NGƯỜI TÙ
(Hà Thúc Sinh)
Xe về tới Sài Gòn vào
một chiều cuối năm, đến ngã ba rẽ
vào Khám Lớn thì kẹt. Người tù bấn
loạn vì mót tiểu tiện. Biết xin xỏ
lúc này vô ích, anh cắn răng chịu
cho đến lúc ướt hết đũng quần.
Cái hỉnh mũi khó chịu làm giảm nét
vô cảm trên khuôn mặt người công
an trẻ áp giải. Nhưng
chắc đã quen với phía trái
“thiên đường,” anh ta yên lặng.
Người tù nhìn ra dòng
đời ngoài ô cửa lưới. Nắng chiều óng cơn mưa
nhỏ, khói đè thấp mái quán,
bước chân người như dính lối
đi. Xa quá, tách biệt quá, cảnh
đời không hàm chứa một khơi dậy
nào cho anh, dẫu là sự tò mò gần
với bản năng, thậm chí chút buồn.
Anh quay vào như tránh nhìn
một tấm gương vừa soi rõ thân anh
như hòn sỏi, quen đến lỳ sự trầm
tích dưới sức nặng thời gian. Hai mươi mốt năm hết
nhà tù này sang nhà tù nọ, anh tự
hỏi sao lòng dửng dưng, đến nỗi buồn
cũng trắng? May, có thế chứ! Anh
vừa nghe đâu sâu trong tâm khảm máy
động chút luyến tiếc những năm đầu
tù tội. Ôi tuổi trẻ đâu cũng
là tuổi trẻ, dù tuổi trẻ trong tù.
Thân xác màu mỡ ngày ấy
gánh nặng đời chưa đè nổi hạt
mầm hy vọng. Ðó là khoảng thời
gian anh còn chia xẻ được với các bạn
bóng lồng lộng một người nữ
không có thực, còn ăn ngon lành
món ăn tưởng tượng sợ chưa từng
hưởng trong đời, còn mơ được
loài chim cánh rộng phủ mát bầu trời
ngoài khung cửa hẹp, một đốm lửa
đầu thuốc nghĩ ra cả một đám
cháy lớn, nghe ra tiếng chấn động
càn khôn của chú dế đêm tưởng
là nhỏ bé lạc loài.
Lao tù tiêu hoang đời anh nhưng anh
không chận tay nó được.
Hết rồi, mơ mộng ấy sẽ không bao giờ
còn nữa ?
“Ỉa đấy
à?”
“Dạ
không.”
“Thối
quá!”
Anh tính nói
lâu rồi anh đã xa lạ mùi thơm
nhưng yên lặng. Người công an áp giải
đốt thuốc hút một mình, một
lát lại ngứa miệng hỏi, kiểu mông
lung:
“Cuối năm sao
chuyển trại mỗi mình hả”
“Dạ đâu biết.”
“Phản động
tội to như cột đình, va sưng trán thế
kia mà cứ không biết. Trước nghề
gì?”
“Tôi dạy học.”
“À, trí thức…”
Người công an bỏ
lửng nhưng anh hiểu. Nén lắm anh mới
không bật cười. Từ bình minh nhân loại
trai săn bắn gái hái lượm, lời ca ngợi
bộ óc chế ra lưỡi dao, mũi tên,
cái thúng, cái rổ lớn mãi theo
quá trình thăng tiến, dè đâu
có lúc bị chận đứng ở cuối thế
kỷ 20. Bộ óc hoá thành đối tượng
cần thủ tiêu của chế độ. Cũng tốt
thôi! Nhưng không nên nói điều
đúng hơn vào tai kẻ vốn đã tin
lời y là đúng nhất, anh dặn lòng, rồi
anh tự xoa dịu bằng ý nghĩ y coi mình
là tội phạm nguy hiểm nhưng cấm sao
được mình coi y là một nạn nhân
đáng thương.
Xe lại chuyển
bánh. Thấp thoáng xa xa cánh cổng dẫn
vào Khám Lớn. Những hàng gòn, trứng
cá xanh quanh năm bên đàng không
giúp anh nhớ rõ anh đã trở lại chốn
cũ bao lần. Nhưng khác gì nhau dù chỗ
này chỗ nọ, khi mà chỗ nào cũng chỉ
phản ảnh mặt tiêu cực nhất của sự
căm thù vô lối ? Ðó là chỗ cũng
con người cho ăn mới được ăn, cho ngủ
mới được ngủ, cho sống được sống,
bắt chết phải chết; chỗ con người trở
lại sự trần truồng không ngượng ngập
buổi đầu đời, và sự sống
hoàn toàn tuỳ thuộc như trẻ sơ sinh,
có hiện tại mong manh và tương lai
là điều bất khả ý thức.
Xe đậu. Người
công an áp giải chà tay trên báng
súng, đột ngột lên tiếng, “Thế
nào chả gặp lại đồng cảnh cũ,
vui nhá!” Anh tính nói “tôi có
hàng triệu đồng cảnh, đâu chả gặp,”
nhưng thôi. Người công an nhìn ra
ngoài sân nhốn nháo những đồng nghiệp,
nhớ cả ngày đường tên tù
không làm phiền điều gì, anh ta buột
miệng gia ân cho tí tin vui:
“Lúc này thả
nhiều đấy, nếu được thả
tính làm gì nào ?”
“Sẽ dạy đốt.”
“Hả?”
“Cái di sản u
tối kiên cố kia.”
Người công an trẻ biến sắc. Anh ta mở
cửa, nói nhỏ với mấy đồng nghiệp,
kế hất mũi súng ra lệnh cho anh bước
xuống. “Ð.m. mày tính thiêu sống
các ông đấy!” Anh lầm lũi bước
theo một cai tù già có bộ
mặt hằn học vừa chửi xéo anh. Ðầu
anh nảy ý nghĩ vui vui: Hoá ra lão ta chưa
vô cảm.
Rời phòng giám thị lão khua xâu
chìa khoá dẫn anh về khu giam, giữa
đường nghĩ sao, bảo:
“Dám sắp được về
đấy, giữ lấy mồm mép.”
“…”
“Mà này, nếu được
đi nước ngoài, đi không?”
Anh đáp, lời như đã hờm sẵn
từ lâu:
“Không.”
“Ðiên à?”
Giọng anh hơi đanh:
“Ði hết ai dạy trẻ?”
“Dạy gì?”
“Thì dạy đốt.”
“Nữa!”
“Thế đấy, đốt sạch lao tù đã giam cầm hết tuổi
trẻ chúng ta.”
Cánh cửa sắt khép lại. Trí nhớ anh khi
không hồi phục, ít ra đủ để anh
nhớ những lần trước nó sập
cách thô bạo, lạnh lùng; lần này
nhẹ, hơi lưỡng lự nữa. Anh nhủ
lòng biết đâu có người cai tù vừa hiểu ra ngọn lửa
không tàn ác của một người
tù.
Rồi anh nằm xuống gối tay trong bóng tối,
thoáng chốc mơ lại giấc mơ vẫn
thơm cuộc đời dẫu đã trộn
mùi nước mắt, có tiếng cười tuổi
trẻ bất chấp ran ran, có loài chim tung khung cửa
hẹp phủ cánh mát trời, có lửa
cháy và nhất là có hạt hy vọng nảy
mầm vào một bình minh mới. Tiếng
dế lại vang vang, chấn động. Anh xoay nghiêng, mở mắt cười
vào góc tối, nói khẽ, “Mày, vẫn
y nguyên, không suy xuyển chút nào!"
Hà Thúc Sinh
(Bai Chuyen)