Vào Nơi Gió
Cát
(Bồ Tùng Ma)
Tác giả tên thật là Nguyễn
Tân, lớp tuổi 60', cựu sĩ quan hải
quân, định cư tại Glendale, Los Angeles, là một
trong những tác giả Viết Về Nước Mỹ
được đặc biệt quí trọng. Năm
2002, ông nhận giải bán kết và mới
nhất, năm 2008, ông nhận giải Việt
Bút, dành cho những tác giả đã
"vượt được chính mình."
Bài mới nhất của ông được viết
nhân Ngày Quân Lực 19 tháng Sáu.
“Sống ở Mỹ tôi thường nghe nói
đến sự tráo trở của người Mỹ,
nguyên nhân đưa đến ngày 30
tháng 4 năm 1975. Mỗi lần nghe nói vậy
tôi lại nhớ đến câu "Tiên
trách kỷ, hậu trách bỉ" (Trách
mình trước, trách người sau).”
Đoạn hồi ký sau đây của ông
được viết theo tinh thần “trách
mình trước”: Không lẽ, không lẽ...
***
Hôm nay gần đến Ngày Quân Lực
19 tháng 6, tôi không khỏi bùi ngùi nhớ
đến những niên trưởng, những bạn
bè, những chiến sĩ và hàng hàng lớp
lớp người đã đem đoạn đời
tươi đẹp nhất của mình hiến
dâng cho tổ quốc. Có người đã
đi về bên kia thế giới. Có người
sống vất vưởng trong tù tội. Có
người ở lại quê nhà, lê tấm
thân tàn phế năn nỉ khách qua đường
mua cho mình một tấm vé số để kiếm
món tiền hoa hồng chỉ tương
đương vài cent. Có người như
tôi đã được người Mỹ
cưu mang. Sống ở Mỹ tôi thường nghe
nói đến sự tráo trở của người
Mỹ, nguyên nhân đưa đến ngày 30
tháng 4 năm 1975. Mỗi lần nghe nói vậy
tôi lại nhớ đến câu "Tiên
trách kỷ, hậu trách bỉ" (Trách
mình trước, trách người sau). Và
tôi viết đoạn hồi ký ngắn dưới
đây.
*
Đầu tháng 11 năm 1960 tôi gia nhập
Khoá 17 Trường Võ bị Quốc gia và 8
tháng sau tôi lấy cớ thiếu sức khoẻ,
xin giải ngũ. Tôi về Sài Gòn ghi danh học
Đại học Văn khoa để lấy bài vở
về nhà học. Tôi định vừa đi học
vừa đi làm. Vì là cựu quân
nhân do ... 8 tháng quân vụ ở Trường
Võ bị Đà Lạt, tôi nộp đơn
xin việc tại Nha Cựu Chiến binh và Phế
binh. Tôi đã được chấp thuận dễ
dàng. Vậy là tôi nghiễm nhiên trở
thành một ông tham, tham sự công nhật,
và được thuyên chuyển xuống Tỉnh
Chương Thiện.
Chương Thiện là một tỉnh mới
thành lập. Các ty không chuyên môn
như nội an, hành chánh, tài chánh ...
đều tọa lạc trong một gian nhà lớn
mái tôn, ngăn cách nhau bằng những bức
vách. Nhân viên các ty và ngay cả
người ngoài, lui tới viếng thăm nơi
đây một cách dễ dàng. Thiếu
tá Tỉnh trưởng Nguyễn Hiền Điểm
cho tôi làm quyền Trưởng ty Nội an, đặc
trách Ấp Chiến lược, sau một tuần học
việc với ông trưởng ty mà tôi thay thế.
Sau đó tôi lên chức Trưởng ty.
Lúc ấy tôi chưa tới 21 tuổi căn cứ
theo giấy tờ. Tuổi thật còn nhỏ hơn.
Dưới quyền tôi có nhiều nhân
viên nam nữ, tất cả đều lớn tuổi
hơn tôi, trong số đó có một cô
thư ký trẻ nhất và khá đẹp.
Cô là nguyên nhân sâu xa làm tôi
tái nhập ngũ.
Số là có Trung uý Trần X , ở một
đơn vị quân sự nào đó gần
toà tỉnh, thường hay lui tới văn
phòng Đại uý Phó Tỉnh trưởng Nội
an Đặng (Nguyễn?) Xuân Phong và rất hay qua
Ty Nội an la cà nói chuyện với cô
thư ký trên, làm cô bê trễ
công việc. Tôi không hiểu sao Trần X
quá nhàn hạ như vậy, trong khi tôi đầu
tắt mặt tối với đống giấy tờ,
nào là "sao gởi", nào là "phổ
biến"... mà tôi rất bối rối; lại
còn phải đi thanh tra ấp chiến lược ở
những nơi nguy hiểm. Tuy vậy tôi không hề
có ý kiến gì với Trần X, không phải
vì tôi sợ ông ta mà vì tánh
tôi xưa nay vẫn dễ dãi. Vậy mà
không hiểu sao Trần X cứ "kênh"
tôi, lúc nào cũng nhìn tôi với vẻ
mặt đằng đằng sát khí, nhất
là khi gặp tôi ngoài phố. Tôi thấy
chức trưởng ty của tôi chẳng ăn nhằm
gì so với bốn hoa mai vàng Trần X gắn
trên cổ áo. Đã thế Trần X còn
nói xấu tôi. Ông ta nói với mọi
người rằng ngay cả một sinh viên sĩ
quan mà tôi làm cũng không được,
chắc tôi thuộc loại bệnh hoạn vô dụng,
không chừng mắc bệnh ... bất lực, nên
mới giải ngũ. Tức quá, tôi xin thôi
làm công chức. Tháng 4 năm 1963 tôi gia nhập
khoá 13 Sĩ quan Hải quân Nha Trang.
Sau khi ra trường tôi phục vụ tại
Đội 16 Hải thuyền, đóng tại Cửa
Tư Hiền, Quảng Ngãi. Đội 16 Hải thuyền
trực thuộc Vùng 1 Duyên hải. Tôi xin mở
ngoặc nói thêm: Từ đây tôi gọi
Đội Hải thuyền là Duyên đoàn
và Bộ Chỉ huy Vùng Duyên hải là Bộ
Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên hải
theo tên được đổi lại sau này.
Trên đường đáo nhậm
đơn vị mới tôi đã viết cho Nga một
bức thư.
Em yêu,
Anh viết thư này cho em khi thuyền vừa ra
cửa biển, hướng về phương nam, đến
đơn vị đầu tiên của anh trong đời
quân ngũ, Duyên Đoàn 16, đóng
bên cạnh một xóm nhỏ có tên Cổ
Lũy. Anh gọi "thuyền" vì anh đang ở
trên một chiếc thuyền nhỏ có tên
là Yabuta đóng theo kiểu thuyền của
người Nhật. Thuỷ thủ đoàn có 5
người, không kể anh. Thuyền trưởng
là một người khoẻ mạnh, chất
phác, đẹp trai và rất lễ phép với
anh. Nhìn viên thuyền trưởng anh liên
tưởng đến anh chàng Vọi trong truyện
Trống Mái của Khái Hưng. Các thủy
thủ khác cũng có tánh cách chung
như thế. Tất cả đều được tuyển
mộ trong đám dân chài địa
phương.
Em yêu ! Thuyền vừa đến Sa Kỳ. Mặt
trời sắp khuất về bên kia ngọn đồi
cao sát biển. Mặt biển bây giờ đỏ
rực, những đợt sóng lăn tăn như
hàng trăm ngàn con rắn bằng lửa đang
nô đùa. Từng đàn hải âu di chuyển
về phía những đám mây trắng như
đang làm một chuyến du hành lên trên
các tầng trời.
Anh có cảm tưởng như anh là
Odysseus trong sử thi Hy Lạp, còn em là Penelope.
Dù cho sóng gió hay trở ngại nào cũng
không ngăn được tình yêu của
chúng ta.
Đáng lẽ anh viết cho em nhiều hơn
nhưng những đợt sóng đã bắt
đầu lớn dần, thuyền tròng trành dữ
quá. Khi đến nơi anh sẽ viết tiếp cho
em.
Anh,
Người chinh phu đang vào nơi gió
cát
Chừng một tiếng đồng hồ sau thuyền
cặp cầu tàu Duyên đoàn 16. Anh thủy
thủ gác cầu tàu nghiêm chỉnh chào
tôi. Cái ngạc nhiên đầu tiên của
tôi khi đến đây là nhà cửa,
phòng ốc và hệ thống phòng thủ.
Toàn nhà tranh vách đất, kể cả
phòng làm việc của duyên đoàn
trưởng và duyên đoàn phó. Nhưng
sự ngạc nhiên của tôi đã được
thay thế bằng sự hồi hộp. Tôi hồi hộp
vì sắp trình diện Đại úy Võ
M, duyên đoàn trưởng, người có cấp
bậc cao hơn tôi, thâm niên quân vụ
hơn tôi và lớn tuổi hơn tôi khá
nhiều. Ông từ lục quân chuyển qua hải
quân. Sau này tôi được biết ông
sinh năm 1927, xuất thân từ Quân đội
Liên hiệp Pháp. Tôi thở dài nhẹ
nhõm khi biết Đại úy M đi vắng.
Tôi không nhớ rõ ràng về lần
gặp Thiếu uý Thiên, Khoá 12 Sỉ quan Hải
quân Nha Trang (SQHQ/NT) nên không tiện ghi ra
đây. Anh Thiên là người tôi thay thế
giữ chức Duyên đoàn phó. Tôi biết
anh Thiên từ trước. Anh Thiên quê Quảng
Ngãi, tánh tình hiền hoà, ít
nói.
Một hạ sĩ quan lân la vào gặp
tôi. Anh ta nghiêm chỉnh chào tôi, rồi
cười nói:
-Ngày mai đại úy mới về. Thiếu
uý ra chợ Tư Hiền chơi. Ngoài chợ vui
lắm.
Tôi theo anh ta ra chợ rồi cao hứng đi xa
hơn. Chúng tôi vào một quán giải
khát, chủ nhân là một cô chừng 25
tuổi có thân hình khá đẹp. Cô
ta rất ít nói, chỉ liếc nhìn hết
người này đến người khác.
Anh hạ sĩ quan kề tai tôi nói nhỏ:
-Chịu chơi lắm ! Tối cô ta nằm ngủ
ngoài hiên sau. Ai muốn tới làm gì
cô ta cũng được. Không đòi tiền,
mà cũng không cần biết là ai. Cô ta
thường nằm ... chổng mông ra ngoài cửa.
Sau đó anh ta kể nhiều chuyện buồn
cười ở đây. Đại uý Võ M
có bà nhỏ; Thượng sĩ Tr, Quản nội
trưởng kiêm Trưởng ban An ninh Tình
báo cũng có bà nhỏ. Vợ Thượng
sĩ Tr từ Đà Nẵng hay vào đánh
ghen, làm ồn ào doanh trại nhiều lần. Anh
ta nói thế nào tôi cũng có nhiều dịp
phân xử những vụ đánh ghen này.
Tôi hỏi:
-Đại uý thì sao ? Có ai đánh ghen
không?
-Bà đại uý không bao giờ
vào đây. Có bao nhiêu tiền lương
đại uý gởi về hết.
Tiếp tục câu chuyện, anh ta nói sẽ
kiếm cho tôi một cô. Có cô Ph ở
Tư Nguyên chỉ mới 18 tuổi, "ngon" lắm.
Sáng hôm sau Đại uý Võ M mới
về đơn vị. Trông ông giống như một
anh dân chài đang ... bị ốm, mắt lờ
đờ, môi thâm, nước da đen tái.
Ông mặc quân phục xanh xám. Lưng quần
lên quá rốn ít nhất cũng nửa
phân, làm bụng ông phình ra thêm. Mũ
bê-rê đen hải thuyền ông đội một
cách quá ngay ngắn trên đầu, làm mặt
ông trông ngây ngô. Tôi nghiêm chỉnh
chào ông theo đúng quân phong quân kỷ.
Ông bắt tay tôi, mời tôi vào văn
phòng. Ông nói sơ qua về tổ chức
đơn vị, về các hạ sĩ quan và thuỷ
thủ, về tình hình ta và địch. Giọng
nói của ông rè rè, làm tôi
có ý nghĩ ngộ nghĩnh là râu
ông mọc ngược trong cổ họng. Ông vừa
nói vừa hút thuốc, mắt nhìn
đâu ở phía dưới cằm tôi
làm tôi có cảm tưởng như ông ta
trình diện tôi, chứ không phải tôi
trình diện ông.
Cuối cùng ông nói, tiếng Quảng
Bình nặng trình trịch:
-Thiếu uý là duyên đoàn
phó kể từ ngày mai. Hôm nay cứ việc
nghỉ ngơi, muốn đi chơi đâu thì
đi.
Sức trai tráng, ở đây lại buồn,
tôi khó tránh khỏi chuyện vui chơi. Về
Đại uý M, hầu như tôi chỉ thấy
ông ta làm có ba việc: Ra nhà bà vợ
nhỏ ở xóm Cổ Lũy, đi họp trên tiểu
khu Quảng Ngãi hay Bộ Tư lệnh Hải
quân Vùng 1 Duyên hải tại Đà Nẵng
và tiếp các chủ thuyền buôn. Thỉnh
thoảng các chủ thuyền này cũng mời
tôi đi nhậu nhưng tôi không có hứng
thú nhậu với mấy tay này nên luôn
luôn từ chối. Có lần một chủ thuyền
đem vào biếu tôi mấy hộp giấy
đánh máy. Xuân, "tà-lọt" của
Đại uý M, nói nhỏ với tôi:
-Thiếu uý ơi, mấy xấp giấy
thì có giá trị gì. Thiếu uý coi
bên trong có gì không.
Tôi cười nói:
-Anh kiểm soát thử có chi không.
Xuân bươi mấy hộp giấy ra nhưng
chẳng thấy gì cả.
Một hôm tôi chỉ huy một toán hải
thuyền vuợt sóng lớn ra biển rồi đổ
vào bờ, bắn bị thương và bắt
được một bí thư huyện ủy
tên Khoa. Khoa không ngờ tôi dám ra biển
trong lúc biển động mạnh nên đã
bị bắt. Tôi còn nhớ lúc Khoa bị
thương, anh ta hô to ba bốn lần:
- Hồ Chí Minh muôn năm, Đảng Lao
Động Việt Nam muôn năm.
Rồi anh ta mê man nói lảm nhảm:
-Một bà tiên, hai bà tiên, ba bà
tiên.
Cuối cùng anh ta xin gặp tôi:
-Xin thiếu úy cứu tôi.
Tôi nói:
-Anh sẽ được đưa lên tiểu
khu. Như vậy là được sống rồi.
Đại úy Võ M lúc ấy có mặt
trong đơn vị nhưng tôi ngạc nhiên thấy
ông ấy không hề đến gặp Khoa mà
cũng chẳng khen tôi lấy một lời.
Hôm sau Trung tá Tư lệnh Hải quân
Vùng 1 Duyên hải vào thăm đơn vị.
Ông trao huy chương cho Đại úy M. Tôi
là người có công đầu trong việc
bắt bí thư huyện uỷ Khoa thì chỉ
được ông "khen" một tiếng:
-Hăng lắm !
Lần đầu tiên tôi thấy ông ta
đến đây với vẻ mặt tươi
cười. Những lần trước vừa mới
bước lên cầu tàu ông đã chửi:
-Mẹ nó ! Chỉ biết cái L ... Nhà
cửa, phòng ốc bê bối, công sự
phòng thủ như thế này sao.
Dĩ nhiên là ông chửi Đại
uý M. Thường thường ông đi quanh đồn,
vừa gãi mông đít vừa chửi. Tướng
đi và khuôn mặt của ông hao hao giống
George C. Scott, người thủ vai Tướng Patton trong
phim Patton. Nghe nói ông rất ái mộ Patton.
Có lẽ vì vậy mà tánh ông
nóng như ông tướng này. Được
cái ông rất năng nổ, nhanh nhẹn trong mọi
công việc và có thái độ tốt với
cấp dưới. Tôi không hiểu sao lần
nào vào đây ông cũng chửi mà mọi
việc "vũ như cẩn", vẫn nhà tranh
vách đất, giao thông hào rắn bò
không lọt, cả ba nhân vật quan trọng nhất
trong đơn vị, kể cả tôi, vẫn chơi
nhiều hơn làm việc. Dù sao tôi vẫn
ray rứt, lo lắng, có đêm ngủ không
yên. Tôi nghĩ đến hơn 100 sinh mạng
trong đồn, có cả gia đình binh sĩ.
Tôi nói với Đại úy M việc này
thì ông trả lời rằng vật liệu
chưa có.
Tôi đi quanh doanh trại, quan sát các
giao thông hào. Chỉ là một đường
rãnh chật hẹp nằm sát những mái
tranh. Sự chật hẹp của đường
rãnh này tỉ lệ thuận theo thời gian. Chỉ
cần một đặc công bò đến gần,
vất một mồi lửa hay một quả súng cối
phóng vào, nhà sẽ cháy, kho đạn nổ,
người ra tro. Có lần tôi yêu cầu
Đại úy M củng cố lại hệ thống
phòng thủ, nhất là về giao thông
hào, thì ông nói:
-Chúng chưa dám tấn công ta
đâu. Tôi biết tụi nó còn hơn biết
mấy ngón tay của tôi.
Sáu tháng trôi qua. Mọi việc
không có gì thay đổi. Cái gọi
là giao thông hào chật hẹp thêm. Những
ngôi nhà xiêu vẹo và cũ kỹ
thêm. Một hôm tôi từ cầu tàu đi
lên thì thấy một mảnh giấy ướt
sũng nước nằm vùi trong cát. Tò mò
tôi nhặt lên đọc, nhưng chỉ đọc
được đoạn giữa:
"...Mặt trận Giải phóng Miền Nam
cám ơn anh về thái độ tốt đối
với nhân dân. Mặt trận không bao giờ
quên những người góp công sức
vào sự nghiệp giải phóng..."
Tôi vội xé tờ giấy và trở về
phòng. Ngày hôm sau tôi xin đi phép. Việc
đầu tiên của tôi khi về đến
Đà Nẵng là xin thuyên chuyển khỏi
Duyên đoàn 16.
Tôi được thuyên chuyển đến
Duyên đoàn 11 đóng tại Cửa Việt.
Duyên Đoàn 11 khác hẳn Duyên
Đoàn 16 về nhà cửa phòng ốc
và hệ thống phòng thủ. Tất cả
đều được xây dựng kiên cố.
Nơi đây có sẵn một toán thợ nề
lấy trong đám hạ sĩ quan và nhân
viên Duyên đoàn. Đại uý Q,
Duyên đoàn trưởng, người cỡ tuổi
như Đại uý M và cũng xuất thân từ
Quân đội Liên hiệp Pháp, nhưng rất
năng nổ, hoạt động. Lần đầu
tiên gặp ông tôi ngạc nhiên và
suýt bật cười vì thấy ông nhai trầu
bỏm bẻm. Duyên đoàn ông chỉ huy
là một đơn vị gương mẫu. Theo
tôi, ông có một khuyết điểm lớn
là "kiêu binh" vì ông được
khen thưởng nhiều lần. Ông không muốn
nghe lời phê bình của người khác.
Ông từng gây gổ với viên Đại
úy cố vấn Mỹ, gốc Đức, có lẽ
vì anh cố vấn này đã ... cố vấn
ông hơi nhiều, làm ông khó chịu.
Viên đại úy cố vấn gây với
ông bằng tiếng Anh; còn ông chửi lại
anh ta bằng tiếng Pháp vì ông không biết
tiếng Anh. Mỗi khi hai người gặp nhau trên
đường, người nào cũng rẽ qua lối
khác, giả bộ làm gì đó, để
tránh chạm mặt nhau.
Đại uý Q cũng từng to tiếng với
Trung uý Lợi, Khoá 11 SQHQ/NT, vừa thuyên chuyển
ra làm duyên đoàn phó. Đứng
bên ngoài nhìn vào phòng ăn, tôi
thấy mặt mày cả hai người đều hầm
hầm, sau đó anh Lợi đá chiếc ghế
một cái khá mạnh. Tôi đoán chắc
Đại uý Q ra một khẩu lệnh gì
đó hơi nghiêm khắc và Trung uý Lợi
phản đối. Có lẽ Đại uý Q
tưởng nhầm Trung uý Lợi cũng như
tôi, bảo gì nghe đó. Quả thật, sau
khi thất vọng quá nhiều về Đại
uý M, tôi thấy Đại uý Q đáng
để mình phục tùng. Tuy thế sau này
tôi hơi bất mãn ông về việc ông
đã "săn sóc quá kỹ lưỡng"
vợ của một hạ sĩ dưới quyền vừa
bị tử trận.
Đơn vị kế tiếp của tôi cũng
là đơn vị tác chiến, Duyên
đoàn 15. Đơn vị này toạ lạc gần
Căn cứ Chu Lai của Quân đội Hoa Kỳ
nên tương đối an ninh. Tuy Duyên
đoàn 15 không sợ địch tấn công
nhưng lại sợ nội tuyến. Trung uý
Duyên Đoàn trưởng Hoàng Hà,
khoá 10 SQHQ/NT, đã chết vì một
trái lựu đạn gài nơi cửa ra
vào phòng ngủ.
Duyên đoàn 15 là một trong những
đơn vị phục vụ tâm đắc nhất
của tôi. Duyên đoàn trưởng là
Đại úy Hải, Khoá 11 SQHQ/NT; Duyên
đoàn phó là tôi; Sĩ quan Đệ tam
là Trung úy Quyền, Khoá 14 SQHQ/NT. Dĩ
nhiên không phải cả ba cùng đến
đây và cùng rời nơi đây một
lần, nhưng thời kỳ cả ba cùng ở
đây kéo dài gần một năm và
là thời kỳ vui nhất của tôi. Cả ba
không hề phàn nàn, bất mãn nhau điều
gì. Cả ba làm việc thật nhiều nhưng
chơi cũng không kém. Nơi chúng tôi
thường lui tới là xã Kỳ Hà, ở
đây có nhiều hàng quán với những
thiếu nữ xinh đẹp và đứng đắn.
Tôi có một kỷ niệm khó quên về
Đại uý Hải. Đại uý Hải
đã xách súng ru-lô rượt đuổi
Đại uý Quận trưởng Lý Tín Nguyễn
Đ vì bị xúc phạm gì đó
tôi không nhớ. Tôi chỉ nhớ Nguyễn
Đ mặt xanh như tàu lá cùng đám
cận vệ chạy trốn.
Sau này ở trong trại tù cải tạo,
tôi cứ than: phải chi hồi đó anh Hải
cho Nguyễn Đ một phát đạn thì nhiều
anh em trong tù không bị điêu đứng
và không bị giết như Trung uý Trân.
Ai cũng biết ở trại tù Tiên Lãnh,
Nguyễn Đ là một tay ăng-ten khét tiếng.
Sau này Nguyễn Đ được công an cho
làm "trưởng tù". Trong trại tù
Nguyễn Đ có làm bản thu hoạch, khai
mình đã nhiều lần thả cán bộ
cách mạng bị bắt. Điều này
không hẳn là láo khoét. Nguyễn Đ
đã nhiều lần thả nhiều cán bộ
Việt Cộng, nhưng chỉ thả sau khi nhận
được tiền đút lót. Năm 1982 Nguyễn
Đ ra trại và bị chết một cách
đáng ngờ ngay sau đó. Tôi từng ngạc
nhiên về việc Nguyễn Đ vào Khoá 11 Sĩ
quan Thủ Đức. Anh ta cùng học tiểu học
với tôi. Khi tôi tiếp tục học trung học
thì anh ta nghỉ học đi lang thang. Thế mà
vào năm 1967 khi tôi mới vừa lên trung
uý, Nguyễn Đ đã là đại
uý quận trưởng. Có người thấy
Nguyễn Đ mang lon đại uý, đã bắt
chước nghệ sĩ Văn Hường mỉa mai:
Nhân bất học bất tri lý
Nhỏ không học, lớn làm
đại uý
Năm 1967 (?) tôi phục vụ tại Bộ
Tư lệnh Hải quân Vùng 1 Duyên Hải.
Đại úy M đã giải ngũ. Duyên
đoàn trưởng 16 lúc bấy giờ là
Trung úy Thông, khoá 11 SQHQ/NT. Một hôm Trung
tá (hay Đại tá) Tư lệnh Hải
quân Vùng 1 Duyên Hải gọi tôi lên
văn phòng:
- Duyên Đoàn 16 bị tấn công. Trung
uý Thông và nhiều nhân viên tử trận.
Tôi thấy chỉ có anh là có kinh nghiệm
về duyên đoàn. Anh muốn thay thế Trung
úy Thông không ?
Tôi lễ phép từ chối. Tôi
nói tôi chỉ thay thế Trung úy Thông một
tuần để "thu dọn chiến trường".
Tôi đã phục vụ tại Duyên
đoàn 16, đã có nhiều "mắc mứu"
tại đó, việc này không có lợi
cho tôi cũng như cho đơn vị. Tôi muốn
nói nếu tôi ở lâu tại Duyên
đoàn 16, biết đâu tôi sẽ bị
địch móc nối; nếu không thế
thì tôi cũng bị địch tìm cách
trừ khử vì sự hăng hái của tôi
hay vì thù oán.
Tôi bước ra khỏi văn phòng tư lệnh
như người mất hồn. Tôi nhớ đến
những người thân cận trước
đây của tôi tại Duyên đoàn 16.
Tôi nhớ đến Trung úy Thông, người
có cái răng cửa sún, tóc hớt ngắn.
Tôi đã nhiều lần tiếp xúc với
anh Thông. Tôi có cảm tưởng trời sinh
anh ra để làm một sinh viên, chứ
không phải để chỉ huy đơn vị. Nghe
nói anh bị bắn trong giao thông hào hay trong một
hầm trú ẩn nào đó.
Tôi đáp một chiếc hải thuyền
rời Đà Nẵng vào Duyên đoàn 16.
Mới bước ra khỏi thuyền, tôi đã
ngửi thấy mùi cháy khét của thịt
người. Nhà cửa phòng ốc hầu hết
đã ra tro. Trong một túp lều che tạm bằng
tôn có 5, 6 cái quan tài, trên đó
những ngọn đèn cầy màu trắng
đang cháy leo lét. Thỉnh thoảng mùi trầm
hương pha lẫn mùi tử khí bay lơ lửng
theo những cơn gió vào tận trong văn
phòng.
Tôi cùng Trung úy Phương, Khoá 14
SQHQ/NT, Chỉ huy phó Duyên đoàn 16, chỉnh
đốn lại đơn vị. Phương làm việc
nhiều hơn tôi và làm một cách nhiệt
thành. Tôi còn nhớ Phương cầm hai
chân của một hạ sĩ chết sình ở
dưới nước kéo lên. Hai cái chân
có hình thù kỳ dị như cặp
chân gà vĩ đại đã được
luộc chín, nứt nẻ, lòi vài mảng thịt
ra ngoài. Phương không hề sợ hãi
và ghê tởm trong khi tôi không dám
nhìn. Sau này khi tôi trở về Đà Nẵng
"cặp chân gà" và mùi tử
khí ám ảnh tôi suốt cả mấy tuần.
Sau khi duyên đoàn thất thủ, vài
nhân viên gốc hải thuyền đã
không thấy đâu cả dù không tử
trận mà cũng không đi phép. Trong số
đó có Thuỷ thủ L, người trước
đây rất thích la cà nói chuyện với
tôi và rất dễ thương (?).
Đêm trước khi về Đà Nẵng,
tôi ra thăm Đại úy M đang ở nhà
bà vợ nhỏ. Hình như Trung uý
Phương cũng cùng đi với tôi. Tuy Đại
uý M đã giải ngũ nhưng vẫn bị
địch bắt trong một thời gian ngắn rồi
thả về. Gặp tôi, ông kể đủ chuyện
về việc bị bắt. Tôi còn nhớ một
câu nói của ông:
-Mình khó mà thắng được.
Mình như một cái chấm, còn Việt Cộng
là cả một "vạt". Tôi bị
đưa vào rừng, nhìn ngang không thấy,
nhìn lên không thấy.
Ông vừa nói vừa rót nước cam
mời tôi uống. Hai bàn tay ông đầy ghẻ
ruồi. Lúc tôi cáo từ ra về ông
vào phòng trong lấy một tờ báo
đưa cho tôi xem. Đó là tờ báo
có tên hình như "Giải Phóng"
hay "Quảng Ngãi", góc trên tờ
báo có lá cờ xanh đỏ sao vàng.
Tôi tò mò đọc. Toàn tin tức về
chiến thắng, trong đó có chiến thắng
Tư Hiền, tấn công quét sạch Duyên
đoàn 16. Suốt đêm hôm đó
tôi trằn trọc không ngủ được. Tôi
không hiểu sao ông M lại cho tôi xem tờ
báo, một tài liệu mà nếu ai lưu giữ
có thể bị rắc rối. Tôi liên tưởng
qua chuyện khác. Tại sao Đại uý M
dám qua đêm tại nhà bà vợ bé
ở xóm Cổ Lũy mà chỉ có anh
"tà-lọt" đi theo. Tại sao Đại
uý M thuyên chuyển đi rồi đồn mới
bị tấn công . Tại sao ... Biết bao nhiêu
cái tại sao nữa. Mười năm sau thắc mắc
của tôi được trả lời trong một tờ
báo tôi đọc trong trại tù cải tạo:
"... Chiến thắng san bằng
đồn Duyên đoàn 16 có sự giúp
đỡ của Đại uý ngụy Võ M
....".
Khi về Đà Nẵng tôi định
đem chuyện này nói với ông Tư lệnh
nhưng tôi cảm thấy một cái gì
như bất nhẫn, nên không nói. Ngoài
ra tôi nghĩ không lẽ những cơ quan an ninh tại
Quảng Ngãi không biết gì cả sao.
Còn An ninh Hải quân nữa, biết đâu họ
đang có kế hoạnh mật gì đó.
Thôi, đó là phần việc của họ.
Không lẽ, không lẽ ... Khi bị lùa
vào trong những trại gọi là cải tạo,
tôi cũng nghĩ "Không lẽ cả một
quân lực hùng mạnh như vậy đi
tù". Chắc chắn lúc ấy có rất
nhiều anh em cũng nói thầm hai tiếng
"không lẽ". Và chắc khi Sadam Hussein cho
đầu vào dây thòng lọng cũng
nói "Không lẽ ..."
Để tạm quên những nỗi ám ảnh,
những thắc mắc, xen lẫn những dày
vò, tôi xin nghỉ phép một tuần. Tôi
xin máy bay đi Nha Trang, rồi từ Nha Trang sẽ
vào Sài Gòn ngày hôm sau. Đã ba
năm xa Nha Trang, tôi rất muốn trở lại
thăm thành phố này, tìm lại những kỷ
niệm không dễ gì phai mờ được của
thời sinh viên sĩ quan. Tôi từng có một
mối tình tại đây. Người yêu
tôi hồi ấy chỉ mới 17 tuổi. Hồi ấy
mỗi lần gặp nhau tôi thường nói:
-Ra trường anh sẽ xin phục vụ tại
Nha Trang để được gần em.
Sau này khi tôi đến giã từ
cô để ra Duyên Đoàn 16, cô không
tin vào tai mình. Tôi còn nhớ như in
cái giọng Nha Trang của cô:
-Anh nói sao ?
Tiếng "sao" nghe như tiếng "sau".
Một tiếng đơn giản, phát âm
không lấy gì hay lắm nhưng đã
đeo đẳng tôi gần nửa thế kỷ.
Hôm ấy cô nắm áo tôi giống như
bắt đền tại sao tôi dối cô. Cô vừa
níu áo tôi vừa khóc nức nở. Cuối
cùng cô chạy nhanh vào phòng.
Đến Nha Trang việc đầu tiên của
tôi là đến thăm cô. Nhưng gần
đến nhà cô tôi quay lui. Đến để
làm gì, không chừng lại thêm một lần
níu áo với những dòng nước mắt.
Chỉ vô ích mà thôi. Tôi đã
có người yêu, tôi sẽ không đem
đến cho cô điều gì khác ngoài
những dòng nước mắt. Tôi rời khỏi
xóm cô ở, đáp xe lam đi thăm lại
ngôi trường cũ, Trường Sĩ quan Hải
quân.
Hôm đó nhằm ngày chủ nhật
nên các sinh viên sĩ quan trong các bộ tiểu
lễ trắng đang sắp hàng chờ đi bờ.
Tôi đứng trước cổng trường
mê mải nhìn họ. Trong một thoáng
tôi chỉ muốn trở lại làm một sinh
viên sĩ quan như ba năm trước đây,
khi ấy tôi chưa va chạm với những sự
thật phũ phàng ở ngoài đời, chưa
hề nghe nói đến, biết đến những
người như Trần X, Đỗ M, Nguyễn Đ
...
Bồ Tùng Ma
(Bai Chuyen)