Ngày 19 Tháng
Tư
(Ngọc Lan)
"Tôi ước gì người Việt
mình ở hải ngoại có một website
đăng danh sách và các dữ kiện
thông tin về các cựu quân nhân VNCH
đã được Mỹ cho đi theo chương
trình H.O..." Bài viết về Tháng Tư của
Ngọc Lan kết thúc bằng niềm
mong ước ấy. Tác giả nguyên là con
gái của Bác sĩ Lê Bá Dũng, quyền
Chỉ huy trưởng Quân Y Viện Phan Thiết
và sau đây là bài viết của cô
về ngày thành phố nhỏ đổi chủ.
***
Mấy tuần nay đọc lướt qua các
bài được đăng trên các website tiếng
Việt của người Việt Nam ở Hải Ngoại,
tôi thấy các Hội Đoàn, Cộng Đồng
rải rác khắp Hoa Kỳ và các nước
khác trên thế giới đang rục rịch chuẩn
bị tưởng niệm Tháng Tư Đen với
các chiến dịch như là không đi về
VN vào tháng tư, không gởi tiền về
VN vào tháng tư, ... và các hoạt động
khác. Thấm thoắt mà đã 34 năm
trôi qua, từ ngày Việt Nam rơi vào tay Cộng
sản, và người Việt Nam mình bỏ
nước ra đi để tìm con đường tự
do, tìm tương lai cho thế hệ sau này,
và thoát khỏi chế độ hà khắc
của Cộng Sản. Trước ngày 30 tháng 4,
ngày toàn Miền Nam Việt Nam rơi vào tay Cộng
Sản, thì ngày 19 tháng 4 là ngày Phan
Thiết bị mất, theo Chế độ Cộng Sản
gọi là ngày Phan Thiết được
hoàn toàn giải phóng.
Hồi đó ba tôi làm Bác sĩ
Quân Y ở Quân Y Viện Đoàn Mạnh Hoạch,
và gia đình tôi đã dọn vô sống
trong Khu trại Gia binh của Quân Y Viện
Đoàn Mạnh Hoạch để ba tôi làm
việc được thuận tiện hơn, vì
Quân Y Viện cách Phan Thiết khá xa. Tôi nhớ
đến những ngày gia đình tôi sống
trong Khu trại Gia binh này, nhất là những
ngày cuối cùng trước khi Phan Thiết
hoàn toàn bị rơi vào tay
Cộng sản. Những ngày ấy tụi tôi vẫn
còn đi học bình thường, và
lúc ấy tụi tôi chỉ là lũ con
nít lao nhao nên chẳng biết gì để
mà bình luận, nhưng cứ cách vài
ngày thì tôi cứ nghe ba tôi kể là
tỉnh này đã mất, thị xã kia
đã mất ...
Cho đến một ngày kia
khi nghe nói là Việt Cộng đang ở Mường
Mán cách Phan Thiết khoảng 50 cây số
thì mẹ tôi khóc ròng. Mẹ tôi
đã qua một thời chạy giặc năm Mậu
Thân 68 ở Huế, sống lây lất cả 1
tháng trời đói khát nên rất sợ
Cộng Sản. Ngày ấy mẹ tôi đang sống
với gia đình bên ngoại, một nách 2
con nhỏ: đứa thì mới hơn 1 tuổi,
đứa thì mới 3-4 tháng; mẹ tôi
đi tản cư với ông bà ngoại tôi
và dì Ý. Nghe kể lại lúc đó
cả gia đình mỗi ngày chỉ có 1 lon sữa
bò gạo nấu lên thành cháo cho cả
nhà ăn. Có gia đình nọ đổi cả
con bò chỉ để lấy được vài
lon gạo mà thôi. Chạy giặc tản
cư cả tháng trời, về lại nhà
thì đồ đạc không còn gì,
vì những người ở lại hôi của
đã lấy sạch đến cái nồi nấu
cơm cũng không còn mà phải dùng
cái lon sữa bò để nấu cơm. Mẹ tôi trở lại trường đi dạy
mà không còn lấy một cái áo
dài nào để mặc. Tất
cả phải làm lại từ đầu sau năm Mậu
Thân ấy.
Bởi thế khi nghe quân Việt Cộng
tiến gần đến Phan Thiết thì mẹ
tôi rất hoảng sợ. Lúc ấy ba tôi dự
tính để mẹ tôi và tụi tôi
đi tàu thủy vô Sài gòn trước.
Hôm ấy mất hết nguyên ngày lê la
lây lất bên bờ sông Cà Ty và mẹ
tôi suýt ngất xỉu vì say nắng mà
chẳng có chiếc tàu thủy nào để
đi. Sau kế hoạch đi bằng tàu thủy
vô Sài Gòn thất bại, ba tôi đổi
hướng lo cho mấy mẹ con vô Sài gòn
trước bằng máy bay. Không biết lúc ấy
có người nhường lại hay sao đó
cho gia đình tôi 2 vé máy bay, bay từ
Phan thiết vô Sài gòn. Năm mẹ con tụi
tôi ngồi trên 2 ghế: tôi và đứa
em trai một ghế, mẹ tôi ôm hai đứa em
nhỏ ngồi trên một ghế. Tất cả đồ
đạc áo quần cho 5 mẹ con đựng trong
chiếc valise Samsonite, đó là tất cả những
gì tụi tôi mang theo được
khi rời khỏi Phan Thiết. Sau ngày 30 tháng
Tư tụi tôi đã không bao giờ còn
được phép trở về căn nhà ấy
để có cơ hội lấy thêm một
món đồ nào.
Tôi nhớ đến cái
bãi biển ở phía sau lưng Quân Y Viện
Đoàn Mạnh Hoạch. Thỉnh thoảng ba tôi dắt
tôi và đứa em trai đi tắm biển ở
đây. Tụi tôi đi xuống biển bằng
con đường tắt có bậc thang phía sau
lưng của QYV (Quân Y Viện). Con đường tắt
này dốc cao dựng đứng đến có thể
tuột xuống được. Bãi biển
này không có người tắm vì dân
thường không ai đến đây; ở
đó có một cái cầu tàu (pier)
đã cũ. Gia đình tôi
lâu lâu cũng đi xuống biển này picnic
phơi nắng cả buổi. Lúc trở về
thì chúng tôi đi về bằng con đường
khác ở bên hông QYV và đi về
nhà qua cổng trước của QYV. Không biết
ai là người đã chọn vị trí
này để xây dựng nên QYV có vị
thế phía sau là giáp biển, đã tạo
thuận lợi cho việc di tản của những
người lính VNCH và thương bệnh binh của
QYV trong ngày cuối cùng trước khi Phan Thiết
bị Việt Cộng chiếm lĩnh hoàn toàn
vào ngày 19 tháng 4 năm 1975.
Tôi nghe kể lại là QYV
được lệnh di tản từ buổi tối
ngày 18 tháng 4.
Các bác sĩ quân y trong đó có ba
tôi và các trợ y cùng nhiều sĩ quan
khác đã sắp xếp để di tản những
thương bệnh binh trong đêm tối ngày 18
bằng con đường bậc thang phía sau QYV,
và nằm chờ đến sáng thì di chuyển
ngược lên hướng Bình Tú để
chờ tàu Hải quân vào đón. Trong khi
đó thì quân của Việt Cộng
đã vào đến Phan Thiết và
đã kéo đến đầy trước cổng
của QYV và réo gọi tên ba tôi là:
"thằng Bác sĩ Lê Bá Dũng..."
và kêu ra trình diện. Hồi ấy
ba tôi đang là Chỉ Huy Phó QYV ĐMH.
Trong những ngày đầu khi Miền Nam đang
"dầu sôi lửa bỏng" ấy thì
ông Chỉ Huy Trưởng Thiếu tá Võ
Đạm đã đào nhiệm và cùng
vợ con tìm đường ra nước ngoài
trước rồi, và ba tôi lên làm Quyền
Chỉ Huy Trưởng trông coi QYV và bám trụ
với QYV đến những giờ phút cuối
cùng.
Nếu ba tôi ra trình diện theo yêu cầu
ngay hôm 19 tháng 4 ấy thì chắc là
đã tiêu đời rồi vì những anh Việt
Cộng lúc này đang sẵn sàng giết bất
cứ ai, huống hồ gì ba tôi lúc ấy
là người "được" cho là nợ
máu với nhân dân, dù ba tôi hành
nghề y khoa cứu người và chẳng giết
ai bao giờ.
Hồi ấy tôi nghe ba tôi kể
lâu lâu bên phía VNCH vẫn thường bắt
được một vài anh lính Việt Cộng
có lẽ bị thương nặng nên bị
đồng đội bỏ rơi lại. Bên phía VNCH mang về
cứu chữa và những lần ấy thì họ
được điều trị tại QYV cho đến
khi bình phục thì thả họ đi. Chẳng
lẽ vì làm những điều ấy nên
nay được kết tội "nợ máu với
nhân dân" hay sao ?
Ông nội tôi mất năm 79
và được chôn cất trên Bình
Tú. Hồi
ấy muốn lên Bình Tú thì phải
đi ngang qua QYV. Tôi không đi
đưa đám vì hôm ấy tôi
"được chia phiên" phải ở nhà
để coi chừng nhà, nhưng tôi có
đi ngày lễ "Mở cửa mả". Đường lên Bình Tú ngày ấy
hoàn toàn khác xa những gì trước
năm 75. Con đường dẫn lên phi trường
Phan Thiết với những tấm vỉ sắt
đã không còn. Có lẽ dân
chúng hay các cán bộ đã lấy
đi rồi chia chác với nhau. Phi
trường Phan Thiết cũng không còn nữa.
Tôi hồi ấy còn quá nhỏ và chỉ
đến đó có hai lần, lần đầu
là từ Sài gòn bay về Phan Thiết năm
72 và lần thứ hai là vào Sài gòn
vào tháng 4 năm 75, nên chẳng nhớ
được phi trường Phan Thiết hình
dáng ra sao. Con đường đi xuống bờ biển
ngày xưa to rộng lắm bây giờ hoàn
toàn mất lối, chắc chính quyền sợ
dân chúng dùng nơi này làm bãi
đáp để vượt biên nên xóa lấp
đi ? Con đường từ cổng
chữ Y lên tới QYV ngày xưa được
tráng nhựa xe chạy êm ru,
mà nay bị bỏ hoang cày nát đầy các
ổ gà ổ voi vì không được sửa
sang.
Đi ngang qua QYV thấy nơi ấy
bây giờ bị bỏ hoang vắng lặng có
hàng rào kẽm gai phía trước và
không một bóng người. Tôi đi ngang QYV với
bao bùi ngùi và luyến tiếc về những
ngày xưa cũ. Quân Y Viện của một
thời huy hoàng đây sao ?
Tôi nhớ đến những tháng ngày gia
đình tôi ở trong khu nhà ấy và tụi
tôi hay chạy qua chơi nhà Bác Toại
và các con của Bác ấy. Mẹ
tôi thì có cô bạn hàng xóm
nhà kế bên lâu lâu lại khoe nhau
làm bánh ga-tô hay chuyện hôm nay đi chợ
mua được cá gì ngon. Cô hàng
xóm kế bên là một Nữ Quân
Nhân, lâu lâu có dịp lễ trông
cô trong bộ đồng phục Nữ Quân
Nhân mới xinh xắn và duyên dáng
làm sao !
Tôi nhớ hồi ấy ba tôi có
chú "đệ tử" tên Thơm cho tụi
tôi một con sóc nuôi cho vui; mỗi ngày tụi
tôi cho nó ăn trái cây.
Một hôm con sóc sổng chuồng, chú
Thơm phải giúp tụi tôi bắt lại con
sóc, và chú đã bị con sóc cắn
chảy máu tay rất tội. Nơi đây em trai nhỏ nhất của
tôi -Thái- đã lớn lên và bước
những bước chập chững đầu tiên
trong đời bằng cách dùng cây vợt
đánh cầu lông của tụi tôi làm
cây gậy để bước đi. Nơi
đây cũng là nơi gia đình tụi
tôi ăn cái Tết cuối cùng trước
ngày Phan Thiết hoàn toàn rơi vào tay Cộng sản. Năm ấy
là năm cuối cùng mẹ tôi gói
bánh tét, và tụi tôi ngồi thức
canh nấu bánh tét. Những
năm về sau khi ba tôi đang còn trong trại cải
tạo, tụi tôi ở bên ngoài và cuộc
sống với bao thiếu thốn, thì những
đòn bánh tét ấy là những
cái gì quá xa xỉ không bao giờ mơ tới
được. Đó là lần
nấu bánh tét cuối cùng của gia
đình tôi cho đến khi gia đình tụi
tôi được đi định cư ở Mỹ.
Thỉnh thoảng sẵn dịp gì
đó nên ba tôi dắt tôi đi ngang mấy
dãy nhà bệnh xá trong ấy, hay đi vô
khu giải phẫu, đây là nơi ba tôi
làm việc nhiều nhất. Hồi đó có case nào mổ
khó là đều qua tay ba
tôi hết. Mấy dãy nhà khu giải phẫu
khi nào cũng mát lạnh và ngửi đầy
mùi thuốc sát trùng; những lúc ấy
tôi đi mà hơi sợ sợ vì hành lang quá vắng vẻ không một
bóng người. Nói tới cái chuyện mổ
xẻ làm tôi nhớ đến thời gian
nhà tôi còn ở dưới Hưng Long. Ba tôi lúc ấy được lên chức
làm Chỉ Huy Phó Quân Y Viện kiêm
luôn Trưởng khối chuyên môn; việc
lên chức đi đôi với làm nhiều việc
hơn. Tôi nhớ hồi ấy
vì cần liên lạc với ba tôi thường
xuyên nên họ đã cho nhà tôi
có đường dây điện thoại để
tiện liên lạc. Rồi thì
một tuần ba tôi đi mổ không biết hết
mấy ngày. Mỗi khi có lính bị
thương về, "đệ tử" của ba
tôi đi xe Jeep từ QYV đến
nhà tôi với một đống film X-ray. Ba
tôi giơ lên ánh sáng coi xong film là
đi ngay, và hầu hết là đi suốt
đêm. Hình như đi đến hết
ngày hôm sau ba tôi mới về.
Tôi lại nhớ đến những
người cộng sự cấp dưới của ba
tôi; họ là những người rất dễ
thương. Sau này trong những năm ba tôi bị
tù tội họ còn tìm đến thăm hỏi
hay cho chút ít quà gởi đến biếu
"Ông Thầy". Trong những người
làm tài xế lái xe cho ba
tôi có một chú tên Bình; chú
thường hay chở tụi tôi đi học và
đón về. Có một hôm
vào dịp gần Tết chú chở tôi
và đứa em trai chạy vòng vòng chơi
dưới phố, và mua cho tụi tôi một
ít hột bí, cái loại hột bí của
người Hoa nhuộm màu đen để cắn
chơi cho vui.
Tôi nhớ đến lần tôi
bị cắt A-mi-đan và sau đó được
các cô Y tá trong đó chăm sóc rất
dễ thương. Trong số mấy cô Nữ Quân Nhân
thì có ba cô tôi nhớ được
tên là Hoa, Huệ, Nở rất dễ
thương và vui vẻ. Tôi không nhớ
cô nào trong số 3 cô này, hình như
cô Nở, có người yêu đi lính, dạo
ấy nghe đâu mất tích hay chết trận
nên cô ấy khóc nức nở. Sau
năm 75 mẹ tôi có dịp gặp 1 trong ba
cô ấy, và họ có hỏi thăm đến
ba tôi. Đến năm 80 mấy mẹ con tụi
tôi dời về Long Xuyên nên không còn
liên lạc với ai nữa. Những người ấy
bây giờ họ đang ở đâu
? Họ có vượt biên đi thoát
để có một cuộc đổi đời, hay
họ bị đưa đi kinh tế mới, hay đang
sống mòn mỏi cho hết kiếp người ở
đâu đó trên đất nước Việt
Nam ?
Tôi ước gì người Việt
mình ở hải ngoại có một website
đăng danh sách và các dữ kiện
thông tin về các cựu quân nhân VNCH
đã được Mỹ cho đi theo chương
trình H.O để mọi người có thể
tìm đến nhau trong những ngày cuối đời
trên xứ người, và chia xẻ những kỷ
niệm khó quên ngày xưa khi còn là
đồng đội hay đồng nghiệp.
Ngọc Lan
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)