|
|
|
TRANG TỬ Cuối tuần đọc sách cổ
văn Ngẫm xem thế sự thăng trầm
đổi thay Chuyện xưa nối với chuyện
nay Người xưa so với người
nay khác gì ? (MD ) Cuối đời nhà Chu, tại ấp
Mông, nước Tống, có một người họ
Trang tên Chu, tự Tử Hưu, làm quan dưới
triều nhà Chu. Trang Tử thờ vị thánh
Lão Đam, vị thánh này trước
tác bộ “Đạo Đức Kinh” và
người đương thời tôn xưng là
Lão Tử. Trang Chu ngủ ngày thường nằm mộng
thấy mình hóa bướm, bay nhởn nhơ
trong không trung bèn đem việc ấy hỏi
thày. Ông thày đó là một vị
chân nhân, thông hiểu cả vũ trụ,
nên nghe xong, ông ta giảng giải : - Nguyên thuở trời đất mới
phân, âm dương vừa định, thì có
một con bướm trắng hút hết tinh túy
của các loài hoa, đoạt khí thiên của
nhật nguyệt, tạo thành một nguyên tố
trường sanh bất tử. Con bướm trắng ấy một hôm lại
đến cung Dao Trì hút nhụy hoa bàn
đào của Tây Vương Mẫu, nên bị
con chim thanh loan giữ vườn mổ chết, hồn dật
dờ xuống cõi trần mà đầu thai ra
ngươi đó. Trang Chu nghe nói như tỉnh giấc chiêm
bao, đầu óc cởi mở, quan niệm được
những nét huyền diệu của vũ trụ,
bèn đóng cửa tu hành, về sau trở
thành một nhà đạo học cao siêu. Lão Tử thấy học trò đã giác
ngộ, nên đem bộ học thuyết kinh năm
ngàn chữ và tất cả sở đắc của
đời mình truyền lại cho Trang Tử. Trang Chu
được truyền dạy, gắng tu luyện,
nên thể nhập được lẽ biến
hóa của thiên nhiên, thông suốt định
luật sanh khắc của ngũ hành. Tuy theo đạo “Thanh tĩnh vô vi”
nhưng Trang Chu không bỏ cái thuyết
“âm dương thuần nhứt” nghĩa
là vũ trụ phải có âm có
dương thì loài người phải có vợ
có chồng. Trang Chu lấy ba đời vợ :
người thứ nhất bị bịnh chết, người
thứ hai vì phạm lỗi bị bỏ, người
thứ ba là họ Điền. (Trang Tử sang du lịch
nước Tề, Điền Tôn là một
người rất trọng học vấn, thấy Trang Tử
thông minh đem lòng yêu mến gả con
gái mình cho Trang Tử. Điền thị là
một nàng tuyệt thế giai nhân, tuy Trang Tử
không phải là người háo sắc song cũng
yêu thương vợ lắm.) Thời ấy Sở vương nghe tiếng đồn
Trang Tử là bậc tài danh, nên cho người
đến thỉnh về triều, gia phong tước lộc,
ngõ hầu cứu dân độ thế. Tuy
nhiên, là bậc tu hành, Trang Tử đâu
có thiết tha gì đến bả vinh hoa phú
quí, nên từ chối ngay, và dẫn vợ về
trú ngụ nơi Nam Hoa Sơn thuộc địa phận
Tào Châu, để sống một cuộc sống
an nhàn ẩn dật. Một hôm, thẩn thơ nơi sườn
núi, Trang Tử gặp một thiếu phụ mặc
đồ tang, đang ngồi cầm cây quạt, quạt
một nấm mồ mới đắp, đất chưa
ráo. Trang Tử lấy làm lạ hỏi : - Tại sao nàng lại ngồi quạt nấm mồ
ấy làm gì thế ? Thiếu phụ đáp : - Chồng thiếp không may chết sớm, nắm
xương tàn chôn cất nơi đây.
Lúc sinh tiền đang nồng duyên hương lửa,
chồng thiếp có dặn rằng nếu rủi ro
mà chồng thiếp có mất sớm thì
hãy đợi cho nấm mồ lên cỏ
đã, rồi hãy tái giá. Nay chồng thiếp
rủi mất mà gió mưa tơi tả biết
bao giờ nấm đất nầy khô để cho
loài cỏ mọc lên được. Mà ba thu
đằng đẵng; đêm xuân một khắc
ngàn vàng, tiện thiếp chờ sao được
! Vì vậy thiếp mới quạt cho đất
khô, để cỏ mau mọc, chừng ấy dẫu
thiếp có tái giá thì cũng khỏi phụ
lòng người chín suối. Trang Tử nghe dứt lời, thở ra một
hơi dài não nuột, trách cho lòng
người đời sớm bạc tình, và
nói : - Nếu nương nương muốn cho đất
khô ngay không có gì cả. Kẻ bất
tài này xin quạt giùm cho. Thiếp phụ nghe nói mừng rỡ, trao chiếc
quạt the cho Trang Tử. Trang Tử vận dụng hết
“bản ngã” hướng vào nấm mồ,
dùng phép quạt mấy cái, nấm mồ tự
nhiên khô ráo, đồng thời cỏ xanh lấm
tấm nảy chồi. Thiếu phụ mỉm cười, mặt
tươi như đóa hoa buổi sáng, quỳ
xuống tạ ơn Trang Tử và nói: - Tiện thiếp mang ơn tiên sinh rất trọng,
nơi đây biết lấy gì đền ơn.
Vậy xin tặng tiên sinh chiếc quạt này. Vừa
nói, thiếu phụ hai tay vừa nưng chiếc quạt
lên ngang mày, rồi hớn hở ra đi. Trang Tử cầm cây quạt the ngắm
nghía, lòng nao nao một nỗi buồn khó tả.
Cho hay sự đời chỉ là một bức
màn thưa, ân tình chỉ là một lớp
vỏ che đậy những bản năng dục vọng
kinh tởm của con người. Về đến nhà, Trang Tử vẻ mặt lạnh
lùng, trước khi bước vào mái
hiên, ngâm mấy câu : Bất thị Oan gia bất tụ đầu Oan gia tương tụ kỷ thời
hưu ? Tảo tri tử hậu vô tình
nghĩa Tựu bả sinh tiền ân ái
câu Nghĩa là: Nếu chẳng oan gia đâu gặp
nhau Oan gia ràng buộc được
bao lâu ? Nếu hay lúc chết không
tình nghĩa Thì sống thà đừng
ân ái nhau. Thấy mặt chồng bước vào nhà
rầu rầu, lại vừa ngâm thơ, vừa cầm
cây quạt the, Điền thị ngạc nhiên hỏi
: - Tại sao chàng đi chơi về lại buồn
bã như thế. Chiếc quạt kia ở đâu
vậy ? Trang Tử đem chuyện thiếu phụ quạt mồ
kể lại đầu đuôi cho vợ nghe, và
nói thêm rằng : - Đây là cây quạt bạc tình,
mà thiếu phụ ấy đã tặng cho ta. Điền thị nghe chồng kể đầu
đuôi nổi giận, mắng rằng : - Cái thứ đàn bà quỷ sứ ấy,
chồng chết nấm mồ chưa xanh cỏ
đã toan bề ân ái, thật là khốn
kiếp, lẽ ra thứ ấy phải giết đi rồi
đem thả trôi sông để khỏi làm nhơ
cho giới phụ nữ. Trang Tử nghe vợ nói, chỉ cười
không đáp, buồn bã ngâm tiếp mấy
câu thơ : Sinh tiền
cá cá thuyết ái ân, Tử hậu
nhân nhân dục phiến văn Họa hổ
họa bì nan họa cốt, Tri nhân tri diện
bất tri tâm. Nghĩa là: Khi sống người
người khoe ân ái Lâm chung kẻ
kẻ muốn quạt mồ Vẽ cọp, vẽ
da xương khó vẽ, Biết người,
biết mặt, biết lòng mô ? Điền thị nghe mấy
câu thơ càng thêm cáu tiết, hơi giận
phừng phừng, trách chồng sao lại đem những
hạng đàn bà mất nết ấy mà so
sánh với mình. Dễ thường tất cả
đàn bà trong xã hội ai cũng thuộc
vào loại đó sao ? Trang Tử mỉm cười,
nói : - Thôi đừng
có làm giận làm hờn mà chi. Tôi
giả thử, nếu mai kia mốt nọ, rủi tôi
mà có bất hạnh đi rồi, liệu
đóa hoa hải đường kia đang độ
phơi phới hơi xuân, có thể phong kín nhụy
hương mà chờ quá hạn thiều quang
chín chục đó không ? Điền thị cắn
môi, phì cười nói : - Nếu đã
là trung thần thì không bao giờ thờ hai
chúa, gái tiết trinh bất sự nhị phu. Nếu
bất hạnh mà chàng có rủi ro điều
gì thiếp xin cam phận đến già, chứ
không bao giờ nghĩ đến những chuyện
đê hèn như vậy. Trang Tử nghe vợ
nói, cười xòa tỏ ý khó tin.
Điền thị tức giận chụp cây quạt
xé nát rồi nói : - Để làm
gì cái đồ phụ bạc này, nhìn
thêm nhơ mắt. Chỉ có lúc chàng chết
đi mới rõ bụng người đàn
bà này tiết hạnh dường nào ! Trang Tử nói : - Thôi ! nàng đừng
giận dữ làm gì ! đó là ta thử
lòng nàng đó thôi, nếu quả
nàng có lòng trinh tiết như vậy
thì còn gì quí hóa bằng. Tuy nói thế,
nhưng nét mặt Trang Tử từ đó vẫn
không phai màu chán ngán ! Chẳng bao lâu, Trang
Tử lâm bịnh, mỗi ngày một trầm trọng
thêm. Điền thị cả ngày sùi sụt
bên giường. Một hôm, Trang Tử
gọi vợ đến nói : - Bịnh tôi
đã nguy ngập, không thể sống được
lâu, rất tiếc là cây quạt mồ
không còn để nàng dùng mà quạt
cho nấm mồ tôi xanh cỏ, để nàng sớm
được tái giá cho khỏi tiếng tăm
người đời dị nghị. Điền thị vừa
khóc vừa nói : - Xin chàng cứ tịnh
dưỡng chớ có buồn bã như thế
mà tổn hại tinh thần. Thiếp là một
người có học, biết chữ “Tùng
nhất chi chung”, lẽ đâu lại làm
được chuyện đê hèn như thế,
nếu chàng không tin, thiếp xin tử tiết
trước mặt chàng để chàng trông
thấy tấm lòng chung thủy. Trang Tử hổn hển
nói : - Lòng nàng
đã như thế thì dẫu có nhắm mắt,
tôi cũng an lòng. Nói xong, Trang Tử tắt
thở. Điền thị lăn lóc than khóc rất
não nề, bi ai, thống thiết. Nàng mặc
đồ tang, lo việc khâm liệm, quàn quan
tài nơi giữa nhà để phúng điếu. Qua mấy ngày,
Điền thị khóc sướt mướt, bỏ
ăn bỏ ngủ. Đến ngày thứ bảy, bỗng
có một chàng thư sinh, mặt như dồi phấn,
môi tợ thoa son, áo tía, quần đen, phong
nghi tuấn tú, có giắt theo một người
lão bộc đến tự xưng là
Vương Tôn nước Sở, ngày trước
có đính ước cùng Trang Chu theo
đòi học tập, nay đến nơi mới hay
Trang Chu đã chết, nên Vương Tôn cảm
nghĩa xin vào phúng điếu. Điền thị
phải ra tiếp kiến. Khi Vương Tôn
khóc lạy linh cữu xong, Điền thị mời
Vương Tôn vào nhà khách để
dùng trà. Thấy một gã thư sinh trẻ
đẹp như thế, Điền thị thoắt động
lòng, tuy bên ngoài giữ lễ, nhưng
bên trong cũng muốn kiếm cách làm quen
để tiện bề gần gũi. Vương Tôn
nói : - Trang tiên sinh
đã ra người thiên cổ, nhưng lòng
ngưỡng mộ của tôi vẫn còn. Nay tiểu
tử muốn xin lưu lại nơi đây một
trăm ngày, trước là trọn đạo
cư tang, sau mượn sách vở của tiên
sinh để học đòi được phần
nào hay phần ấy. Vớ được dịp
may, Điền thị tủm tỉm cười, cung
kính đáp : - Tình nghĩa thầy
trò, xin Vương Tôn đừng ngại gì
cả. Nói xong, nàng xuống
bếp lo sửa soạn cơm nước đãi
đằng rất hậu. Thảo đường
gồm có ba gian, gian giữa quàn linh cữu, gian
bên phải Vương Tôn ở. Điền thị
đêm đêm lấy cớ đến khóc chồng
nhìn ngắm Vương Tôn, mắt liếc,
lòng mơ, mối tình mỗi ngày một tha
thiết. Tuy nhiên, hình như có một
giòng sông ngăn cách, Điền thị
không biết làm sao để vượt qua bờ
sông ân ái; một hôm nàng đánh
liều gọi người lão bộc của
Vương Tôn đến hỏi : - Chủ nhân của
ông đã có vợ con chưa ? Người lão bộc
đáp : - Thưa phu nhân, chủ
tôi lâu nay lo trau dồi kinh sử chưa có
thì giờ để nghĩ đến việc
đó. Điền thị mỉm
cười hỏi tiếp : - Ông liệu xem những
người đàn bà như thế nào mới
hợp ý Vương Tôn ? Người lão bộc
nói : - Mấy hôm nay chủ
nhân tôi ước mong sao được có
người nhan sắc như phu nhân mới vừa
ý. Điền thị
không dè dặt nữa, nói thẳng : - Ông có thể
tác thành cho hai bên chúng tôi được
không ? Người lão bộc
làm ra vẻ e ngại, nói : - Điều đó
chủ tôi còn gì mong ước hơn, song sợ
e tiếng thầy trò, thiên hạ dị nghị
chăng? Điền thị dẫn
giải : - Vương Tôn tuy
trước kia có lời nguyện ước, song
chưa từng học với chồng tôi một
ngày nào thì sao gọi là nghĩa thầy
trò ? Vậy ông là một người
lão bộc trung thành, tôi nhờ ông
giúp đỡ, nếu việc được
thành công tôi sẽ trọng thưởng. Người lão bộc
tỏ ý thuận tình bước đi. Điền
thị còn căn dặn theo : - Nếu ngày
nào xong việc, ông nhớ tin cho tôi biết liền
đi nhé ! Một ngày trôi
qua, thời khắc đối với Điền thị
như dài dằng dặc, trong lòng mơ ước
không yên. Sáng hôm sau, Điền thị
nóng ruột quá mới gọi lão bộc
đến phòng hương hỏi chuyện. Vừa mới gặp mặt
Điền thị, người lão bộc đã
nói : - Nương Tử
ôi ! Công việc bất thành rồi. Điền thị nghe
nói, trong mình lạnh toát, mồ hôi
rướm ướt áo, hỏi vội : - Sao ? Sao thế ? Lão bộc chậm
rãi đáp : - Chủ tôi nói
cũng có là. Theo người thì sắc
đẹp của Nương Tử tuyệt lắm rồi,
tình sư đệ cũng không đáng kể,
duy chỉ có ba việc này thực là
khó khăn lắm. Điền thị
nóng lòng, hỏi : - Việc gì ?
Ông cứ nói mau đi ! - Điều thứ nhứt
: Chiếc quan tài còn quàn nơi giữa
nhà, thây người chết chưa lạnh, nếu
bàn tính đến cuộc hôn nhân e bất
nghĩa lắm. Điều thứ hai : Trang tiên sinh
cùng Nương Tử thuở nay ân ái đậm
đà, tình chăn gối không gì
thương tổn. Vả lại, Trang tiên sinh lại
là một bậc tài hoa lỗi lạc, còn chủ
nhân tôi, học mọn tài sơ, e không xứng
đáng với Nương Tử chăng. Điều
thứ ba : chủ tôi đến đây không
có mang theo tiền bạc bao nhiêu, lấy gì
mà lo sính lễ. Vì các lẽ đó
mà công việc không thành. Điền thị nghe
xong cười nói : - Cả ba điều ấy
rất dễ giải quyết : Sau nhà còn một
cái phòng trống, tôi sẽ thuê người
khiêng cái quan tài kia đem ra để tạm
sau đó. Vong phu có gì
đáng gọi là đạo đức và
tài năng đâu. Trước kia đã
có hai đời vợ nhưng vì dạy
không được nên phải bỏ đi,
thiên hạ đều cho là bạc bẽo. Sau
đó Sở vương hâm mộ hư danh
nên mời về làm tướng, y tự biết
mình bất tài nên lánh mặt nơi
thôn dã, sống ẩn dật nơi chốn
núi non. Hôm trước đây hơn một buổi
dạo chơi, y có gặp một thiếu phụ quạt
mồ, liền giở trò trêu hoa ghẹo nguyệt,
đoạt cây quạt của thiếu phụ đem về
đây. Tôi nổi giận xé chiếc quạt
ấy ra từng mảnh. Ông coi đó ! như vậy
mà còn tình nghĩa yêu đương
gì nữa chứ ! Việc tiền bạc
Vương Tôn nói đó cũng không
khó khăn gì. Tôi là chủ rồi,
còn ai mà đòi sính lễ nữa. Đến
như tiệc tùng thì tôi còn của cải
hơn mười lượng vàng lại không
đủ chi dùng sao ! Nếu Vương Tôn
mà có cố tình kết tóc trăm
năm với tôi thì chúng ta làm một
cái lễ mọn để động phòng hoa
chúc cũng đủ lắm rồi. Nói xong Điền
thị lấy vàng giao cho lão bộc đem về
đưa cho Vương Tôn và hẹn đêm
hôm ấy làm lễ hợp cẩn. Tối hôm
đó, Điền thị được tin
Vương Tôn khứng chịu một bề, rất
mừng rỡ, mượn người khiêng chiếc
quan tài của Trang Tử để ra phía
nhà sau, rồi thay đổi đồ tang, mặc
áo gấm, quần hồng, thắt hoa, kết lá
trước thảo đường muôn màu sặc
sỡ. Sửa soạn xong, Điền thị ngồi chờ
Vương Tôn đến. Mãi đến
quá 9 giờ đêm, Vương Tôn mới qua
thảo đường. Điền thị nóng
lòng như đốt, đôi mắt long lanh, hai
má ửng hồng, nhìn Vương Tôn
khôi ngô tuấn tú, trong chiếc áo cẩm
bào màu lục. Hai người làm lễ xong,
men rượu hiệp cẩn nuốt chưa trôi qua nửa
cổ, Điền thị phút động hương
tình, dục Vương Tôn vào phòng nghỉ
sớm ... Bỗng Vương Tôn mặt mày
nhăn nhó, chàng lăn dưới đất la
ôi ối. Không rõ việc gì, Điền
thị hoảng kinh đến ôm Vương Tôn
vào lòng. Người lão bộc
nghe tiếng chạy đến, thấy vậy nói với
Điền thị : - Chủ tôi trở lại
bệnh đau bụng trước kia rồi đó. Bịnh
này thì không có thuốc nào chữa nổi,
chỉ trừ có được một vật ấy
mà thôi. Điền thị lo lắng
hỏi : - Vật gì thế ? Người lão bộc
giải thích : - Trước kia,
bình nhật cứ mỗi lần bịnh ấy
phát lên thì vua nước Sở phải giết
một tù nhân, lấy bộ Óc ngâm rượu
cho Vương Tôn uống thì khỏi ngay. Nay bịnh
ấy tái phát mà ở nơi chốn sơn
lâm cùng cốc này tìm đâu ra
được thứ đó, chắc là chủ
tôi phải chết mà thôi. Điền thị sốt
ruột hỏi : - Thế thì óc
của người chết có dùng được
hay không ? Người lão bộc
nói : - Người chết
chưa quá một trăm ngày thì bộ
Óc vẫn dùng làm thuốc ấy được.
Trước kia tôi có nghe quan Thái y nói
như vậy. Điền thị hớn
hở nói : - Vong phu chết chưa
quá hai mươi ngày, vậy thì ta nạy
quan tài mà lấy vật ấy. Người lão bộc
làm ra vẻ ngần ngại nói : - Chỉ sợ
Nương Tử không nỡ làm như thế. Điền thị bĩu
môi nói : - Ta cùng Vương
Tôn kết nghĩa đá vàng, cho đến
răng long bạc đầu, thân của ta còn
không tiếc, huống chi một nắm xương
tàn kia mà ăn nhằm vào đâu. Nói xong, Điền
thị gởi gấm cho người lão bộc ở
lại săn sóc Vương Tôn, còn mình
thì chạy thẳng xuống nhà dưới tay cầm
một cây búa, tay nắm một con dao mò sang
bên phòng có để linh cữu của chồng.
Vừa đến nơi, Điền thị không cần
nghĩ ngợi gì nữa cả, hai tay hươi
búa bổ vào quan tài mấy cái, nắp
quan tài bật tung ra. Bên trong nghe có tiếng
rên rồi bỗng thấy Trang Tử lồm cồm ngồi
dậy. Điền thị hoảng kinh, đứng cứng
ngắc như trời trồng, hai tay rụng rời,
rơi lưỡi búa và con dao xuống đất. Trang Tử nói : - May phước nhà
ta, trời không nỡ để tuyệt mạng,
tôi chết đã hơn mười ngày
mà còn sống lại được, vậy
thì chúng ta cùng về phòng nói chuyện
cho vui. Trang Tử đi trước,
Điền thị nối gót theo sau, mồ hôi
toát ra như tắm, da mặt cắt không
còn chút máu, chỉ sợ về đến
phòng gặp người lão bộc và
Vương Tôn ở đó nàng sẽ
không biết nói làm sao với chồng. Chưa tìm được
lời lẽ nào để nói dối, thì
hai người đã đến nơi. May thay, người
lão Bộc và Vương Tôn lại biến
đi đâu mất. Điền thị vững
lòng, lấy hết can đảm nói: - Từ hôm phu
quân mất đến nay, suốt ngày đêm
tôi khóc mãi, không ăn, không ngủ
gì được cả. Bỗng nghe trong quan tài
có tiếng rên, tôi sực nhớ đến cổ
nhân có chuyện hoàn hồn nên vội
vã bửa nắp quan tài để xem chàng
có sống lại chăng !!! Trang Tử mỉm cười
nói : - Phu nhân có
lòng như vậy, ta rất cảm ơn, song ta chết
chưa quá hai mươi ngày, lẽ ra phải
cư tang thủ tiết, chứ sao lại mặc áo
tía quần hồng làm gì vậy ? Điền thị
không biết nói sao, đành làm lơ, dở
trò vuốt ve hàng ngày để làm cho
phai sự bẽn lẽn của mình. Thôi thì
mắt liếc, miệng cười, đủ trò nghệ
thuật. Trang Tử chỉ cười, và cũng chỉ
biết cười thôi, chứ không còn
nói được lời nào nữa. Sai lấy
rượu uống, uống đến say mèm, rồi
trèo lên giường ngủ, rồi lại chợt
dậy lấy bút viết : Tòng tư liễu
khước oan gia trái, Nhĩ ái chi thời
... ngã bất ái. Nhược kim nhĩ
tố phu thê, Phạ nhĩ phủ
phách thiên linh cái !... Nghĩa là: Từ đây
nguyệt đứt dây oan trái, Người
yêu ta lắm ... ta tê tái Nay dầu giữ mãi
nghĩa phu thê, Búa kia sẽ bửa
đầu ta bể !... Điền thị nghe
xong bốn câu thơ thẹn đỏ mặt
lòng như chết điếng, chưa kịp biện
bạch lời nào thì Trang Tử đã
ngâm bồi thêm bốn câu thơ nữa : Phu thê bách
nhật hữu hà ân ? Kiến liễu
tân nhân vong cựu nhân ! Phủ đắc
cái quan tao phủ phách, Như hà đẳng
đãi phiến can phần ? Nghĩa là: Trăm ngày
tình nghĩa có gì ơn ? Được mối
duyên tình cựu nghĩa nhơn ! Nhát búa nạy
quan còn thấy đó, So người quạt
mộ, gái nào hơn ? Ngâm dứt bốn
câu thơ, Trang Tử nói với Điền thị
: - Để ta gọi thầy
trò Vương Tôn đến đây cho phu
nhân xem nhé ! Liền lúc
đó, ngoài cửa quả có Vương
Tôn và người lão bộc thấp
thoáng trước rèm, bên trong Trang Tử lại
biến đi đâu mất. Điền thị biết
chồng mình hóa phép để thử
lòng mình, nên quá hổ thẹn, thắt cổ
mà chết. Trang Tử đem
thây vợ xuống, đặt vào chiếc quan
tài bị phá vỡ rồi lấy chiếc chậu
vàng vừa gõ vừa ca : Ngã tai, nhĩ
nhoa khẩu : Ngã tử nhĩ
bất giá Thê bị tha
nhân hữu Ngã bị tha
nhân khóa Ngã nhược
chân cá tử, Nhất trường
đại tiếu thoai. Nghĩa là: Ta sống nàng
khoe khoang Có chết nguyện
thủ tiết Nhưng rồi lại
thay chồng Ngựa hồng
người khác cỡi Nếu mà ta chết
thực Trò cười
thật mỉa mai ! Ca xong đập vỡ
cái chậu, rồi nổi lửa đốt ngôi
nhà. Tất cả đều cháy rụi. Từ đó Trang Tử
ngao du trong thiên hạ, sớm chiều bạn với
trăng sao, cây cỏ, chán cái mùi tục
lụy nên chân hồ hải với hai bộ kinh
“Đạo Đức” và “Nam Hoa”
truyền cho những người hiếu học sau
này. Trích Trung Hoa
kim cổ kỳ nhân (Tàng Thư Các) (MIÊN DU
ÐÀ LẠT sưu tầm và chuyển)
|