Tên Những Nàng
Con Gái Huế
… Một Thuở
Nào
(BS Lê Văn Lân)
Tên những nàng con gái Huế một
thuở nào ! Đề
tài này tôi đoan chắc không thiếu
gì người hồi hộp nôn nóng muốn
coi vì nó đầy chất thơ mộng,
khêu gợi lại một thuở hoa niên.
Nói đâu xa, xin chỉ gọi là khai mào
nhè nhẹ thôi thì anh bạn cùng lớp
thời 45 - 52 với tôi là MinhVũ Hồ-văn
Châm - vị tổng trưởng Chiêu Hồi của
VNCH lẫm liệt ngày nào - đã để
hồn thơ lai láng của mình tuôn chảy
trong một bài nhắc đến tám nàng bạn
gái cùng lớp như sau:
Thần kinh vui đón tiết
XUÂN AN
HƯƠNG THẢO bâng khuâng quyện
lá vàng!
Gió thổi LÊ rơi đầy
thạch động
Mây đùn lệ
nhỏ ngút THIÊN HƯƠNG.
THANH HÀ một giải chia
đôi ngã
THU CÚC mười bông
đã chín tàn!
Mũi chỉ đường KIM CHI phải
bận
CẨM HÀ một bức hóa
công ban.
Té ra chàng trai trắng trẻo Quốc học
Khải Ðịnh này cũng như tôi
đã một thuở ốt dột từng “ bụi hồng lẽo đẽo
đi về chiêm bao” theo những hình
bóng nhiều o trong đó có một o
hình như tên lót chữ Phương chi
đó đã chịu về nâng khăn sửa
túi cho chàng và làm thân cò vất
vả lo lắng thăm nuôi chàng trong nhiều
năm bị cải tạo ! Ta hãy đọc lại
lời thơ tha thiết của chàng trong cái thuở
chàng đã lẽo đẽo theo
o:
Ta nhớ kinh kỳ ngày đầu thu năm ấy
Đường Lê Thái Tổ rải
hoa nắng lung linh
Bím tóc đong đưa
xuôi bờ vai nhún nhẩy
Theo bước chân em, lòng ta rợn
ngập men !
Hoặc giả một tiếng thơ khác
là Trần Thương Bá đã nhắc
đến vài o bạn gái như Ngọc Túy,
Ngọc Trinh, Ngọc Cầm , Hoàng Lan qua những kỷ
niệm sau:
Dăm ba áo trắng, đò Thừa
Phủ,
Nón
lá ngang vai, gió hững hờ
Sóng vỗ
mạn thuyền ru giấc ngủ
Trống
trường Đồng Khánh tỉnh cơn mơ
Rợp
đường long não gót ai qua
Tiếng guốc
âm vang ôi thiết tha.
Là lúc
sầu đông bừng hoa tím
Một
mùa đông nữa đã trôi xa
Vừa rồi, tôi
lại có cơ duyên biết một chuyện vui
ngày xưa về tên của hai bậc phụ nữ
thuộc lớp trưởng thượng mà tôi mạn
phép kể ra đây: đó là hai cụ
bà Công tằng Tôn nữ Tuyết Lê (phu
nhân của cố G/s y khoa Phạm biểu Tâm)
và C.T.T.N Anh Lạc ( thân mẫu của B/s Lê
đình Thương); thuở con gái, hai cụ
thường hay đi học và đi chơi chung
không rời nhau một bước khiến nhiều
chàng trai - nay đã thành những cụ
ông đã ăn thượng thọ bát tuần
từ khuya rồi ! - không dám theo đuổi
sát tán tỉnh mà chỉ bóng gió
đứng xa xa ngâm bài thơ tựa đề
là “ Le Lac” ( Lê Lạc !) của thi sĩ
lãng mạn Lamartine của Pháp !
Nói theo tiêu chuẩn
khảo cứu, chuyên đề nghiên cứu về
"Tên những nàng con gái xứ Huế"
chính là một đề tài văn hóa lớn,
đòi hỏi tối thiểu một sự thống
kê, điều tra, khảo sát, so sánh đầy
nghiêm túc và khoa học hẳn hoi. Ví dụ
như ít ra phải dựa vào sự thống
kê từ những sổ bộ đời (vital
statistics) tùy theo địa phương (dưới
quê hay trên dinh) trong một thời điểm
nào (thời cựu triều, Pháp thuộc, tiền
hay hậu chiến), điều tra về thành phần
giai tầng xã hội (hoàng phái, quan lại
Nam triều, công chức tòa sứ, giáo chức,
buôn bán hay công nhân), trình độ
giáo dục (cựu khoa bảng hay Tây học, hay
bình dân giáo dục), tôn giáo (Phật
tử hay Ki Tô hữu) … Chao ôi là bắt bộn
thứ phải làm !
Chính vì rứa
mà trong khuôn khổ một bài bút khảo
đầy tính chất tài tử tùy hứng
này, kẻ hèn tôi chỉ xin giới hạn
trên những dữ kiện thu hẹp về tên những
người phụ nữ đã từng ở Huế
mà tôi đã có cơ duyên nghe, hay quen
biết xa gần hay góp nhặt lang bang từ những
tuyển tập hay đặc san về xứ Huế trong
một thuở nào trong giới học sinh.
Tôi không
dám nói thế nào là "gốc Huế
chay" bẩy mươi hai phần dầu mà chỉ
nói là những vị "phụ nữ từng ở
Huế" một thời gian đủ để
làm "dân Huế" có "Huế
tính" vì tôi nghĩ thế nào cũng
có người hỏi vặn tôi có chắc
những tên kê ra trên là những tên của
những phụ nữ chính gốc bản địa
Huế không ? Nói của đáng tội, thiệt
khó cho tôi mà trả lời ! không lẽ
tôi lại nói đến những nàng Chiêm
Thành của châu Ô châu Rí thuở Huyền
Trân công chúa mà chỉ đành
nói là những cái tên mà tôi từng
chính tai nghe ở Huế thời thơ ấu của
những bà hay những cô thuộc lớp trước
tôi, ngang tôi hay sau tôi.
Lấy gốc gác
địa dư mà nói, ngay cả mấy công
chúa, mấy bà Tôn Nữ của nhà Nguyễn
thì gốc phát xuất từ làng Gia Miêu
Ngoại Trang, huyện Tống sơn, tỉnh Thanh Hóa
hoặc giả như mấy nàng giòng Nguyễn-Khoa
thường có lót chữ Diệu thì tổ
quán ở làng Trạm Bạc, tỉnh Hải
Dương.
Nói xa xưa
thì mấy nàng gái Huế dưới Bao Vinh
một chút thuộc họ Trần Tiễn …
chính là gốc Tầu thời Minh ! Huyện Tống
Sơn Thanh Hóa quê của nhà Nguyễn
chính là gốc Trung Hoa đời Nam Tống
trôi dạt tỵ nạn qua đảo Macao Áo
môn rồi qua Thanh Hóa, đặc biệt có họ
Tống Phước nghe quen ở Huế. Lục theo
hoàng phả, ngọc phả của phủ Tôn
Nhơn, ta thấy cả thẩy 8 phụ nữ gốc miền
Nam Kỳ tiến cung làm phi tần và hoàng hậu,
hay mấy công chúa hạ giá với các
phò mã gốc ở tỉnh khác.
Trường
hợp bà Từ Dũ là mẹ của vua Tự
Ðức người Gò Công quá rõ,
còn mẹ của gia đình gồm 4 thi sĩ trứ
danh xứ Huế : Tùng Thiện Vương và 3
công chúa Qui Ðức, Mai Am và Huệ Phổ
là bà Thục Tần Nguyễn thị Bảo
người Gia Ðịnh. Ở miệt trên Kim
Luông, có làng Nam Trung là làng của
dân Nam từ Bến nghé, Đồng Nai ra ở Huế
nhiều đời như cố giáo sư y khoa Phạm
biểu Tâm vừa tạ thế và cũng kể
luôn trong đó có bà Nguyễn Hữu thị
Lan gốc Gò Công là dân làng danh dự
mà học giả Phạm Quỳnh chọn dâng
lên cái tên Nam Phương hoàng hậu cho
hoàng đế Bảo Ðại.
Còn theo tiêu chuẩn
thời gian sinh sống thiệt gần thì lấy trường
hợp của hai cô em của tôi là Thiên
Úy và Minh Mỹ, cha mẹ mới từ Bắc
vô Huế lập nghiệp mới mẻ một đời
thì khi nghe nói tiếng Huế đặc sệt
và cách ăn mặc của hai cô đã
"Huế hóa" một cách sâu đậm
qua sự đi học hay chơi bè bạn trong tuổi
ấu thơ khó mà ai biết cha mẹ họ
là dân Bắc kỳ chính hiệu. Trường
hợp gia đình tôi cũng giống vài gia
đình Bắc ở Huế như các chị B/s
Bích Tuyết, Kim Hồng, anh bạn Ngô
đình Long hay Âu ngọc Trác hay chị
Bùi Bích Hà … Thành thử ra theo
tiêu chuẩn lấy tổ quán và thời gian
lập nghiệp ngụ cư khó mà định
nghĩa cái "Huế tính". Cái Huế
tính theo tôi là cái mẫu số chung về
cung cách ở ăn, sinh hoạt của những
người gốc bản địa nhiều đời
đã đành mà còn bao gồm những
dân ngụ cư tự nguyện có thái độ
chấp nhận "làm dân Huế mình" một
cách ngon ơ, ăn bún bò, cơm hến,
bánh bột lọc, bánh nậm chấm nước
mắm dầm ớt tươi hườm hườm rồi
hít hà, xuýt xoa không ốt dột hay cảm
thấy ngụy tặc chút mô cả rồi trầm
trầm nói: "răng mà ngon rứa thê
!"
Một đặc
thù mà tôi chú trọng để đề
cập trong bài bút khảo này là khuynh
hướng cha mẹ ở Huế thường đặt
tên cho những con gái là đa số dùng
tên
đôi, tên kép gồm hai chữ
ghép lại ở Huế phải chăng đã
nhiều hơn các nơi khác ở Việt nam ?
Ví dụ điển hình cụ thể là lấy
hình chụp của các bà học sinh lớp
đệ nhất niên Đồng Khánh 1936-1937
đăng trong tập san Tiếng Sông Hương 1988
của anh luật sư Lê chí Thảo thì
có tổng cộng 30 người (gồm bà
giáo Rérat và 29 nữ học sinh) thì
tôi chọn ra được 16 tên kép nghĩa
là 55% đứt đuôi nòng nọc rồi
như: Thu Cúc, Đào Nguyên, Vân Huyền,
Xuân Diễn, Túy Nhạn, Tố Tâm,
Phương Lan, Diệm Nga, Thoại Ba, Cẩm Lai, Kim Phụng,
Thánh Tín, Tâm Thành, Diệm Song, Phú
Xuân, Phương Thảo; kỳ dư là 13
tên chiếc một chữ như Tùng, Hựu,
Đỏ, Cam, Hy, Sung, Oai, Phú, Tảng, Ngà, Du,
Hường, Trai. Một ví dụ khác dựa vào
Tuyển Tập nhóm Phượng Vỹ "Kỷ niệm
80 năm trường Đồng Khánh", trên
hình ảnh của 11 vị Hiệu trưởng của
trường này từ 1945 - 1975, tôi thấy 6 vị
có tên đôi là Đào T. Xuân Yến,
Đặng Tống Tịnh Nhơn, Tôn nữ Thanh Cầm,
Thân thị Giáng Châu, Lê thị Tường
Loan, Phan thị Bích Đào, nghĩa là cũng
55% chớ bộ giỡn sao. Còn trong 52 hình ảnh
của những vị nữ giáo sư Đồng
Khánh trong cùng một thời gian, tôi điểm
ra được 40 vị sau có tên đôi: Diệu
Liễu, Hoa Diên, Nhân Đức, Giáng Châu,
Hỷ Khương, Như Kha, Từ Nguyên, Thanh Tâm,
Đạp Thanh, Kim Chi, Quỳnh Diêu, Khánh Tịnh,
Như Lê, Vân Trà, Ngọc Thạch, Kim Anh, Mỹ
Trang, A Trang, Phạm thị Hoàng Oanh, Nguyễn thị
Hoàng Oanh, Quế Hương, Mộng Hà, Thu
Cúc, Ngọc Khuê, Bách Diệp, Tiểu
Bích, Như Quý, Thúy Nga, Ngọc Mỹ,
Phương Chi, Tuyết Mai, Bạch Tuyết, Tuyết Anh,
Thanh Thu, Quỳnh Chi, P.N. Đông Hải, Mộng
Hoàn, Marybeth Thanh Mai, Thanh Ngọc, Chi Điền, Bạch
Hạc. 40/ 52 là tròm trèm 77%, thật là một
vườn hoa của những mỹ danh đôi.
Một đặc
thù cần nêu ra khác nữa là tên
đôi con gái Huế đặt ít khi
trùng hợp với những tên đôi
thông dụng quen nghe ở những nơi ngoài Bắc
hay trong Nam, ví dụ trong bài Vùng Kỷ niệm
của bà Hạnh Nhơn trong tập san Quốc học
& Đồng Khánh Nam California 1999, tôi nhặt ra
những tên: Nhân Lý, Kiều Miên, Lan
Huê, Diên Hy, Tiên Nhạn, Như Miên,
Bích Sen, Việt Thường; trong bài Nhớ
hoài ngàn năm của Công tằng Tôn nữ
Tri Túc, tôi cũng lượm ra hai tên ít
nghe là Phạm thị Thứ Vọng, Trần thị
Hà Long, Tôn nữ Cẩm Bàn. Riêng cá
nhân tôi, thử vận dụng trí nhớ,
tôi cũng moi ra bộn bề biết bao là những
cái tên đôi đặc biệt, chẳng hạn
như Mộng Thu, Đạm Phương, Nhân đức,
Tuyết Lê, Anh Lạc, Mộng Nhiên, Túy Thiện,
Thương Túy, Thanh Lô, Thanh Hoài, Hồng
Vinh, Trà Mi, Diệm Mi, Nga Mi, Dã Thảo, Miên
Hoa, Như Ngộ, Diệu Hồi, Diệu Phước, Diệu
Sâm, Diệu Hạnh, Diệu Điền, Diệu Cầm,
Kim Soa, Thu Sương, Thiều Anh, Lạc Nhân, Hồng
Tuyến, Dạ Khê, Lai Hồng, Bạch Trĩ, Tâm
Thường, Khánh Trợ, Phùng Mai, Bội Lan, Bội
Ngọc, TN Thượng Khanh … Ít khi trong Nam
ngoài Bắc, có những tên tương tự,
đúng không nà, bà con mình hỉ ?
Trước hết,
nói chung về cái tên con gái đàn
bà Việt nam, thì đã kể từ đầu
thế kỷ này, ta đã giảm dần tục
trọng nam khinh nữ, không còn như sử
sách xưa chép về những danh nhân chỉ
nói mẹ là người thuộc họ Bùi
(Bùi thị), hay vợ là người thuộc họ
Nguyễn (Nguyễn thị), kê họ ra mà
không bao giờ nói rõ tên. Đã qua
lâu rồi cái thời mà trên giấy tờ
hay văn kiện, phái nữ bị gọi xách
mé chung là "y thị", do đó phải
chăng hiện nay cái chữ "thị" có
khuynh hướng bị cắt đi như là một
tàn tích cổ hủ vậy vì nó vô
tình bị đàm tiếu là "thị mẹt"
! Phái nữ Việt Nam bắt đầu có
tính cách pháp nhân trong xã hội giống
phái nam ngày xưa có tên ghi vào sổ
đinh để thi hành nghĩa vụ với
làng nước.
Tôi nghĩ trước
đây ở Huế cũng giống như các
nơi khác, khi con gái còn bé mặc quần
xẻ đũng vì còn đái mế, trong
gia đình, họ vẫn có thể mang những
tên tục, xấu háy như hĩm, hến,
gái, cũn, lọ, vá, tẹt, tôm,
tép… của lớp người bình dân
quê mùa hay những tên thông tục nôm
na thân mật dễ thương "gọi
chơi" ở nhà: ví dụ theo thứ tự
sanh ra thì Chút chị, Chút em, Chút
xí; hoặc theo nghề nghiệp gia truyền như tấm,
cám, hẻo, the, lụa, lượt, là…(
tên hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhì vì
sanh ở làng chuyên nghề tằm tơ quen gọi
“kén chắc, kén nhì”) ; hoặc giả
đặt tên dính liền với một kỷ niệm
nào đó ( ví dụ như tên “
Út chòi” mà một vị hưu quan đặt
cho con gái út mà vợ ông mắc rặn
đẻ khi ông vừa ăn một ván bài
chòi ngon lành vào ngày Tết). Các vua
nhà Nguyễn khi còn bé cũng có tên
gọi chơi như Mệ Tríu (Dục Đức), Mệ
Mến (Hiệp Hòa), Mệ Vững( Bảo Đại),
và bà Từ cung húy là Hoàng thị
Cúc nhưng tên tục là Khế hồi nhỏ
ở Mỹ Lợi nên sau này trong Nội gọi cữ
trái khế là "trái khến".Nhưng
thông thường, khi mà các con gái đến
tuổi đi học, cha mẹ ở tỉnh thành cũng
thường đặt cho những tên nếu
không hay ho thì ít ra cũng nghe được,
tùy theo trình độ văn hóa gia
đình.
Có nhiều lối
đặt tên ví dụ như có vần miệng
hay tiếp ý nghĩa với tên cha mẹ hay anh chị
em như mẹ tên Lê, con có thể là
Đào, Lựu, hay Lý; chị Bưởi thì
em Bòng. Hoặc là đặt tên theo bộ sậu
của các anh chị em theo thứ tự năm sanh với
tên 12 con giáp, hoặc theo những điều
chúc phúc Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh; hay
theo tên thảo mộc quí như Tùng,
Bách, Trúc, Mai, Quế, Hòe, Cúc, Liên;
các tên chim như Phượng, Yến, Nhạn,
Thước hay tên các thứ quí kim, bảo
ngọc như Kim, Ngân, Ngọc, Quỳnh, Dao, Bích
..
Một điều
tôi xin thưa rõ ràng là tôi nghĩ mọi
người đều đồng ý rằng không
nhất thiết chỉ có tên đôi, tên
kép mới có ý nghĩa và đẹp,
mà những cái tên đơn cũng ý nghĩa
và đẹp không kém, ngoài ra chúng lại
mang một ý nghĩa gọn gàng, tiêu biểu
dứt khoát, khẳng định nữa, vì cũng
có một số người cho rằng những
tên đôi dài lê thê , chung qui là vấn
đề sở thích.
Tôi thiết nghĩ
cũng nhiều người muốn đặt tên con
đều chuyên chở một ý nghĩa cao đẹp,
tao nhã nhưng lại thận trọng, khiêm tốn
và dè dặt sợ rằng con mình không
đủ tư cách đáp lại điều
mơ ước của mình khiến thiên hạ
đàm tiếu. Hoặc giả họ cũng nơm nớp
kiêng cữ những cái tên "hoa nguyệt"
hoặc những tên quá diễm tuyệt, sắc sảo,
hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh sợ rằng
nó vận vào số mệnh "hồng nhan
đa truân". Đương nhiên, cũng
có người ít học mới giàu nổi
nhưng học làm sang không cần hiểu ý
nghĩa thâm thúy của chữ nghĩa mà chỉ
cốt kiếm cái cầu kỳ về âm thanh du
dương hài hòa của những cái
tên hay đẹp nhưng rỗng tuếch, nghĩ cũng
thật thương hại cho cái thói rởm
trong đời.
Chọn những
tên đơn một chữ đã khó thay, huống
hồ chi chọn những tên kép, tên
đôi. Ngoài Bắc trong Nam, - nhất là
cái xứ Bắc hà ngàn năm văn vật
- nói nào ngay cũng không thiếu gì phụ
nữ mang tên đôi tên kép mỹ miều,
ý nghĩa, dựa vào điển tích Nho học
sâu xa, nhưng tôi chỉ xin nói đến những
tên nghe được ở Thừa Thiên - Huế
thôi.
Trong bút khảo
này, tôi chỉ nêu ra những tên con
gái Huế theo giấy tờ khai sinh chứ không
nói đến những tên, hay bút hiệu,
bút danh mà vài cô, bà tự chọn về
sau khi ra đời, lúc bấy giờ thì họ
tha hồ, tự do hơn, không những tên hai chữ
mà còn ba bốn chữ, để nói
cái sở nguyện của bản thân. Khi còn
nhỏ đi học, đặt tên ba bốn chữ
thường rườm rà, gọi điểm danh
không gọn mà viết ra còn choáng cột,
nên rất dị òm, khiến bạn dễ
chòng ghẹo.
Muốn khảo
sát, nghiên cứu về lối đặt tên,
tôi nghĩ ta không những thống kê phải
theo thứ tự vần A, B,C, theo bộ loại về
ý nghĩa mà còn phải điều tra về
gia đình, gia cảnh, gia phong của những tên
liên hệ. Ví dụ như ta thấy vài cung
cách hay khuynh hướng đặt tên sau: Chữ
Diệu thường là của giòng họ Nguyễn-Khoa,
chữ Như của giòng Hà-Thúc ở La chữ,
chữ Diệm của giòng họ Lê Văn ở
Kim long, chữ Hồng của gia đình họ
Võ ở An Ninh Thượng, chữ Ngọc trong gia
đình Lê Khắc …Ta cũng nên điều
tra thử coi những chữ như Diệu, Tâm, Tịnh,
Như , Ngộ có phải thuộc gia đình
sùng Phật giáo không ?
Những chữ Mi
có phải là đặc biệt riêng cho gia
đình một thuở có con gái đẹp ở
đường Hàng Me không ? Đối với những
gia đình hoàng phái thì sự điều
tra còn xoáy vô gia phả tìm hiểu về
thế hệ tiền hay hậu biên, chánh hệ
hay phiên hệ, về thơ văn sáng tác
vì liên hệ đến cách thức đặt
tên theo các bộ Hán tự, theo những
bài thi làm ra gồm những chữ cho từng thế
hệ thuộc nam hay nữ.
Còn những gia
đình nổi tiếng khoa bảng, hay thi xã, thi
đàn thì nhiều khi tên đặt mang một
điển tích cổ hay lấy ý từ một
bài thi phú ngày xưa. Thường khi điều
tra thì có vẻ tọc mạch, nhưng cũng
mang lại nhiều điều thú vị, bổ
ích cho sự nghiên cứu nghiêm túc
mà tôi nghĩ chưa có thể làm
được vì thiếu dữ kiện. Những
người đầy đủ tư cách làm
công việc nghiên cứu đặc biệt về
tên những cái tên học trò là những
thày giáo, cô giáo nhiều năm ở Huế.
Ngoài yếu tố
gia đình cục bộ, người nghiên cứu
phải chăng cần phân tách những yếu tố
xã hội trong khung cảnh lịch sử, địa
lý và nhân văn: Vùng đất cố
đô Huế văn vật, thơ mộng hữu
tình đã mang một sự tương phản về
sắc thái là quá chật hẹp về diện
tích không gian đất đai kẹp giữa
chân núi và cửa biển, nhưng lại
có một chiều dày về kích thước
thời gian về lịch sử và văn hóa Nho
giáo trong 9 đời chúa, 13
đời vua từ mấy trăm năm. Nơi
đây đã từng là chốn tụ hội
thi tài của bao nhiêu sĩ tử ngoài Bắc
trong Nam đổ về để thi hương, thi hội,
thi đình. Nơi đây đã từng
là nơi vãng lai của những tao nhân, mặc
khách, nơi có những thi xã, thi
đàn, có Văn Miếu, có Quốc tử
Giám, có cơ quan Lục Bộ làm việc của
các quan lại, nhất là có triều
đình Hoàng Ðế, có Tôn Nhơn Phủ
với nhiều phủ đệ ông hoàng bà
chúa kín cổng cao tường, có lăng tẩm
với những bà cung tần nhang khói.
Những yếu tố
trên phải chăng giải thích cung cách
đặc biệt cũa những nàng gái Huế
cổ truyền mơ mộng, trang nghiêm, trầm lặng
đi ra ngoài bao giờ cũng mặc áo dài
và đội nón lá dù trời im nắng:
Người xứ
Huế yêu thơ và nhạc lễ
Tà áo
dài trong trắng nhẹ nhàng bay.
Nón
bài thơ e lệ nép trong tay
Thầm lặng
bước những khi trời dịu nắng
(Bích Lan)
Dân số của
Tôn Nhơn phủ Huế cũng theo thời gian
mà gia tăng nên hình ảnh của phái nữ
hoàng phái đương nhiên phải lọt
vào thơ văn, nói lên ít nhiều
cái cung cách Phủ Ðệ quí phái vang
bóng một thủa vàng son:
Gió cầu
vương áo nàng tôn nữ
Quai lỏng
nghiêng vành chiếc nón thơ !
(Đông Hồ)
Đất Huế trong
một thuở huy hoàng trước đây
được các tao nhân mặc khách cho
đồng hóa với ý niệm Đẹp
và Thơ, nên chúng ta không nên ngỡ
ngàng nhìn hình ảnh "thăng hoa" của
một mỹ nhân công chúa đất Thần
kinh trong lời thơ chải chuốt óng ả của
Vũ Hoàng Chương trích trong tập
"Mây" :
Bồng bềnh
mun chảy óng lưng thon,
Nhạc
tía đền vua chuyển gót son.
Yểu điệu
Hương Giang mềm nếp áo,
Trầm bay
sóng mỏng vạt trăng non.
Công
chúa - là đây mộng ngự thuyền,
Bài thơ
mờ tỏ, nón nghiêng duyên
Hàng mi
ánh phớt tình thanh liễu,
Gờn gợn
giòng thu, mắt ngọc tuyền
Môi chĩu
mùa nho ngọt ý hương
Má thơm
hồng hạnh kín tin hương.
Lòng ơi
nghe đã niềm xưa động,
Nắng
quái bờ mây gấm tịch sương
Kề song nguyệt
chếch ngủ chung giường
Kinh khuyết
trời xa trán tuyết sương.
Và ngay một
cô lái đò bình dân ở Huế với
chiếc áo dài và vành nón cũng trở
thành "yểu điệu" dưới mắt của
người thơ:
Thuyền nan
đủng đỉnh sau hàng phượng
Cô gái
Kim Luông yểu điệu chèo
(Nam Trân)
Còn đối với
những nàng con gái con nhà hay dân thường
cắp sách đi học nhất là học tại
trường École des Jeunes Filles hay tại Đồng
Khánh là ngôi trường Nữ Trung Học lớn
nhất nước mở ra từ năm 1917, họ
đương nhiên là mang truyền
thống "yêu Thơ và Nhạc, Lễ".
Lễ là cái trật tự bên ngoài,
còn Nhạc là trật tự bên trong.
Chính vì sự tôn trọng cái truyền
thống ám tàng thầm lặng về tinh thần
chuộng "yêu Thơ và Nhạc, Lễ"
đã khiến các bậc cha mẹ của
cái xứ văn vật thường kỹ lưỡng
trong sự đặt tên, không nhất thiết phải
kiều diễm, du dương nhưng ít ra nghe cũng
thanh tao, nhũn nhặn, gói ghém cái đẹp
ý nghĩa về tinh thần hơn là về thể
chất. Phần lớn các vị nếu không phải
là những vị hưu quan cựu khoa bảng thuộc
Nam triều, những gia đình hoàng phái,
tôn thất "tiếng cả nhưng nhà
thanh", những vị hàn nho từng lẽo đẽo
trường ốc một thời, thì ít ra họ
cũng thuộc giới trung lưu công tư chức
trong ngạch hành chánh mới nhưng còn chuộng
cái đẹp của nền cựu học.
Đại khái nếu
ta nhận xét chung chung về những tên
đôi của phụ nữ xứ Huế một thời
trước đây, tuy ta không hoàn toàn hiểu
cặn kẽ cái ý nghĩa uyên áo ẩn
tàng được gói ghém trong những từ
ngữ chữ nho thì ta cũng cảm nhận cái
thông điệp ca tụng cái nề nếp
Công, Ngôn, Dung, Hạnh cho người con gái
hay tinh thần chuộng cái đẹp thanh nhã,
nhàn tản trong cảnh vật thiên nhiên của
người xưa. Tôi còn nhớ câu nói
về tiêu chuẩn lý tưởng về tư
cách của một phụ nữ Huế là "thô cũng đặng, mà thanh cũng
hay", ở nhà khi cần thì xốc
vác, đảm đang chuyện nhà cực nhọc
như gánh nước, chẻ củi, bếp núc
lọ lem, ra ngoài thì áo nón chỉnh tề,
đi đứng ý tứ, nói năng lễ độ,
họp bạn thì ít nhiều cũng góp tiếng
ngâm thơ đàn hát. Phải chăng lý
tưởng này cũng đã phản ánh qua
nhiều cái tên cho phái nữ mà các
cụ muốn gửi gắm tâm nguyện dạy hai chữ
"thanh thô" hay "nhạc lễ" cho các
con gái sau này về làm vợ, làm
dâu ?
Bản thân tôi
thì học hỏi ăn đong chữ Hán
nhưng cũng mù mờ hiểu tên Minh Đức
hay Tri Túc là lấy từ câu trong sách
xưa về đạo tu thân như Tại minh minh
đức, hay Tri túc tiện túc hà thời
túc … hay Thứ Vọng nói lên cái
ước nguyện sống hài hòa trong tinh thần
hỉ xả tha thứ với tha nhân; Túy Thiện
phải chăng là mê say điều thiện hảo.
Cái tên Hồng Nghê phải chăng là
cái mầu hồng trên cái cầu vồng
mà vị thâm nho thích ngắm nhìn khi trời
mới tạnh mưa với con mắt nghệ sĩ ? Nghe
nói ở Huế có gia đình lấy chữ
Nghê đặt cho những o con gái của
mình ? Cái tên Đạp Thanh (dẵm lên cỏ
xanh non) rõ ràng nói đến sự du
xuân chạp mộ vào tiết Thanh Minh trên
núi Ngự. Tên Miên Hoa phải chăng đặt
ra là để ghi lại kỷ niệm của
mùa bông gòn nở ….
Qua việc tìm hiểu
cách đặt tên, tôi lại cơ duyên
đặc biệt hiểu thêm nhiều điều
lý thú, ví dụ như chữ Diệu nhuốm
màu Phật pháp của đại đa số cô
gái giòng Nguyễn-Khoa ở Huế ! Tôi chỉ
nói là "đại đa số" thôi,
ví dụ như bà Bội Lan ( con gái cụ
Nguyễn khoa Vy), các bà Phương Dung,
Phương Mai con gái của cụ Nguyễn khoa Du, họ
không còn Diệu nữa ! Ngược lại, cũng
có một số bà giòng họ khác
thích chọn chữ Diệu như Diệu Nhơn, Diệu
Ngãi, Diệu Lễ (em ruột b/s Quyến ?).
Vọng tộc Nguyễn
Khoa ở Huế nguyên thủy là họ Nguyễn-Ðình
có tổ quán là làng Trạm Bạc, tỉnh
Hải Dương ngoài Bắc nhưng theo chúa
Nguyễn Hoàng mà vào Nam và sau đó
cải thành họ Nguyễn-Khoa. Giòng Nguyễn-Khoa
có ông Nguyễn khoa Đăng chức Nội
Tán là vị danh nhân có công nghiệp
dẹp giặc cướp tại truông nhà Hồ
nên được dân gian ca tụng trong câu ca
dao:
Nhớ em, anh cũng
muốn vô,
Sợ
truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang !
Phá Tam
Giang, ngày rày đã cạn
Truông
nhà Hồ, Nội Tán cấm nghiêm!
Họ Nguyễn Khoa
là một giòng họ có truyền thống rất
sùng đạo Phật, ưa xây chùa lấy
công đức , thích vun xới phước điền
như ông Nguyễn khoa Thuyên tước Hiến
chương Hầu khi về hưu lập Long Quang Tự
tại Vĩnh Long mà tu. Trước khi về hưu tại
Vĩnh Long, ông đã lập một cảnh
chùa tại Bình Ðịnh là chùa Linh
Phong mà dân địa phương quen gọi
là Chùa Ông núi. Riêng đặc biệt
ở Huế vùng Tây Thượng có chùa
Ba la Mật do ông Án sát Nguyễn khoa Luận
khai sơn và tu trụ trì với pháp danh
là Viên Giác thuộc đời thứ 41
dòng Thiếu lâm Tế ở Việt nam, đệ
tử của ông về sau là sư Viên
Thành và sư Thích Trí Thủ. Về sau,
lại có ông thượng thư bộ Hộ
là Nguyễn khoa Tân từng làm chánh hội
trưởng hội Phật học miền Trung và
ông thượng thư bộ Kinh tế là Nguyễn
khoa Kỳ lập chùa An Lạc dưới chân
núi Ngự Bình. Lại có ông Nguyễn
khoa Toàn, chữ nghĩa thông thái, vẽ đẹp
, đàn hay chưa đủ lại còn kiêm
tài nắn pho tượng Phật tại chùa Từ
Ðàm nữa. Đi tu tức là như vun xới
khu đất phước đức cho con cháu,
và hạnh bố thí cho chúng nhân nên
ta không lấy làm lạ tại sao trong dòng
Nguyễn Khoa có những tên Diệu Phước,
Diệu Hạnh, Diệu Điền …
Cũng trong việc
tìm hiểu về tên, tôi lại gặp
tên Như Ngộ cũng rất nhuốm màu Phật
pháp vì "ngộ" tức là tỉnh ngộ,
thoát khỏi u mê còn "như" thì
nhắc tôi nhớ câu thơ đầu của cuốn
sự tích của Phật bà Quan Âm
Hương Tích nguyên là Chúa ba Diệu
Thiện là "Chân như đạo Phật rất
mầu, Báo ân chữ Hiếu, niệm đầu
chữ Tâm". Nhưng câu chuyện lại
khá trớ trêu, ly kỳ ở Huế thì
cái tên Nguyễn thị Như Ngộ là tên
người em gái cùng cha khác mẹ với
linh mục Nguyễn Hy Thích, tự là Sảng
Ðình tức là cha J.M. Thích dạy tại
trường Quốc học mà chúng tôi rất
kính thương. Cha Thích là con thứ hai của
cụ Thượng thư Nguyễn văn Mại, hiệu
là Lô giang Tiểu Cao, người làng
Niêm Phò hay Kẻ Lừ, tỉnh Thừa Thiên;
cụ Mại rất đông con, cả thẩy đến
25 người, con trai đều có tên lót chữ
HY cả. Cái tên tự Sảng Ðình của
cha Thích phải chăng là ngôi đình ngồi
hứng mát trên đỉnh núi Túy
Vân có ngôi chùa cổ nằm quấn
quít với mây trời ở gần làng Mỹ
Lợi, huyện Phú Lộc ? Ngồi ở Sảng
Ðình, tao nhân mặc khách có thể nghe
vọng lại tiếng sóng biển Đông từ
chân núi vọng lên, vừa tạo hồn
thơ, vừa thoát tục. Tên Sảng
Ðình khiến ta nhớ tới bài tuyệt
cú của Tùng thiện Vương làm
lúc lâm chung, thắm đượm mùi Thiền:
Bán sinh học
đạo thái hồ đồ
Thoát tỉ
như kim nãi thức đồ
Tiến Sảng
đình ba, Thiên Mụ nguyệt
Thủy
Hương lâm ảnh hữu nhân vô
(Học đạo
nửa đời thật viển vông !
Cởi
dép nẻo đường mới được
thông
Sóng chốn
Sảng Ðình, trăng Thiên Mỗ
Hương
Giang bóng mát biết hay không ?)
Gia đình cụ
Mại vốn theo Phật giáo thuần thành
nên cái tên Như Ngộ vốn là tên
mà sư của chùa Tam Thai chọn đặt cho
người em gái của cha Thích khi bà mới
chào đời năm 1902. Cha Thích tự ý
theo Công giáo và sau lại đi tu làm linh
mục là một chuyện rất trái nghịch với
truyền thống gia đình. Người ta kể rằng
khi cha còn tu ở tiểu chủng viện Cửa
Tùng ở Quảng Trị lúc 26 tuổi, một bữa
cha về thăm gia đình cụ Mại bấy giờ
làm việc ở Qui Nhơn, bị cha mẹ ngăn cấm
trở về nhà tu, nên cho người
đón đường bắt về, nhưng cha
đã cải trang thành con gái mà đi
thoát ra nhà ga mua vé về lại Quảng Trị.
Về sau, bà em là Nguyễn thị Như Ngộ
cũng chịu ảnh hưởng người anh cũng
đòi đi tu khiến gia đình một phen lại
ngăn cấm khiến bà phải trốn vô tu tại
giòng tu kín Carmel ở Kim Long.
Nghe đâu hai cụ
ông và bà Thượng Mại đã đến
nhà tu trách mắng, yêu cầu trả lại
con và còn đích thân lôi con gái về
nhà, nhưng bà Như Ngộ (sau bèn cải
ra là Nguyễn thị Ngọc) đã khóc
lóc nằm trì xuống đất nên hai cụ
cũng đành chịu thua. Bà này sau lấy
tên dòng tu là Marie de l'Eucharistie năm 1921…Về
sau, khi cụ Thượng Mại qua đời vào
năm 1945 lúc 87 tuổi lại được
chính cha Thích rửa tội cùng một lần
với cụ bà mẫu thân thuộc giòng vọng
tộc Thân Trọng.
Tôi nghĩ rằng
thuở trước đây hồi Nho Giáo còn
thịnh thì mỗi cái tên mà gia
đình nào đặt cho con, không ít
thì nhiều cũng có một sự tích hay
liên quan đến một qui cách chữ nghĩa
nào đó hay một kỷ niệm riêng tư
nào đó. Cái tên Giáng
Châu - viên ngọc trời cao ban xuống -
chính là trái măng cụt
trong Nam đem ra di thực ở Huế trồng ở
Sơn Lăng. Vua Minh Mạng rất ưa ăn nên
đã ban cho cái ngự danh "Giáng Châu
tử" (Đại Nam nhất thống chí- Phủ
thừa Thiên). Nhà vua nguyên đẻ ra là
dân Nam vì sanh tại Sàigòn phường
Tân Lộc hay tại góc hai đường Lê
quí Đôn và Trần Quí Cáp sau
này.
Nhà vua rất
mê ăn canh chua nên cũng đem trái tầm duộc trong Nam ra trồng và cũng ban cho
ngự danh là "Thanh Châu tử"
và làm thơ ca tụng trái tầm duộc với
bài "Vịnh Thanh Châu tử" trong tập
Minh Mạng thánh chế. Sở dĩ gọi là
"Thanh châu" - viên ngọc trai xanh- vì tầm
duộc lúc chín vẫn giữ màu xanh.
Còn quí bạn biết không, cái mỹ
danh "Nam Trân"
(hình như là phương danh của một vị
phụ nữ giòng Thân Trọng) chính là trái lòn bon mà vua
này cũng khoái, bắt đem trồng ở
sơn lăng.
Nghe chuyện vua Minh Mạng
với mấy thứ trái giáng châu, nam
trân, thanh châu, xin bà con đừng nhễu
nước miếng. Tầm duộc nấu canh chua với
cá lóc ngon lắm, mà cá lóc, cá
tràu thì theo Đại Nam nhất thống
chí cũng là trong Nam đem ra ngoài Huế chứ
mô nữa ! Theo kỹ sư Tôn thất Trình,
quít Hương Cần, mía Mỹ Lợi cũng
thảo mộc gốc Nam kỳ di thực. Vợ của
vua Minh Mạng cũng dân Nam nhũ danh Hồ thị
Hoa, con gái ông Hồ văn Vui người
làng Thủ Ðức. Cái tên nôm
"Vui" viết theo chữ nho là Bôi, làm
tôi nhớ đến cách nói trại ở Huế
như "thời cơm chơi ba hột cho bui hỉ
!" Bà phi Hồ thị Hoa hiền thục, hiếu
kính nên đẹp lòng vua cha Gia long nên
được khen và cải tên rằng: Phi
nguyên tên là Hoa, hoa thì chỉ nghe thơm
mà thôi, chi bằng chữ Thật ( nghĩa
là cái hột trái ) là gồm có quả
Phúc. Bà Hoa sanh ra hoàng tử Miên (sau
là vua Thiệu Trị), sanh mới 13 ngày thì
bị sản hậu mà chết lúc bà mới
17 tuổi khiến hoàng gia thương tiếc vô
cùng. Do đó hai cái tên Hoa và Thật
trở thành tên húy kỵ nên ở Huế
thường nói là huê, bông, ba, thiệt
như những cái tên Lan Huê (con gái của
cụ Tôn thất Quảng và là em của thầy
Tôn thất Hanh trường Quốc học), chợ
Đông Ba, tiệm chụp bóng Thanh Ba, kết
bông kết ba đám cưới thiệt đẹp,
ăn nói thiệt thà ! Quí bạn có biết
chỉ riêng cái tên húy một chữ
là HOA cũng là cầu kỳ lấy ý từ
bốn chữ cổ văn là “ Đặc dĩ
phương văn” ( cốt để truyền
hương thơm). Chưa hết, lúc bà Hồ
thị Hoa chết sản hậu, đứa con mới sanh
ra 13 ngày - sau này là vua Thiệu Trị - cứ
khóc riết ngày đêm nên được
ông nội Gia Long đến thăm và cho rằng
còn nhỏ xíu mà biết thương mẹ
như vậy thì lớn lên sẽ là con hiếu
nên đặt cho là DUNG.
Sau này, bà Từ
Dũ - mẹ vua Tự Đức - cũng là dân
Gò công, nên cũng đem vài thứ sản
vật trong Nam ra Huế ví dụ như cá
thác lác thịt làm chả rất ngon đem
thả nuôi ở Huế, nên ở Huế có
địa danh "Cống Thác Lác" (đọc
trại ra là phát lác) qua khỏi Quẹo Dầng
Xay gần cánh đồng trồng lúa de An Cựu.
Bà Từ Dũ đã nhờ ông cậu
Miên Thẩm (Tùng thiện Vương) chăm
sóc dùm hai thứ ngon miền Nam là
"trái Giáng Châu" và cá thác
lác để các vua chúa trong cung nội
dùng ngự thiện hay nói theo cung cách
ngôn ngữ Huế thanh bai thông dụng là
"thời" vậy.
Lý do là
Tùng thiện vương đã xin mua 12 mẫu tự
đìền để cất nhà gọi là
Phương Thôn Thảo Ðường (nhà tranh ở
xóm dậy mùi hương) và đào ao dẫn
nước gọi là Hoàng tử Pha (ao của con
trai vua), trên ao có giường tre ngồi uống
rượu ngâm thơ còn dưới ao thì thả
cá chỉ việc vớt lên làm đồ nhắm,
thiệt là thú vị. Nhân đây tôi
cũng đôi khi thắc mắc về chính tả
chính xác của vài tên như Bách Diệp
hay Bạch Diệp. Bách diệp nghĩa là
"trăm lá" không biết dựa theo một
điển cố văn thơ nào nhưng khiến
vài kẻ tinh nghịch gọi lái là "tra lắm !". Còn
nếu là Bạch Diệp (lá trắng) thì
khiến tôi nhớ lại câu ca dao:
Hồ Tịnh
Tâm giàu sen bạch diệp !
Đất
Hương Cần ngọt quí thơm cam
Ai về cầu
ngói Thanh Toàn,
Chờ em về
với một đoàn cho vui !
Sen Bạch Diệp chắc
là một giống sen quí, cánh trắng muốt
quen gọi là Bạch Liên. Hay là loài sen
Bách Diệp có rất nhiều cánh nào
đó đã được tiến kinh trồng
đặc biệt cho nhà vua ngự trà hay lấy
hột nấu chè hột sen bọc nhãn, hay
dùng ngó sen nhồi đậu xanh trong những
món bổ ngự thiện.
Chuyện sen hồ Tịnh
nhắc ta nhớ đến chuyện tương truyền
các cung tần vào mùa hạ chèo xuồng
nan để nhét trà trong những búp sen
mà ướp qua đêm rồi sáng tinh
sương hôm sau lại chèo ra lấy thu hoạch
trà đồng thời hứng những giọt
sương long lanh đọng trên tàu lá sen
làm nước pha trà ! Thôi mà gọi
là Bách hay Bạch diệp chi cũng đặng cả
vì cốt nghe để mà tưởng tượng
đến cái hậu vị ngon tuyệt vời của
chén ngự trà thơm ngát hương sen !
Vua Minh Mạng cũng khoái bông sen lắm nên
năm Minh mạng thứ 17 ngài cho khắc hình
bông sen trên Nhân đỉnh trong Thế Miếu.
Người ta phải phục nhà vua này vừa
biết "ăn" vưà biết "chơi"
thiệt đúng nghĩa yêu đương !
Nói chuyện vua,
xin nói qua chuyện dân về cái lối đặt
tên con. Tôi có một ông bạn vong
niên đặt tên con là Lạc Thư. Mới
nghe, tôi ngỡ anh thích nghiên cứu kinh Dịch
với Hà Ðồ, Lạc Thư. Ai ngờ lại
khác hẳn, anh là loại mê đọc
sách nên Lạc Thư có nghĩa là
tìm cái vui trong thú đọc sách !
Khuôn khổ giấy
không cho tôi bút khảo dông dài.
Tôi chỉ nêu lên vài đặc thù cũng
như về vài sự tích quanh những cái
tên gọi ở cái đất Thần Kinh cổ
kính mà tôi có dịp lượm lặt.
Điều này không có nghĩa là những
tên phụ nữ Việt Nam ở ngoài Bắc hay
trong Nam, kém hay, kém đẹp và không
có những nét đặc thù và ý
nghĩa riêng biệt đáng nghiên cứu
đâu ! Phụ nữ ở đâu cũng một
vưu vật của vũ trụ cả.
Nhìn chung, than
ôi, chúng ta là những kẻ hậu sinh trong một
giai đoạn lịch sử đã xoay chiều,
đối với cái chiều dầy của nền
văn học cũ uyên áo thâm thúy
thì chúng ta đành thú nhận là dốt
nát khi tìm hiểu toàn bộ những
cái tên của những phụ nữ Việt Nam -
trong đó xứ Huế đã đóng
góp một phần đáng kể trong một thuở
nào ? Phải chăng đó là những
thông điệp bằng ngôn từ chúc nguyện
hay giáo dục về trau dồi đức hạnh
cùng là quan niệm nghệ thuật trang nhã
được cô đọng gửi gắm cho lũ
con đàn cháu mà những bậc sinh
thành muốn truyền đạt để chúng
noi theo dựa vào thuyết chính danh. Riêng ở
Huế, những cái tên thâm thúy hay đẹp
đặt ra kể từ thập niên 50-60 về
trước, dần mai một, một loại
"trân quí đang bị thất truyền"
(endangered species !) về văn hóa vì cái
dư vị Nho học, cái cung cách Huế thuần
túy phai lạt hay tắt ngúm với sự ra
đi vĩnh viễn của các ôn, các mệ
thâm nho rồi.
Trong bài này,
tôi đã mạn phép kể ra nhiều
phương danh mỹ tự của những vị phụ
nữ ở Huế mà tôi hoặc là qua
trí nhớ hoặc là trích dẫn từ
các tuyển tập, đặc san về Huế với
mục đích thuần túy biên khảo.
Có thể tôi đã phạm những sơ
sót, sai lầm vô tình về chính tả
hay lời giải thích này kia nên tôi
chân thành mong quí vị hoan hỉ chỉ
giáo hay nhuận chính, hay góp ý, bổ
túc hay cung cấp những tài liệu cụ thể.
Xin muôn
vàn đa tạ.
LÊ VĂN LÂN
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)