Tam Giác Biển
(VÕ NGÔ)
Tam Giác Biển quê tôi ,
mặc dù ba cái
hòn chụm lại thành thế chân kiềng ,
nhưng cuộc sống ba hòn hoàn toàn
không giống nhau .
Về Hành Chánh và địa
phương cũng khác: Hòn
Tre là ấp Phú Xuân Xã Vĩnh
Thanh Vân , quận Kiên Thành tỉnh
Kiên Giang . Hòn Nghệ
nằm trong xã Bình An , thuộc
quận Kiên Lương . Hòn
Sơn Rái là Xã Lại Sơn quận
Kiên Thành .
HÒN NGHỆ
Chuyện mưu sinh của dân ba
hòn cũng khác nhau. Dân Hòn Tre họ sinh sống bằng nghề rẫy
vườn , cào , lưới . Dân Hòn Nghệ
sinh sống bằng nghề cào lưới
,làm khô , tôm khô , khô cá thiều
, khô cá lem lùi , khô cá bè ,
khô đồn đột , và một số sống
về vườn rẫy . Hòn nghệ có món
mít là đặc biệt nhất ,
Mít Hòn Nghệ múi mít thịt rất dầy
, mùi lại thơm , mầu rất vàng tiếng
mít nghệ ngon cũng từ tiếng đó .
Các loài cây Hòn Nghệ không còn
vì bị người đốt làm than hết nhẵn
cây , cây hết đất
hòn mọc lên một loại , đế không
ra đế sậy không ra sậy , dân bản xứ
gọi là cây sặc . Cây sặc là một loại
cây bện nan làm vách nhà rất bền
và tốt , lá sặc bện lại làm
mái nhà cũng được , người
dân Hòn Nghệ đại đa số cất
nhà lợp lá bằng lá sặc , ngoại trừ
dăm nhà giầu , lợp mái bằng ngói
và tôn . Dân Hòn Nghệ sống rải
rác khắp hòn , không
có phân chia thành bãi như Hòn Tre &
Hòn Sơn Rái . Dân Hòn Nghệ có cuộc
sống bình dị , lặng lẽ
, không ồn ào như hòn Sơn , không nửa
thành nửa chợ như Hòn Tre . Nước
ăn , nước uống của Hòn Nghệ khá
vất vả, dân phải
đào giếng để lấy nước ăn tắm
rửa , hứng nước mưa để dành
mà uống . Hòn Nghệ có nét đặc
thù là dưới bãi gành , đâu
đâu cũng có con đồn đột (Đĩa
Biển ), đồn đột nằm ngang , nằm dọc
, loại đồn đột người dân thường
bắt làm khô đem bán cho một số
người Hoa Kiều , từ Kiên Lương hay Rạch
Giá ra mua , nghe nói giá cũng tương đối
mắc . Vì là hòn đá sỏi , cho
nên đất cũng khô cằn , cho nên
dân họ sống , bằng nghề khô là
chính , những chiếc ghe cào đi cào
cá ở tam giác biển , hay miệt Hòn Chong
, đem về bán cho người làm khô , những
người đi câu cá bè , cá thiều
, cá rách , cũng bán cho người làm
khô . Khô cá
bè cũng là một
loại khô trứ danh của xứ Rạch Giá , một miếng tí khô
bè bằng hai ngón tay , đem ăn với
cháo trắng vào lúc canh khuya , nó cũng
nói lên tự tình dân tộc ở nơi
quê hòn xa xôi thị tứ .
- Khô bè , là một loại làm khô rất cầu
kỳ , chỉ làm khô bè vào lúc
mùa nắng , vì có nắng khô bè mới
ngon , mùa mưa làm khô bè rất nan giải
, tốt xấu theo trời định .
Cá bè có
ba loại cá bè :
- Bè Trang , là loại
cá bè lớn con nhất , có con trên mười
ký lô .
- Bè Lão , là loại
cá bè có cái lưng hơi gù gù
, loại cá bè nầy nhỏ con hơn , thịt
không ngon, ít có ai làm khô .
- Bè cườm , thân cũng
giống như cá bè lão , nhưnh hình
chúng thon hơn , thân chúng có hình mầu
xám bạc , không như mầu xám nâu
như bè trang cùng bè lão .
Miệt Hòn Nghệ
gần gũi với vùng rạn nát , bên
hòn Vừng và Hòn Dung và nằm cạnh
chòm 39 hòn của Hòn Chong , cho nên loại
cá bè sinh sống rất nhiều , loại
cá bè muốn bắt chúng chỉ có
câu và lưới , cào xiệp không bắt
chúng được vì chúng chạy lẹ
hơn các loại ghe cào xiệp , lại nữa
chúng là cá sinh sống trên mặt nước
, không có xuống sâu dưới mặt biển
.
Khô bè hiện
nay rất hiếm hoi vì mỗi ngày cá
bè càng hiếm , giờ đây có muốn
ăn khô cá bè ngon chỉ có nơi chợ
Sài Gòn mới có. Có lẽ khô
bè được mang từ miền Trung vào hay từ
Côn Sơn về , chớ Phú Quốc cũng
không còn khô ngon để bán . Mà
Phú Quốc có bán cũng không ăn
được , vì người không biết muối
khô hay vì tham tăng lượng muối , cho
nên khi nhìn miếng khô có một lớp
muối trắng áo ngoài da khô . Ăn miếng
khô như ăn miếng khô mặn , thì
có còn chi là hương vị đặc
thù của khô bè .
Cách làm
khô bè :
Việc đầu
tiên là để cho con cá bè nó
sình chương da , con cá bè hình dẹp
, mà để cho đến khi nào trông con
cá đổi dạng ra hình tròn tròn
thì được .
Thọt con dao bẩy rọc
thẳng môt đường từ đầu cho đến
đuôi , tách con khô cá bè làm hai
, lại lấy dao rọc lấy phần xương sống
cá ra , tay nắm đuôi cá phần còn lại
rọc thẳng từ đuôi ra đầ cá . Xẻ
làm hai phần mỗi bên thịt cá ,
nhúng vào nước muối độ mặn khoảng
18-20 độ là
đem phơi trong 4-5 nắng gì đó khô sẽ
khô . Loại khô nầy làm rất gian nan ,
mùi xú uế của cá cũng làm cho con
người không quen cũng phát ói mửa . Nhưng khi
nướng chúng hay chiên , thì mùi vị
rất đậm đà . Lúc ghé Hòn Nghệ
tôi có thử làm một lần , nó bắt
tôi ói gần tới mật xanh , mấy cô
Hòn Nữ cười tôi gần bể bụng .
- Khô Thiều (Khô
tiêu đường)
Cá thiều
là loại cá da trơn như cá dứa ,
cá rún , cá rách , ngoài biển ,
cá tra , cá vồ , cá hú , cá trê
, cá chốt , cá basa trong sông . Loại cá
thiều là loại cá da trơn sống dưới
biển sâu , hay nằm trong rạn nát . Đầu
chúng hơi dẹp , da chúng hơi có hoa
văn mầu trắng bạc . Thịt chúng ít mỡ
, không như cá dứa hay cá rún vào
bờ đẻ , mỡ nhóc . Thịt cá thiều
rất dẻ và trắng , đầu cá thiều
nấu canh chua rất là ngon . Người dân
làm khô họ thường lấy đầu
cá thiều , và bộ đồ lòng miếng
lườn (bụng) nấu chua ăn , nhất là
cái bao tử cá ăn dòn dòn dai dai , miếng
thịt lườn & cái lá gan ăn bùi
bùi béo béo , cho nên nồi canh nó cũng
đậm đà lắm lắm vậy , còn thịt
cá thì làm khô .
Cá thiều khi ghe câu , cào , lưới
mang về đem bán cho người làm khô ,
lúc đó có con cá còn sống .
Làm khô thiều cá phải tươi mới
làm được , không như khô bè
để sình chương mới làm , còn
khô thiều cá sình thì coi như dục bỏ
, vì làm khô tiêu đường không
được . Nếu đem bỏ thì phí của
trời , lấy làm
khô mặn thì cũng ngon cơm , đâu thua
gì các loại khô cá da trơn khác .
Cách làm
khô thiều :
Cũng lấy con dao bảy
, cắt từ phía dưới cái gai trên của
cá , đưa xiên xiên về phía đầu
, rọc xuôi theo phần trên của bụng
cá , dưới phần xương sống cá
kéo tới phần kỳ dưới của bụng
cá , ngay hậu môn của cá , là
chúng ta coi như chia làm hai phần con cá . Xẻ
một đường thẳng từ đầu cho tới
đuôi cá , tách ra làm hai miếng thịt
cá ; Cắt lấy phần xương bỏ , để
miếng thịt cá phần da nằm dưới phần
thịt trên lấy con dao bảy vét từ
đuôi lên phần đầu , thịt và da
chia ra ,trên da không dính thịt , trong thịt
không có da là được . Rối thì
lóc thịt ra thành miếng mỏng , đem
nhúng vào , nước mắm muối đường
đã pha sẵn , để lên vỉ đem ra
phơi . Khi trải thịt ra phơi nhớ rải
tiêu đã đâm , rải đều lên
trên miếng thịt . Khi xưa người dân
làm khô thiều không có bỏ màu ,
ngày nay người ta làm khô lại pha thêm màu cho
nên miếng thịt khô thiều ngày nay
có mầu vàng vàng của mầu , đen
đen lấm chấm của tiêu .
HÒN
SƠN RÁI
Hòn Sơn Rái ,
tên gọi là xã Lại Sơn , có 4 ấp
Bãi Nhà , Bãi Bắc (bấc) ấp Củ Tron
, và ấp Hòn Mấu . Hòn Sơn có một
trung đội Phân Chi Khu , có một đồn Nghĩa Quân , cùng một đồn cảnh
sát . Dân Hòn Sơn Rái họ sinh sống
bằng nghề lưới , trước lưới
rùng sau là lưới rút , những chiếc
ghe đi bắt cá cơm về bán cho nhà
thùng . Hòn Sơn có rất nhiều nhà
thùng nước mắm , Bãi Bấc có
nhà thùng Đức Ngươn rất lớn . Bãi Nhà có rất
nhiều nhà thùng , nhưng nhỏ hơn Đức
Ngươn , như Hồng Thanh , Hồng Hải , Việt
Hương , đó là những nhà thùng
có từ 36 thùng trở lên , còn lại rất
nhiều nhà thùng nhỏ , mười mấy , hai
mấy thùng thì nhiều lắm . Dân Hòn
Sơn đại đa số là dân Miệt Thứ
ra sinh sống hoặc Phú Quốc vào , không
có dân Miền Trung . Ngược lại xứ Củ
Tron thì dân Miền Trung vào sinh sống rất
nhiều . Tại Hòn Sơn có thờ một Miếu
Thần Rái Cá , (nghe truyền thuyết là khi
vua Gia Long đi lánh nạn
, có con Rái cá bắt cá dâng vua , cho
nên người hay vua xây miếu thờ . ????) .
Nước Hòn Sơn cũng ăn uống từ
nước suối , nhưng nước suối Hòn
Sơn , không tinh khiết như suối Hòn Tre ,
vì nước có chất vôi rất nhiều
, dân lại
đông cho nên nguồn nước khi nắng hạn
thường thiếu . Con gái Hòn Sơn rất
đẹp , nhưng răng thì rất xấu ,
có lẽ vì ảnh hưởng của nước
chăng . Dân Hòn Sơn là dân giàu nhất
trong dân hòn ba cảng . Cây vườn
Hòn Sơn đại đa số người ta trồng
dừa , xoài , mít . Ðất hòn sơn
thì cây cối xum xuê , loại cỏ tranh mọc
như sặc bên Hòn Nghệ .
Ở Hòn Sơn
Rái, người dân họ sinh sống đại
đa số là nghề lưới rùng , đầu
thập niên 30-40 , sau chuyển qua lưới rút
khoảng giữa thập niên 60 .
Luới rùng là loại
lưới như lưới kéo trong bờ , loại
lưới nầy chỉ bủa và kéo khi
cá cơm , cá trích , cá ve vào
sát bãi . Người đánh bắt chèo
xuồng rồi thà lưới , quanh đàn
cá vào mé biển , rồi họ phăng lần
lưới lại , cho đến khi đàn cá
gom về thành một khối , họ lấy vợt lại
xúc vô khên , thúng , hay xe cây , họ
đem lại bán cho các nhà thùng để
muôí cá làm nước mắm . Khi
đàn cá cơm , cá trích hay cá ve
vô bờ , có biết biết bao nhiêu là
cá lớn theo ăn cá
, như các con cá : Thu, Ðưng, Kẽm,
Nhòng.
Người dân họ
kéo một mẻ lưới cũng có dăm con
cá lớn , họ lấy đem cho những người
phụ họ kéo lưới , (tức không phải
người đi lưới ăn chia) nếu có nhiều họ
sẽ bán ra cho dân , cho lính . Nếu nhiều
nữa thì họ sẽ bán cho ghe chứa mua
cá . Nhưng với lính thì họ hiếm hoi
lắm mới bán , họ chỉ có cho mấy
(Ông Lính) mà thôi , vì dân Hòn
Sơn cũng đại đa số là trốn
quân dịch , họ muốn cầu an để
làm ăn , cho nên phần công cực khổ của
họ , họ cũng chia chác phần nào .
Còn mấy (Ông Lính) ở Hòn Sơn cũng
rất hiền , ai làm gì thì làm họ cũng
muốn an nhàn bản thân họ , vì cuộc
sống yên bình của người dân ,
không có chiến tranh , và không có cộng
sản nơi đó .
Sau một thời gian
dài , đánh bắt cá , cá trong bờ
đã lưng , người dân mới chế ra loại
lưới rút , tôi không biết dân
Hòn Sơn hay dân Hòn Nghệ đi học kiểu
cách của Phú Quốc , xin miễn bàn vụ
nầy vì tôi không biết .
Lưới rút là loại
lưới làm bằng nilon , lỗ rất nhỏ , lỗ
lưới bằng đầu đũa ăn hay nhỏ
hơn , lưới có màu xanh . Ghe lưới
rút đi làm rất đông người , một
chiếc ghe đâu trên 20 người làm đủ
các loại công chuyện , từ Chèo Dọc
(người hướng dẫn) , Tài Công
(lái tàu), Tài Cải (thợ máy) , rồi
thợ kéo lưới , thợ xúc cá , thợ
kiệu cá , thợ nấu cơm e.t.c .
Những khu vực họ
đi rút cá không nhất thiết , khi
Phú Quốc , Củ Tron , có khi Ba Hòn .
Nhưng phần đánh bắt cá cơm
chính vẫn là tại Củ Tron , vì Củ
Tron cụm hòn có 21 cái , cho nên cá
cơm sinh sống rất là nhiều .
Phần ăn chia theo
tôi thấy nó không công bằng lắm , đúng
là người nghèo , người khổ ,
lúc nào cũng thua và lỗ .
Khi đánh bắt
được cá bán ra tiền người ta
chia như sau :
- Chia theo hệ 5-5 nghĩa
là chủ 50 % , thợ 50 % sau khi trừ đi các
loại chi phí , dầu , thức ăn , bảo
trì (vá lưới) .Chủ lấy 50 phần
trăm xong còn lại 50 phần trăm.
- Người chèo
dọc 15 %
- Tài Công 5 %
- Tài cải 5 % , thì ba
người nầy đã lấy đi hết
phân nửa của 50 % phần chia , còn lại 25 %
chia đều cho khoảng 20 người . (Vậy quí vị
có biết một người ngư phủ họ
chia một ngày bi nhiêu không , lúc
đó đồng lương tôi lãnh mỗi
tháng 17 ngàn mấy trăm , một người
ngư phủ làm mỗi ngày có thể 10 - 20
ngàn đồng , thì quý vị biết
người dân hòn Sơn họ giầu như thế
nào không ???) .
Cái câu viết
trên đá ở
Phú Quốc của ông vua nghèo chỉ có
da với lông như sau :
Sơn Bất
Cao Thủy Bất Thâm
Nam Đa
Trá Nữ Đa Dâm .
Có đúng hay
không thì cũng có người trá ,
và người
dâm biết , chớ tôi nào có biết
, tôi có biết chăng là , những người
đàn bà sống nơi xứ Hòn không
làm gì cả , chỉ có nấu cơm giặt
đồ thế thôi , còn những người con gái trổ
mã dậy thì cũng rất sớm , sớm
hơn trong thị xã hay đất liền .
Những chuyến
đánh bắt cá cơm , đem về đong
bán cho các chiếc ghe chứa , đậu lềnh
khênh để chờ trực mua cá . Cá trao ,
thì tiền lấy liền , chia liền , cho nên mỗi
người ngư phủ lúc nào cũng có
tiền trong tay , số tiền mà các ngư phủ
làm được quá nhiều , cho nên những
tệ nạn mua bán hàng-không-vốn cũng
tương đối thịnh hành . Rồi thì
bia bọt , nhậu nhẹt , bài bạc , bi da cũng
mọc lên như nấm mèo trên cây sua
đũa khi mùa mưa lại đến tại xứ
sở buồn hiu , chiều chỉ biết có
trông biển trời
mây nước .
Nước mắm ,
là một món ăn rất thịnh hành trong
mỗi người chúng ta , trên vai lúc
nào cũng có vác chai nước mắm , mũi
chúng ta cũng đã từng làm quen mùi
vị khó ngửi nầy cũng đã lâu .
Cho nên nếu nói tới nước mắm
thì phải nói là dân Việt Nam ,
Tàu, Thái , Mã , Bồ , Mễ , Mỹ , Anh
hình như nước nào cũng có món
mắm , nhưng món nước mắm có lẽ
họ bắt chước người Việt Nam thì
phải . Nước mắm có thể có từ
thời xa xưa lắm , bắt nguồn từ Giống
Dân Lạc Việt bị đô hộ Giặc
Tàu , chúng bắt người dân đi
mò ngọc trai cho chúng , thế nên giống
dân Lạc Việt xưa chế ra một loại
nước uống để chống lạnh đó
là nước mắm . Và rồi theo giòng thời
gian biến chuyển dần , con người của giống dân lạc Việt
cũng thiên di vào Nam và cá lớn nuốt
cá nhỏ , cá nhỏ ăn cá bé .
Vì thế hai phần cuối của đất nước
Việt Nam là mới khai khẩn sau nầy , còn
phần Lạc Việt xưa đã bị giặc
Tàu nuốt mất , vậy mà nay chúng
còn thò chiếc lưỡi dài ra đưa
liếm luôn hai quần đảo Hoàng , Trường
Sa của Việt Nam , và chúng nói là của
chúng . Thế mà .. người tự cho mình
là thương dân mến nước , lại
câm như hến , không dám mở miệng sợ
cặn bã trôi tuốt vào mồm , vì thế
sẽ bị sình bụng no hơi . Ôi đời
thì cũng chỉ có thế mà thôi .
Làm Nước Mắm
Tôi thì
không rành lắm về chuyện nầy , chỉ
có thấy người dân muối cá dăm lần
, lại nữa cũng đã hơn 35 năm cho
nên trí nhớ của tôi đã còi cọc
, tôi chỉ ghi lại qua trí nhớ , cho nên cũng
có thể tôi sai . Quý vị nào , có
ai biết xin tâm thành hướng dẫn hộ ,
tôi rất biết ơn .
Dân Hòn Sơn
họ muối nước mắm , sự đong lường
bằng hệ Kiệu (khên), 1 kiệu cá có
hai khên , mỗi khên chứa một giạ 40
lít nghĩa là mỗi kiệu có 80 lít
cá . Khi ghe về bãi có một số người
kiệu cá mướn làm hay là những
người thuỷ thủ làm , tuỳ theo người
mướn người , hay mình tự làm , phần
nầy là phần của người thuỷ thủ
phải trả , chớ chủ không bao giờ chi ra một
cắc .
Kiệu cà hai
cái cây dài làm cho vừa đôi vai
người , và khi kiệu cá cũng phải
có hai người , trước và sau , hai
khên cá để ngay chính giữa , cứ thế
mà đi lên nhà thùng (chỗ chứa
thùng để làm nước mắm) đến
nơi họ đưa cá lên miệng thùng ,
có hai người chực chờ nơi đó
để muối cá , họ lấy hai khên
cá , và đổ vô đó , một
thúng muối , đâu khoảng 20 lít , rồi
thì họ trộn đều , và đẩy
cá xuống thùng chứa . Cứ thế mà
làm cho đến khi thùng cá đầy , họ
đậy nắp lại , dăm ba ngày họ sả
nước bổi. Ðâu khoảng một năm
gì đó cá chín và họ ra các
lu lớn phơi nắng , họ thêm đường
hóa học , màu rồi vô chai hay tỉn , khi
xưa người ta dùng tỉn , mỗi tỉn
nước mắm đâu 2.8 hay 3 lít . Và sau nầy
họ dùng thùng nhựa (plastic tank) 20 hay 25
lít , hay vô chai để đem ra thị thành
bán , thậm chí xuất ngoại .
CỦ TRON
Củ Tron là một
chòm hải đảo , (quần đảo) trong
sách cụ Le Nestour
nguyên văn như sau : "ngoài khơi
Hòn Rái có nhóm đảo tên là
Paulo - Damas có nhiều đảo nhỏ và nhỏ
tí ti , độ mười hòn" . Trong
sách ghi là có khoảng mười đảo
, nhưng tôi ở trên chóp hòn lớn (Củ
Tron) có đếm là quần đảo nầy
có tất cả 21
hòn , vì lâu quá cho nên tôi không
còn nhớ hết tên các hòn . Hòn Củ Tron sau nầy
gọi là quần đảo Nam Du , trước
đó là Paulo - Damas dân sống thưa thớt
, họ sinh sống nghề
làm lưới cá , khô , tất cả
các loại khô , ngoại trừ tôm khô họ
không có làm . Củ Tron là một quần
đảo , cho nên chung quanh đảo có những
dải rạn cùng dải san hô cho nên những
con cá đầm ,
cá nổi sinh sống rất là nhiều như :
- Cá đầm
có cá đổng , cá đưng , cá cam
, cá sạo sảnh , sạo vàng , cá
đù , cá óp , cá sóc nanh ,
cá gộc , cá hố
, cá kẽm , cá đỏ , cá hồng ,
cá hường , cá thiều , cá mú ,
cá đuối , cá giống , cá bồng ,
cá nhám cào (cá búa), cá nhám
. Cá đầm là loại cá sống dưới
đáy biển .
- Cá nổi có cá thu , cá thu
cờ , cá lem , cá ảo , cá ngân bột
, ngân chỉ , cá ba thú , cá bạc
má , cá rựa , cá ngừ , cá nược
, cá bè , cá
cơm , cá ve , cùng cá trích .
Dân Hòn Củ
Tron là dân của tứ xứ về đó
làm ăn , phần chính là về đó
bắt cá , những chiếc ghe du đến bắt
cá rất nhiều , những mái chòi mọc
lên vội vã , khi thì ở Hòn Lớn ,
lúc thì ở Hòn Ngang , khi qua Hòn Tre , trở
lại Hòn Đầm , hay Hòn Mấu . Mặc
dù dân sống rất thưa thớt , nhưng
đâu đâu cũng có quán xá ,
đâu đâu cũng có quán bán bia ,
bàn bi da . Nhiều nhất
là ở Hòn Lớn , sau là hòn Mấu ,
có hai hòn là không có người ở
đó là Hòn Nhàn , Hòn Khô .
Hòn Nhàn tôi cũng có qua đó nhặt
trứng nhàn dăm ba
lần , trứng nhàn (Chim Hải Âu) rất nhiều
, nhiều đến nỗi không thể tưởng
tượng , muốn lấy bao nhiêu cũng có . Trứng
nhàn trông nó giống loại trứng cút ,
có bán trong mấy tiệm tạm hóa ,
kích cỡ thì cũng như vậy , tôi
không biết họ bán trứng đó là
trứng con chim cút , hay là trứng của chim hải
âu .
Lưới Ba Thưa cũng là loại lưới
rút , nhưng lỗ nó to hơn , nó ít cản
nước hơn là lưới rút cá
cơm , vì lỗ thưa rút nhanh mới bắt
được những con cá chạy lẹ , như
cá ba thú , bạc má , thu , lem , ngừ , ảo
. ngân bột , ngân chỉ .
Những chiếc ghe
làm lưới ba thưa họ thường đi
đánh bắt vào ban đêm , vì ban
đêm họ dễ tìm bầy cá để
bao hơn là ban ngày . Đọc tới
đây qúy vị ,
chắc có lẽ cho tôi là thằng xạo
, ban đêm thấy đường đâu mà
đi bao đi bắt . Loại
cá ban đêm nó toát ra một loại dạ
quang , mà người dân biển họ gọi
là ngời cá , người chèo dọc hắn ngồ
trên cây cao ngất ngưởng của chiếc ghe
, 4-5 thước chiều cao , cho nên hắn trông
được rất xa
trên mặt biển . Cụm
cá hay chòm cá , gọi là cá ăn bầy
, chúng nó gom tụ lại thành một khối
, to hay nhỏ thì tuỳ theo số lượng
cá . Ban đêm
vì số đông những phần dạ quang của
cá tuy nhỏ , nhưng chúng đông , cho
nên chúng tạo ra một vùng ánh
sáng trên mặt
nước . Khi người chèo dọc thấy
cá thì hắn sẽ thổi còi inh ỏi ,
để báo hiệu những người ngư phủ mà chuẩn bị , rồi
thì đâu đó trong tư thế sẵn
sàng , và người tài công lắng nghe
từng hồi của chiếc còi mà làm theo
: hắn thổi một tiếng ghe quẹo phải , thổi
hai tiếng ghe quẹo trái , thổi một tràng
dài thì ghe chạy thẳng , khi bao lưới
vòng lơi hay vòng nhặt , thì tuỳ theo nhịp
điệu nhặt khoan của hắn , chỉ có
người tài công
biết , hắn muốn
gì , tới , thẳng , cong , quẹo thì cũng
phát đi mệnh lệnh là chiếc còi của
hắn đang thổi .
Mỗi đêm mỗi
chiếc ghe lưới rút ba thưa đi bắt
cá hàng tấn cá hay hơn nữa mỗi chiếc . Sáng họ đi
bán cá , trưa họ ngủ , chiều họ
đi chơi , tối họ đi bắt cá , cứ
thế mà tuần tự .
Ở Củ Tron những
chiếc ghe lưới quàng họ đi giăng bắt
cá Giống , Cá Bồng , Cá Đuối ,
Cá Nhám , về hòn họ xẻ thịt
làm khô thỏi , họ phơi giăng giăng theo
đầu gành mé bãi . Những người
làm câu Thi Kiều , cũng đi giăng bắt những
con cá đầm , và họ về cũng làm
khô , thịt cá họ làm khô , gan cá
họ làm dầu , vi cá họ là loại
quí hiếm . Nhất là loại vi của cá
giống . Vi cá người ta cũng phân loại
, mắc nhất là loại vi cá giống , cước
của vi cá giống rất trong và dài , cho
nên người Hoa Kiều rất quí . Vi cá
nhám không quí lắm , và khô của
cá nhám giá cũng bèo .
Hình như những
món ăn đặc sản của Việt Nam , bị
chi phối bởi người Tàu rất nhiều .
Có phải chăng những tài nguyên thiên
nhiên lẫn hải sản của Việt Nam là những
món mà người Tàu rất cần , cho
nên họ suốt mấy ngàn năm trong đầu
họ lúc nào cũng
muốn xâm chiếm lãnh thổ của Việt Nam
. Và có phải chăng dân Việt Nam
mình đời nầy qua đời khác cứ
đưa cổ cho lũ Hán Man cứa , đưa
đầu cho lũ Hán Man đạp , và chó
chỉ biết ăn c .. chó , chớ chó không
biết bắt rợ Hồ.
.
VÕ
NGÔ