Nói Với Anh Trong
Mùa Tháng Tư Buồn
(MBQ)
Anh bảo em hãy viết lại những cảm
nghiệm của chuyến vượt biển năm
xưa mà em cứ khất lần mãi; viện hết
lý do này đến lý do kia
để trì hoãn.
Anh có biết tại sao không ? Em sợ mình lại
khóc, khóc ngất …
Ba mươi bốn năm rồi (1975 -
2009); cứ mỗi độ tháng Tư trở về,
nỗi đoạn trường ám ảnh không
nguôi, em muốn cố quên đi mà không
được. Về hình ảnh
đêm đen mịt mùng giữa biển trời
mênh mông, những chiếc thuyền bé cỏn
con lao mình vào sóng gió,
chở theo bao khát vọng của người Việt-Nam
yêu tự-do, đi tìm đất sống. Em cũng là
một thuyền nhân, là chứng nhân trong thời
kỳ bi thương nhất của lịch-sử Việt-Nam.
Tạ Ơn Trời
! Em đã quá may mắn đến được
bến bờ bình yên anh ạ !
Còn nhớ, một đêm đầu
tháng Mười; em khởi hành từ Bến Bạch-Đằng
– Saigon bằng chiếc ca-nô (người
ta gọi là “Cá Bé”) chở một
nhóm ra Bà-Rịa, Vũng-Tàu, nhập vào
“Cá Lớn” (một chiếc tàu sắt), ba ngày đêm lênh
đênh trên biển cả, có dàn khoan dầu
Quốc-Tế giữa Thái-Bình-Dương cứu
vớt. Không ai
được mang bất cứ vật gì theo mà phải để lại hết
trên chiếc tàu ấy. Sau khi đưa tất cả
những thuyền-nhân lên chỗ an
toàn, người ta đã cho nhận chìm
nó. Đôi
giày “sandal” của em vì thế cũng
đắm vào lòng biển khơi. Một ngày
sau đó, với chân trần đi trên nền
sắt của dàn khoan dầu không quen bởi
quá nóng. Em
đã tìm cách tự làm cho mình một
đôi dép; kiếm được vài
thùng giấy bằng bìa rất chắc, em đặt
chân mình lên làm mẫu và cắt theo chiều dài chu-vi bàn
chân. Xong, em lấy kim chỉ cùng một cây kéo gấp
nhỏ xíu (là những thứ cần thiết
mà Mẹ bắt dấu trong lưng quần mang theo khi
rời nhà), rồi dùng những sợi dây nhựa
(để cột các thùng hàng trên
dàn khoan) em may và thắt nút làm quai
dép. Đang lúc
loay hoay, bỗng nghe một tiếng “bịch”,
có túi đồ từ trên hành lang của các Thủy-Thủ rơi xuống
trước mặt. Giựt mình nhìn lên, thấy thấp-thoáng
những nụ cười, cái nháy mắt
y-như các Thiên-Thần từ Trời cao ban xuống
cho em. Mở bao ra
là 3 đôi dép Nhật, vài chiếc quần
Jean và cả chục chiếc áo thun màu trắng,
có cả thuốc lá Mỹ và nhiều đồ
dùng lặt vặt khác. Họ thẩy xuống
cho em, một cô bé Việt-Nam “Country-less”,
nghèo hơn những người “Home-less”
trong xã-hội Mỹ hôm nay; lúc bấy giờ
đang tìm cách để khắc-phục những
khó khăn trước mắt sau những ngày
dài lênh đênh trên đại-dương. Em đã đem cho
các Bác, các Chú cùng tàu tất cả,
chỉ giữ lại cho mình đôi dép Nhật
dài quá khổ chân em và cái áo
thun trắng mặc qua đầu gối. Rồi cứ cách
vài tiếng họ lại thẩy quà xuống,
dường như chỉ cho một mình em trong số
phận một trăm ba mươi sáu thuyền
nhân lúc ấy anh ạ !
Cũng từ giây phút đó em tâm
niệm với Biển & Trời rằng: “Sau
này, khi ra nước ngoài được
thành đạt em sẽ chú-tâm về việc
Bác-Ái, Từ-Thiện. Sẽ theo
gót chân Mẹ Teresa (Calcutta)
để chia xẻ đến những người
khó nghèo, túng cực. Biết cho đi không chừng mực
và lãnh-nhận không phàn nàn. Để
bù trả lại phần nào sự cưu mang của
những người không cùng màu da, không
cùng giòng máu đã đối-xử
quá tốt với em.”
Như bao nhiêu thuyền nhân
khác, em đã định-cư trên những xứ
sở tự-do, no đủ. Mà sao không
quên được hình ảnh khi ở Bidong, những
chiếc thuyền tỵ-nạn đến sau em mang bao
xác người tả tơi, họ vừa đặt
chân lên miền đất tự-do là
đúng lúc trút hơi thở cuối
cùng trong tức tưởi, oan khiên anh ạ ! Bảo sao em
không buồn, bảo sao em không khóc. Ba mươi bốn năm qua
em tưởng mình đã khô dòng lệ,
sao cứ mãi trào tuôn mỗi độ
tháng Tư về ???
Cách đây mười năm, em tìm về
“Nghĩa Trang Quân-Đội Biên-Hòa”,
anh cũng biết là gia-đình em không
có thân-nhân nào chết trận nhưng em
cứ canh cánh bên lòng niềm biết ơn
và mong được một lần tạ-ơn; tạ-ơn những chiến-sĩ
Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa đã
hy-sinh trong chiến cuộc năm xưa. Những người đã chết
để cho em được sống. Những ngôi
mộ mọc đầy cỏ hoang hàng hàng lớp
lớp, đếm không xuể anh ơi. Trời ạ ! Sao các anh chết trẻ thế ? Chỉ
có mười tám, đôi mươi, tuổi
thanh-xuân đẹp nhất một đời người
đã phải lao vào hận
thù, bom đạn khốc liệt, oan khiên. Rồi nằm xuống; liệu
có nguyên vẹn hình hài ?
Hay những bom đạn vô tình
đã xé thân anh thành nghìn mảnh vỡ. Dù biết rằng qua bao
thời gian, xác các anh đã tan vào
lòng đất Mẹ.
Nhưng sao đau đớn quặn thắt ruột
gan khi em thắp hương trên từng nấm mộ tàn ?
Năm nào cũng thế,
đúng giờ Ngọ buổi trưa ngày 30,
tháng Tư. Dầu bận thế nào
em cũng phải về nhà nấu bát cơm trắng
gạo thơm ngát, tô canh
và bày trái cây, pha trà để
cúng giỗ, cầu-nguyện cho các Anh-Hùng-Tử-Sĩ. Nhất là các Vị
Tướng cùng các Chiến-Sĩ Vô-Danh của
Quân-Lực Việt-Nam-Cộng-Hòa đã tuẫn
tiết, anh-dũng hy-sinh trong trách-nhiệm và bổn-phận
để em được sống đến ngày
hôm nay. Cầu nguyện
cho linh-hồn những người Việt-Nam tỵ-nạn
không may mắn đã chết sông, chết biển,
chết trong rừng sâu núi thẳm trên bước
đường đi tìm tự do.
Hãy cùng em giao-cảm trong lời Kinh-Nguyện
cho một Việt-Nam tươi sáng hơn anh nhé !
MBQ.
(29
tháng Tư, năm 2009)
(MY LOAN sưu tầm, Việt Hải Trần
chuyển)