ xong, anh sui tằng hắng
một cái để lấy giọng, rồi nói:
- Tui biết ý chị muốn đố cái
gì rùi. Nhưng trước khi trả
lời câu đố của chị, tui đố lại
một câu trước đã, chị chịu
hôn?
- Cũng được, anh đố đại
đi.
- Ừa hén, chị nghe đây. Đố chị cái gì bằng
cườm tay, nằm ngay cái của
chị.
Anh sui cũng vừa đố vừa
ra điệu bộ như chị sui lúc nãy. Anh
đưa cánh tay mặt lên rồi
co lại hình thước thợ, dứ dứ về
phía chị sui. Miệng thì cười cười
ra vẻ đắc ý. Không ngờ nghe xong, chị
sui nổi giận đùng
đùng, mắng như tát nước vô mặt:
- Nè anh sui! Tui
tưởng anh là người đứng đắn
đàng hoàng tui mới đố giỡn với
anh cho vui. Dè đâu anh là người mất
nết, ba trợn, anh lại ăn
nói bậy bạ với tui như vậy. Anh có
muốn ăn chổi chà lên
đầu không?
Anh sui đang hí hửng trong bụng
dè đâu bị bà sui trở mặt mắng
nhiếc tàn tệ như vậy, đưa tay bợ
miệng không kịp, mặt mày xụi lơ, cố
chống chế mà không biết nói năng ra
sao. Đúng lúc ông Lý trưởng
trong làng đi ngang qua nghe hai người đang lớn
tiếng bèn ghé vô coi thử chuyện
gì. Được dịp, bà sui
nhờ ông Lý phân xử dùm ai phải, ai
quấy. Hai người theo ông
Lý trưởng về đình làng để
xử kiện.
Khi yên vị, Lý trưởng kêu bà
sui kể lại đầu đuôi
câu chuyện. Nghe xong, ông Lý cũng tức
cười, bèn hỏi:
- Vậy chớ cái mà bà đố
ông ấy là cái gì?
- Dạ thưa nó là cái lỗ tai trâu!
- À há! Phải! Bằng cái bàn tay, xung quanh có lông, chính giữa
có lỗ. Đúng là cái lỗ tai trâu. Ông Lý gật gù
thích chí, quay sang hỏi anh sui:
- Còn anh kia! Cái
anh đố nó là cái gì?
- Dạ thưa ông Lý, cái tui đố
là cái sừng trâu ạ.
- Phải! Phải! Bằng cái cườm tay, nằm ngay cái của chị! Đúng là cái sừng trâu
rồi chứ là cái gì nữa mà chị
lại đi thưa ảnh? Thôi, tui
xử huề. Hai người làm
hòa với nhau, về nhà đi. Lấy
câu “dĩ hoà vi quí” cho nó vui vẻ , đừng để mất
tình sui gia.
Chị sui có vẻ chưa bằng
lòng, vùng vằng bỏ đi te te một nước.
Anh sui lật đật chạy theo, vừa
thở hổn hển vừa gọi với:
- Chị sui ơi! Chờ tui với! Cám ơn chị nghen!
Cám ơn chị lắm lắm!
Chị sui quay lại sắc mặt
hãy còn giận, nói lẫy:
- Anh ngon rùi mà! Còn
bày đặt nói mỉa, cám ơn tui
làm chi cho má nó khi.
- Không phải như vậy đâu chị sui ơi! Tui cám ơn thiệt
lòng mà. Hồi nãy mà chị
nói cái lỗ tai ngựa thì chết tiá
tui rùi !!!
Đầu trâu mặt ngựa
Cái loài thú có cái
đầu trâu mà cái mặt lại giống
ngựa này chúng ta chỉ nghe nói trong chuyện
Mục Kiền Liên đi tìm mẹ ở dưới
chín tầng địa ngục Âm phủ. Đó là thứ ngạ quỉ,
lính của Diêm Vương, chuyên canh gác
hỏa ngục và tra tấn trừng phạt những
kẻ làm ác, làm bậy hại người
lương thiện, ăn hiền ở lành lúc
còn sống ở trần gian.
Mặt mày lũ đầu
trâu mặt ngựa đều lộ vẻ hung quang,
tay cầm đủ thứ binh khí nào là chĩa
ba, cào cỏ, gươm giáo …
Thực tế, từ xưa đến
giờ, chưa có một ai thấy chúng.
Nhưng kể từ ngày “Bác Hồ”
đem cái “bàng môn tả đạo”
của mấy lão phù thủy bên Nga La
Sát về thì cái đám âm binh đầu
trâu mặt ngựa này “ăn theo”
kéo về đông đảo. Nhờ môi trường
“máu và đầu lâu” của mấy
trăm ngàn người vô tội chết oan ức
trong vụ “Bác” thi triển đạo
bùa “Cải cách ruộng đất”,
sái đậu thành binh, để cào bằng
xã hội theo phép bá đạo của hai
lão đạo sĩ Giáo Mác và Ăn Ghen
mà chỉ trong có mấy chục năm
đã sinh sôi nẩy nở lên đông
đảo vô cùng. Thường thường, bọn
âm binh đầu trâu mặt ngựa này sống
lén lút trong bóng tối vì chúng rất
sợ ánh sáng mặt trời. Nhưng
dạo sau này, chúng ngang nhiên xuất hiện
nghênh ngang khắp nơi, tha hồ tác yêu
tác quái, nhũng nhiễu dân lành, coi
phép nước như cái củ thìu biu của
chúng. Đó là do chúng được
nuôi dưỡng và đặc biệt o bế của
cái Tổng cục 2 hay 3 gì đó, có quyền
“tiền trảm hậu tấu” rất ghê gớm.
Nhà nước cộng sản Việt Nam sở dĩ
còn tồn tại đến ngày hôm nay đều
do cái đám âm bình này phò
(độ) và hộ (trì).
Đặc điểm của loài
đầu trâu mặt ngựa này là cái
đầu không có óc để suy nghĩ
phân biệt đúng sai, tốt xấu. Chúng chỉ biết nhắm mắt,
cúi đầu triệt để thi hành mệnh
lệnh của chủ. Loài này
còn có đặc điểm nữa là
trước mặt chủ thì đi bốn chân.
Khi ra ngoài thì đi bằng hai
chân, mặt thì cứ nghếch lên trời.
Quí độc giả muốn biết rõ mặt
mũi và hành động của đám
âm binh đầu trâu mặt ngựa này ra sao
cứ xem mấy đoạn phim quay cảnh Nhà nước
cộng sản Việt Nam dàn binh bố trận
đánh cướp đất đai của ấp
Thái Hà và Tòa Khâm Sứ Hà Nội
trong mấy tháng vừa qua, hoặc cảnh dàn
chào thanh niên, học sinh, sinh viên đi biểu
tình chống giặc Tàu ô cướp nước
hay cảnh dân oan kéo nhau đi khiếu kiện
đất đai, sẽ được mãn nhãn.
Sấm ký của Học Lạc
Chúng ta thường nghe nói tới
Sấm Trạng Trình lưu truyền trong dân gian. Lời sấm tiên
đoán nhiều biến cố lịch sử mà
có khi cả chục năm, trăm năm sau người
dân mới thấy ứng nghiệm.
Chẳng hạn như câu:
Bao giờ lúa mọc
trên chì, voi đi trên giấy tây thì về
tây.
Lúc đương thời không
một ai có thể hiểu và lý giải
được vì sao lúa lại có thể mọc
được trên chì và voi đi trên giấy. Còn tây về tây là nghĩa
gì. Câu sấm này ám chỉ
việc gì? Thật là bí ẩn.
Sau khi nước ta bị thực dân Pháp
đô hộ suốt gần 100 năm, nhiều phong
trào yêu nước nổi lên khắp nơi
để đánh đuổi giặc Pháp, trường
kỳ kháng chiến, mãi cho đến năm 1945
(?) Ngân hàng Đông dương chung của ba
nước Việt, Miên, Lào cho phát hành
đồng bạc bằng chì, mẫu tròn, một
mặt có in hình nổi bụi lúa và tờ
giấy bạc mệnh giá một trăm đồng,
trên in hình con voi thì Pháp thua trận
Điện Biên Phủ, buộc phải rút
quân về nước.
Lúc đó người ta mới
vỡ ra cái ý nghĩa của câu sấm Trạng
Trình.
Nhắc qua câu sấm của Trạng Trình,
người viết muốn giới thiệu với
quí độc giả một người khác cũng
có tài tiên tri mà lâu nay ít người
lưu ý. Người này cũng có sấm
ký lưu lại gần cả trăm năm, tiên
đoán rằng nước ta sẽ dần dà suy
thoái về mọi mặt chính trị, quân sự,
kinh tế nhất là về văn hóa bị biến
thành một nền văn hóa nhai lại, giống
như trâu, nhai 70 năm một chủ thuyết lỗi
thời bị vất bỏ vào giỏ rác lịch
sử, không biết mệt và chán, kéo
lùi cả dân tộc trở về thời sơ
khai.
Đó là Học
Lạc. Học Lạc là ai vậy ?
Học Lạc tên thật
là Nguyễn văn Lạc (1842-1915) biệt hiệu
là Sầm Giang, người làng Mỹ Chánh,
thuộc tỉnh Mỹ Tho, nay là tỉnh Tiền Giang.
Học Lạc tuy nhà nghèo, nhưng nhờ có
trí thông minh nên được tuyển thẳng
vào ngạch học sinh, ngạch do triều
đình nhà Nguyễn đặt ra, được
cấp lương và được học tại
trường của quan đốc học địa
phương. Do đó, người ta mới gọi
là “học sinh Lạc”, dần dần bỏ
mất chữ “sinh”, còn lại hai chữ
“Học Lạc”. Học Lạc học giỏi
nhưng thi mãi vẫn không đậu, sau
đó triều đình Huế phải ký
hòa ước 1862 nhường đứt ba tỉnh
miền Đông cho Pháp, nên Học Lạc bỏ
thi luôn, bỏ làng Mỹ Chánh, dời
nhà về chợ Thuộc Nhiêu (Mỹ Tho) chọn
nghề dạy học và bốc thuốc để
sinh sống cho hết đời.
Ông thường
làm thơ trào phúng, châm biếm như
Chu Mạnh Trinh, Trần Tế Xương, Nguyễn Khuyến..
Ví dụ như
bài “Thằng Lạc”, khi bị các quan
viên đình làng bắt phạt chỉ
vì không có danh thiếp gắn trên
các phẩm vật của mình mang tới
cúng đình. Ai ai cũng có tấm danh thiếp
đề tên như: Đại Hương Cả,
Hương Trưởng, Hương Chủ, Hương
Thân … còn trên mâm xôi của
ông chỉ có mảnh giấy ghi hai chữ “Thằng
Lạc”. Làng bắt vạ, phải làm
bài thơ tạ lỗi, lấy ngay hai chữ “Thằng
Lạc” làm đề tài. Ông ứng khẩu
đọc ngay:
Vành mâm
xôi tên đề Thằng Lạc
Nghĩ mình ti
tiểu không đài các
Văn chương
chẳng phải bọn mèo quào
Danh phận
không ra cái cốc rác
Đã chẳng
bơ phờ thẹn núi sông
Dám đâu
vút vắt ngạo cô bác
Sự tình ai
có thấu cùng chăng
Trong có ông
Thần, ngoài cặp hạc.
Hội đồng
Hương ai cũng chịu là bài thơ hay lại
gieo vần trắc rất ác nên bằng lòng
tha tội.
Hiện nay ở Sài
Gòn vẫn còn có con đường mang
tên ông: Học Lạc.
Trở lại với
tài tiên tri của Học Lạc, người viết
xin đan cử ba bài sấm ký sau đây
để làm đề tài “Đố vui
có thưởng” gửi đến quí vị
ngẫm chơi trong ba ngày Tết tha phương, nhớ
nhà buồn thúi cái “khúc ruột
ngàn dặm”.
Bài 1.
Con Tôm
Chẳng phải
vương công chẳng phải hầu
Học đòi
đái kiếm lại mang râu
Khoe khoang mắt
đỏ trong dòng bích
Chẳng biết
mình va cứt lộn đầu …
Bài 2.
Chó chết
trôi
Sống thời bắt
thỏ, thỏ kêu rêu
Thác thả
dòng sông xác nổi phều
Vằn vện sắc
còn phơi lẩn dẩn
Thối tha danh hỡi
nổi lêu bêu
Tới lui bịn rịn
bầy tôm tép
Đưa
đón lao xao, lũ quạ diều
Một trận
sóng dồi cùng gió dập
Tan tành
xương thịt biết bao nhiêu!
Bài 3.
Con trâu
Mài sừng cho
lắm cũng là Trâu
Ngẫm lại
mà coi thật lớn đầu
Trong bụng lam nham
ba lá xách
Ngoài cằm
lém đém một chòm râu
Mắc mưu đốt
đít tơi bời chạy
Làm lễ
bôi chuông nhớn nhác sầu
Nghé ngọ
già đời quen nghé ngọ
Năm dây
đàn gẩy biết chi đâu.
Câu đố
là: Ba bài sấm ký trên nhà tiên
tri Học Lạc đã tiên đoán về
giai đoạn lịch sử nào ? Ba con vật
được nhân cách hóa ám chỉ ai ?
Ai đoán và giải
tương đối trúng nhất sẽ được
thưởng một cái sừng tê giác “o
ri gin” vừa mới đem từ Nam Phi về và
sẽ do bà Vũ Mộc Anh Bí thư Thứ nhất
của Tòa đại sứ Nam Phi trao tặng với
sự chứng kiến của toàn bộ ban bệ Bắc
Bộ phủ. Buổi lễ trao giải sẽ được
tổ chức long trọng y như lễ trao huy hiệu
“60 năm tuổi đảng” cho bà Nguyễn
thị Bình vậy.
Tử vi Kỷ
Sửu
Cuối cùng cuộc
cà kê dê ngỗng về con trâu mà
không có mục coi bói, xem tử vi tuổi Kỷ
Sửu thì cũng kém phần vui nhộn. Người
viết xin lược chép lại vài hàng tử
vi sưu tầm được cho những ai thuộc tuổi
con trâu:
1.- Nam mạng:
Tuổi Kỷ Sửu thuộc
mạng Hỏa. Tánh nóng nảy hay có những
hờn dỗi vô lý làm cho cuộc sống thiếu
cả tình cảm bạn bè. Lúc còn nhỏ
không được may mắn lắm nhưng về
sau có tương lai đẹp. Số có phú
quí nhưng lại đau khổ về tình
duyên, gia đạo.
Tình duyên:
Tuổi Kỷ Sửu
có số đào hoa nhưng có nhiều
lúc thăng trầm. Tình duyên long đong ở
tuổi 21, 22, 23. Nếu ai sanh trong những tháng 2, 3
và 9 Âm lịch sẽ có đến đời
vợ thứ ba mới có hạnh phúc.
Gia đạo và
công danh: Công danh và cơ hội phát triển
lên cao vào những năm 20 đến 25 tuổi.
Hy vọng sẽ hoàn toàn thành công ở
tuổi 27. 28. Về gia đạo, số phải sống
cô độc nhiều hơn là sống êm ấm
trong gia đình.
Sự nghiệp tiền
tài. Tuổi Kỷ Sửu hoàn thành sự
nghiệp vào tuổi 29, 30 nhưng qua 31 và 33 lại
bị đổ võ hoàn toàn vì quá
tin bạn nhất là thất bại vì
đàn bà. Những tuổi hạp cho làm
ăn: Canh Dần. Quý Tỵ,Giáp Ngọ, Bính
Thân, Mậu Tý, Đinh Hợi giúp bạn
thành công hơn. Những tuổi đại kỵ:
Tân Mão, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Quý
Mão, Bính Tuất, Ất Dậu.
2.- Nữ mạng:
Cuộc đời: Cuộc
đời nhiều cay đắng lúc nhỏ nhưng
cuộc sống có nhiều triển vọng tốt
đẹp ở hậu vận. Cuộc sống lên cao
bắt đầu từ 24 trở đi.
Tình duyên: Tuổi
Kỷ Sử tình duyên đối với nữ mạng
là vấn đề nan giải, gặp rất nhiều
trở lực trong cuộc đời. Những ai sinh trong
tháng 3,6,8 và 10 Âm lịch phải ba lần
thay đổi mới có hạnh phúc. Sanh vào
những tháng 2,4,7,9 và 11 Âm lịch thay đổi
2 lần. Nếu may mắn sanh trong tháng 1, 5 và 12
Âm lịch thì cuộc đời hoàn
toàn hạnh phúc.
Gia đạo công
danh: Gia đạo được đầy đủ
và nhiều thương yêu. Công danh có nhiều
tốt đẹp trong tương lai. Rất hạp với
sự buôn bán./.
NGUYỄN
THANH TY
(Sưu Tầm Liên
Mạng chuyển)