NGƯỜI LÍNH
KHÔNG CÓ SỐ QUÂN
(Trần như Xuyên)
Tối đó, tôi dẫn Đại đội
tới điểm đóng quân đêm,
đây là ngày đầu tiên tôi nắm
Đại đội, sáng nay có cuộc bàn
giao ở Tiểu đoàn, người Đại
đội trưởng tiền nhiệm,cũng
là khóa đàn anh của tôi, có sự
vụ lệnh đi học khóa quân chánh.
Ra trường được sáu tháng, từ
anh Thiếu úy mới tò te ra trường, giờ
đã lên nắm Đai đội, quả là
thời gian hơi nhanh so với những đứa bạn
cùng khóa ở các binh chủng khác
như Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến...,
có lẽ họ vẫn còn đang thực tập
ở Trung đội hay là Trung đội trưởng
mà thôi. Tôi nắm Đại đội
hơi nhanh không phải vì mình tài giỏi
gì mà năm 67 khi ra trường, như bao đứa
bạn khác chọn đi Bộ binh, các
đơn vị rất thiếu sĩ quan, như Tiểu
đoàn tôi về chẳng hạn, có Đại
đội xử lý là một Chuẩn úy, gọi
là xử lý cũng không đúng vì
trong cấp số coi Đại đội thì tối
thiểu phải là Thiếu úy, nhưng không
hiểu sao vào những năm này, sĩ quan
quá thiếu, bởi vậy khi vừa tới Trung
đoàn, nghe tin có mấy sĩ quan Đà lạt
mới ra trường là các đơn vị nhao
nhao lên xin, tôi được đưa về Tiểu
đoàn 4/46 thì một ông đàn anh
khóa 16 đang làm Đại đội trưởng
xin ngay tôi về. Ông tên Hồ Trang, khóa
16, ở miền Trung bị thuyên chuyển vào Nam
vì dính dáng tới vụ Phật Giáo,
ngoài đó ông đã là Tiểu
đoàn phó nên vị Tiểu đoàn
Trưởng cũng có hơi nể, quay quắt
vì việc phải thuyên chuyển xa nhà, bị
giam lon, giam chức nên ông gắt gỏng như mắm
tôm, ông nghiêm khắc với mọi người
nhưng rất chí tình trong việc chỉ bảo
cho tôi từng ly, từng tí việc chỉ huy
mà dầu sao tôi cũng còn quá mới,
quân trường dậy là một chuyện, ra
đây đụng với thực tế lại
là một chuyện khác.
Cứ như vậy, những lần hành
quân, ông cho tôi ở cạnh để học
hỏi hoặc cho xuống trung đội để
thưc tập, 6 tháng sau, khi thấy tôi
đã tàm tàm gọi là đủ
lông, đủ cánh bay solo được, ông
nói với Tiểu đoàn Trưởng và
bàn giao Đại Đội lại cho tôi, trước
đó, ông đã thu xếp người Đại
đội phó đi học để tôi coi
Đ.Đ được danh chính ngôn thuận.
Nói về tối đầu tiên tôi dẫn
Đ.Đ đi đóng quân đêm, thường
tọa độ đóng quân đêm cùng
các điểm phục kích do Tiểu
đoàn chấm, tối đó đang di chuyển
trên đường tôi thấy có một
người đàn bà đi lẫn trong toán
đại liên, tôi hỏi Thượng sĩ Hội,
thường vụ đại đội, ông ta đi
lính hồi tôi còn học Tiểu học:
- Ai vậy ông Hội, sao có đàn
bà lẫn lộn vào đây?
- Thưa Thiếu úy, đó là vợ thằng
Nở, xạ thủ đại liên, nó ở với
Đại Đội lâu rồi, hồi còn Trung
úy Trang, ông cũng cấm nhưng chỉ
được vài ngày là nó lại lẻn
xuống sống với chồng nó.
- Tôi thấy không được rồi
đó ông, lỡ đêm Việt cộng tấn
công thì làm sao, thằng Nở chỉ lo cho vợ
nó thì còn đánh đấm gì
được.
- Thiếu uý đừng lo, vợ nó phụ
nó rất đắc lực, chị ta biết xử
dụng đại liên, biết tiếp đạn cho
chồng, rồi Thiếu úy coi, hễ rảnh là
nó lại lau chùi cây đại liên nữa.
- Nhưng lỡ có chuyện gì làm sao
mình báo cáo.
Hôm sau tôi gọi Nở lên trình diện:
- Sao cậu không để cho vợ cậu ở
nhà mà cho đi theo Đại đội như vậy,
lỡ có chuyện gì thì sao?
- Thưa Thiếu úy, con Ba nó mồ côi từ
nhỏ, không có nhà, em đã đưa
nó về với má em rồi nhưng má em
không ưng nó, cứ kiếm chuyện với
nó hoài, cho nó theo ĐĐ, thấy cũng bất
tiện, em biết chứ.
Nở thực hiện lời"em biết chứ",
vài ngày sau, tôi không thấy vợ Nở
đi chung trong toán đại liên nữa, tôi
hỏi Thượng sĩ Hội, ông ta cho biết Nở
đưa vợ ra bến xe về quê mấy bữa
nay rồi, tôi có hơi băn khoăn nhưng nghĩ
vậy cũng phải, lỡ có chuyện gì thì
làm sao, rồi má con sẽ phải hòa thuận
với nhau chứ.
Một
hôm, Hạ sĩ quan quân số cầm về xấp
thư của ĐĐ đưa cho
tôi, trước đó tôi có dặn anh ta
là thỉnh thoảng phải kiểm soát thư từ
của binh sĩ xem biết đâu có đứa bị
móc nối. Tôi dở xấp thư ra coi thấy
có một lá đề tên Nở, khi tôi
coi ĐĐ thì Nở không biết chữ, sẵn
dịp, tôi hỏi các Trung đội xem còn
ai không biết chữ gom tất cả lại,
đâu cũng được 5,6 người, tôi
nói Trung sĩ Hiển, Hạ sĩ quan CTCT mua tập vở
về dậy họ học,"ngày mãn
khóa", tôi kêu từng người
đưa tờ Chiến sĩ Cộng Hòa cho đọc,
ai đọc được, tôi thưởng cho bốn
ngày phép, Hạ sĩ Nở biết chữ từ
ngày đó.
Có bốn ngày phép, Nở
không đi đâu cả, anh ta và vợ quanh quẩn
chơi ở mấy nhà quen trong xã, hết bốn
ngày, Nở về lại ĐĐ.
Tôi mở lá thư của
Nở ra đọc:
Long Xuyên, ngày....
anh hai thương, em diết thơ nầy cho anh
là lúc ba giờ phia, em chờ má ngủ mới
dám diết cho anh, anh hai ôi, em nhớ anh quá
hà, sao số kiếp cứ đài đọa tụi
mình hoài, nhớ những lúc điêm tối
cùng anh đi đóng quân, dầu gì vợ
chồng được gần nhau cũng hơn há
anh, hôm anh tiễn em ra bến xe em buồn quá,
lúc xe chạy, em thấy như mất mác
cái gì quí báo, em khóc ước cả
mắt, em cố chìu chuộng má mà má vẫn
hổng thương em, thôi để em lên quỳ
xinh với ông thiếu úy để em được
đi theo anh, liệu được hôn anh, diết
thơ nầy xông, mơi sẽ gởi cho anh, anh hai nhớ
trả lời em nghe.
Em, Ba.
Một tuần lễ sau khi đọc lá thư
của Hạ sĩ Nở, buổi tối dẫn Đại
Đội đi đóng quân, tôi lại thấy
cái dáng nhỏ bé ấy đi chung với
toán đại liên, lẫn vào hàng
quân, không biết anh Hai có trả lời, trả
vốn gì không hay nhớ chồng lên đại,
tôi thấy chị ta cố lẩn vào đám
đông, chắc sợ tôi nhìn thấy, hoặc
có thể biết tôi đã thấy nhưng
làm nước liều, có điều hôm nay
không mặc bộ bà ba đen thường lệ
mà là bộ đồ trận rộng thùng
thình, đầu còn đội nón sắt, chị
ta tính ngụy trang che mắt tôi, tôi cười
thầm trong bụng khi thấy vợ Nở cuốn
nguyên một dây đại liên quanh người,
tôi mong chị ta đừng gặp tôi mà xin
gì cả, chẳng thà để tôi lờ
đi như không biết còn hơn là hợp
thức hóa cho khó xử.
Năm 67, các Tiểu đoàn Bộ binh
thường có ba Đại đội tác chiến,
chia nhau vùng trách nhiệm họat động,
hành quân lục soát từng ĐĐ chung quanh bộ chỉ huy TĐ, đôi
khi có cuộc hành quân cấp Tiểu
đoàn thường là nhẩy trực thăng
và xa hơn. Ba Đại đội trưởng
tác chiến đều cùng khóa 21 Đà
Lạt gồm Th/U Vũ đình Hà (ĐĐ1),
Th/U Lê xuân Sơn(ĐĐ2) và tôi
ĐĐ3.
Một tối, Đại đội 1 bị tấn
công, ĐĐ2 tối đó đóng xa, giữ
con đường từ Long Thượng về Cần
Giuộc, tôi nằm cách Hà (ĐĐ2) khoảng
500 thước, Tiểu đoàn mất liên lạc
với Hà, kêu tôi lên tiếp cứu, chỗ
Hà nằm tôi biết rõ vì đã từng
đóng quân ở đây, chắc chắn
là địch tấn công từ ngã rạch tấn
công ra, tôi dẫn Đại đội chạy
băng lên vì tình người bạn
cùng khóa, tôi cho Đại đội bắn
chặn nơi đầu rạch, nhưng vì không
liên lạc được với Hà, tôi sợ
quân ta bắn lầm quân bạn,, tôi chạy lại
cây đại liên, cho
chuyển hỏa lực về bên trái, dưới
ánh sáng của pháo binh Cần Giuộc,
tôi thấy vợ Nở nằm cạnh chồng, tay
nâng dây đạn, Nở đang nghiến răng
bóp cò, nhả từng loạt đạn về
hướng địch.
Như tôi đã nói ở trên, dạo
đó ở Long An VC chưa nhiều,
chắc khoảng hai chục tên, đợi mình
ơ hờ, liều lĩnh tấn công. Cũng tại
nơi con rạch này, ít lâu sau, ĐĐ
tôi hành quân lục soát ở đây
và đụng nặng, sở dĩ đụng nặng
vì địch tụ ở đâu về, ém
quân trong đám dừa lá dầy đặc
như vùng bất khả xâm phạm, chắc
chúng tập trung ở đây, đợi
đêm xuống có giao liên dẫn chúng
xâm nhập Đức Hòa, Đức Huệ rồi
qua Campuchia, chúng không ngờ ta lùng sục,
chúng buộc phải chống trả.
Đám dừa nước cao ngất che dọc
theo con rạch, hướng ĐĐ tiến vào
là đồng trống, suốt vùng Long An
này chỗ nào cũng vậy, bất ngờ ban
đầu làm ta có ba binh sĩ bị
thương và một chết, tôi xin pháo binh
và Cobra lên vùng, hồi đó gọi
máy bay ném bom còn là một điều mới
mẻ, vũ khí xử dụng là của thời
đệ nhị thế chiến, toàn là Garant,
Carbin, cả Thompson nữa, ấy vậy mà cây
đại liên 30 của Hạ sĩ Nở cũng
có tác dụng. Nở người hơi thấp
nhưng rất khỏe, một mình vác cây
đại liên cả với chân ba càng, mỗi
lần pháo bắn hay trực thăng phóng rocket
là anh ta chạy nhào lên cho gần mục
tiêu, lúc đó địch còn lo núp.
Khi đã rất gần mục tiêu và có
gò đất làm điểm tựa chắc chắn,
cây đại liên mới phát huy được
hiệu quả của nó, từng loạt đạn
bắn ra làm bọn VC không ngóc đầu
lên được, cộng thêm pháo và trực
thăng bắn liên tục, ĐĐ chiếm
được mục tiêu lúc gần tối,
địch bỏ lại 6 xác và một số vũ
khí. Trận đánh như thế này
không đáng kể gì so với sau này khi
SĐ 25 rời Long An di chuyển về vùng trách
nhiệm mới là Tây Ninh, cuộc hành
quân vượt biên năm 1970 cũng như ở
Bình Long mùa hè đỏ lửa thì chiến
trận lên tới cấp Sư đoàn, Quân
đoàn.
Sáng hôm sau, Tướng Phan trọng Chinh,
Tư lệnh SĐ xuống quan sát trận
đánh và gắn huy chương, tôi đề
nghị với TĐT thăng cho Nở lên Hạ sĩ
nhất nhưng Tướng Chinh là người rất
ngặt nghèo trong việc ban thưởng huy
chương và thăng cấp, Nở chỉ
được cái huy chương đồng, ông
bảo huy chương đồng của SĐ 25 bằng
huy chương vàng của các nơi khác(!)
Hai ngày sau ĐĐ còn được nghỉ
dưỡng quân, tôi xuống tổ đại
liên chơi, cả toán đang ngồi ăn
cơm, tôi thấy vợ Nở đang mân mê
cái huy chương của chồng, thấy tôi, chị
có vẻ ngài ngại gật đầu chào
rồi bỏ vào trong nhà, tôi nghĩ giá
tôi có quyền, tôi sẽ tặng cho chị ấy
một cái huy chương của buổi tối yểm
trợ cho Vũ đình Hà.
Đầu năm 1968, tôi được đề
cử theo học khóa Tác chiến
trong rừng ở Mã Lai, tôi còn gắn
bó với ĐĐ hơn một tháng nữa. Một
buổi sáng, đang đứng trước cửa
ĐĐ thì vợ Nở bất chợt ngang qua, chắc
đi chợ về, thấy tôi, chị ta khựng lại
muốn thối lui nhưng không kịp, chị ta
làm bạo bước tới và khi ngang qua
tôi, vợ Nở mím môi lại và dơ
tay chào theo kiểu nhà binh, tôi ngạc
nhiên, trong một phản xạ, tôi chào lại,
chào xong, tôi mới ngẩn người ra nghĩ:
sao mình lại chào nhỉ, hóa ra ĐĐ
này có một nữ quân nhân ư ?
Có lẽ chị ta thấy mọi người trong
ĐĐ chào tôi nên khi gặp, chị cũng
chào để cho giống như những người
kia chăng ! Tôi thấy
hình như bụng vợ Nở có hơi to ra.
Tôi đem điều này hỏi Thượng sĩ
Hội thì ông ta bảo: có vẻ như vậy
Trung úy.
Tôi gọi Nở lên:
- Vợ cậu có bầu phải không?
- Dạ, thưa Trung úy.
- Vậy thì cậu phải đưa cô ta về
với bà già đi chứ, bầu bì rồi
đi theo ĐĐ mãi sao được,
phải lo sức khỏe cho cô ta.
- Dạ, em cũng tính tháng này lãnh
lương xong, Trung úy cho em cái phép để
em đưa nó về gởi bà già.
- Được rồi, lúc
nào muốn cứ lên đây.
Hai ngày sau, Đại Đội được
lệnh đóng quân đêm và tổ chức
một cuộc phục kich ở sau lưng quán Năm
Ngói, một địa danh nổi tiếng về sự
khuấy rối của VC nơi đây, tối
đó, ĐĐ chạm địch, một tốp nhỏ
bọn chúng gặp toán phục kích, hai
tên bị bắn hạ, số còn lại nhập
qua toán kia thì đụng phải ĐĐ, nhờ
toán phục kích nổ súng trước
nên ĐĐ không bị bất ngờ, địch
bắn rất rát nhưng không chủ ý tấn
công nên sau một hồi, chúng rút lui,
hình như có chuyện gì xẩy ra ở
cây đại liên vì tôi thấy nó nổ
được một chập thì im bặt, tôi
đảo nhanh vòng quanh tuyến phòng thủ,
không có tổn thất nào, nhưng khi tới
cây đại liên, tôi thấy có mấy
người lố nhố, linh tính cho tôi biết
có chuyện không hay, tôi hỏi giật giọng:
- Gì vậy Nở ?
Không có tiếng trả lời, tôi bước
vội tới, thấy Nở ôm vợ, y tá Thọ
đang loay hoay băng vết thương nơi ngực chị
ta, thấy tôi, Nở nghẹn ngào:
- Vợ em nó chết rồi Trung úy ơi!
Tôi ngồi xuống, chị ấy bị
trúng đạn ở ngực, máu ướt
đẫm cả cái áo trận, y tá Thọ
đứng lên:
- Chết rồi Trung úy.
Tiếng thằng Năm trong toán đại
liên:
- Súng bị kẹt đạn, thằng Nở
kéo mãi đạn không lên, con Ba nó chồm
dậy mở nắp cơ bẩm, em la nó nằm xuống
nhưng không kịp Trung úy.
Tôi thấy nghèn nghẹn ở
cổ họng, từng chứng kiến nhiều cái
chết nhưng lần này tôi thật xúc
động. Thôi, chị
Nở, từ nay chị hết cần phải tránh
né tôi nữa rồi, sao tôi lại không cứng
rắn hơn nữa với chị, giá tôi đừng
tình cờ đọc được lá thư chị
viết cho chồng, ừ, đáng lẽ tôi phải
cứng rắn hơn, nhất định không cho chị
đi theo ĐĐ như vậy.
Tôi báo với Thiếu tá Hải, Tiểu
đoàn Trưởng về sự việc xẩy ra,
ông có biết vợ chồng Nở, ông cho Sĩ
quan CTCT/TĐ mua cái hòm, cấp cho Nở một
cái xe Dodge để đưa vợ về quê mai
táng. Tôi lấy hết tiền có thể
có được, cả tiền quỹ ĐĐ
đưa cho Nở, buổi trưa cuối năm, trời
hơi lành lạnh, chiếc xe chở Nở và
quan tài vợ đi ngang qua ĐĐ, tôi đứng
nghiêm chào như một lần chị đã
chào tôi, chị chết đi mà cái
hòm không có phủ cờ, không được
mười hai tháng lương, không cả
được lên cấp chỉ vì chị
là NGƯỜI LÍNH KHÔNG CÓ SỐ
QUÂN.
Mười ngày sau, Nở trở lại
đơn vị, trước ít ngày tôi về
SG để chuẩn bị đi học, Nở
đào ngũ, có lẽ Nở
không chịu được cái cảnh mỗi tối
vác cây đại liên tới chỗ
đóng quân mà không có vợ bên
cạnh.
***
Chị Nở thân mến, 40 năm sau ngày chị
mất, hôm nay tôi ngồi viết lại chuyện
này về chị, chỉ là một sự
tình cờ thôi, hôm nọ tôi đọc
loáng thoáng đâu đó người ta
nói về những gương chiến đấu của
Quân và Dân miền Nam trong công cuộc chống
CS xâm lược trước đây, tôi chợt
nhớ tới chị, một người không phải
là quân, cũng không hoàn toàn là
dân, gọi chị là gì nhỉ, chị
lưng chừng ở giữa nhưng đã chiến
đấu như một người lính thực thụ
và đã hi sinh.
Một lý do nữa để tôi viết về
chị là vì mới đây, Cộng Sản Việt
Nam đã làm ầm ĩ lên câu chuyện
về Đặng thùy Trâm, một nữ cán
binh CS xâm nhập vào Nam và đã chết
ở chiến trường Quảng Ngãi, cô
Trâm này chết ở đây nhưng không
ai biết nắm xương khô vùi chôn
nơi đâu, một người lính Mỹ
hành quân qua nơi cô chết và nhặt
được cuốn nhật ký của Đặng
thùy Trâm, cuốn nhật ký này, như một
kỷ niệm chiến tranh của người lính,
anh ta đem nó về Mỹ, mấy chục năm sau,
nó mới được đưa ra ánh
sáng và trao cho mẹ của Đặng thùy
Trâm ở Hà Nội.
Nhà nước CSVN chụp được cơ
hội này cho xuất bản cuốn nhật ký,
dĩ nhiên với nhiều thêm thắt để
khơi động lòng yêu nước của
đám thanh niên càng ngày càng rời
xa chủ nghĩa CS. Đặng thùy Trâm là một
Bác sĩ, nhưng không hiểu có được
học hành tử tế để thành một
Bác sĩ không, tôi đã đọc
được một truyện khi ở tù ngoài
Bắc là có một anh công nhân được
tặng danh hiệu anh hùng lao động vì
đã phục vụ 15 năm trong phòng bào chế
thuốc, và vì phục vụ hăng say và
lâu như vậy, anh được thăng lên
làm dược sĩ vì quen với công việc
bào chế, phong dược sĩ xong, anh ta mới
đi học bổ túc văn hóa vì anh ta viết
chữ cũng chưa gọn ghẽ mấy. Bởi vậy,
tôi không biết Bác sĩ Thùy Trâm
này trình độ có khá hơn y tá
Thọ của Đại Đội mình năm xưa
không, hay cũng như mấy bà mụ vườn
ở nhà quê.
Thưa chị Nở, cả chị và cô
Đặng thùy Trâm này là hai người
đàn bà ở hai chiến tuyến chết trong
cùng cuộc chiến, trong cùng thời gian và
độ tuổi cũng gần như nhau, nhưng hai
cái chết mang hai ý nghĩa khác nhau,
Thùy Trâm bị bắt buộc và tự đi
tìm cái chết, còn chị, chị bị chết
vì người ta ở mãi đâu vô
đây tìm để giết chị, chị chỉ
là tự vệ, chị không hận thù ai,
không ai dậy chị oán thù, không ai
tuyên truyền với chị về chủ nghĩa
này, chủ nghĩa nọ và cũng không
nhân danh chủ nghĩa để chém giết
người khác, chị rất đôn hậu,
còn cái cô Thùy Trâm kia đã từ
ngoài đó vào đây, mang trong lòng sự
thù hận bởi sự tuyên truyền nhồi
nhét, miền Nam này nào có cần ai phải
giải phóng đâu, cho mãi nhiều năm sau
này, người miền Nam vẫn khẳng định
rằng họ không cần ai giải phóng cả.
Chị Nở có thấy điều buồn
cười này không là trong cuốn nhật
ký, Thùy Trâm viết là sao quân Mỹ
Ngụy tàn ác, thích chém giết, chị
Nở có thích chém giết ai không hay
người ta vào đây tìm giết chị,
từ ngoài đó lần mò vào tận
trong này để tìm giết người ta lại
còn hô hoán là sao người ta thích
chém giết mình, thật kỳ lạ. Cũng
trong cuốn nhật ký, Thùy Trâm than phiền
là phấn đấu đã lâu nhưng
chưa được kết nạp đảng,
đây cũng là lý do vì sao Thùy
Trâm đi B, cố gắng trong công tác để
chỉ mong được đảng kết nạp, chị
Nở có biết cô ta mong được kết nạp
để làm gì không, thưa là để
có cơ hội được làm lớn,
có đảng mới được làm lớn,
có làm lớn thì mới có quyền
và có tiền, bây giờ cả cái nước
Việt Nam này, đảng Cộng Sản thi nhau
vơ vét tiền bạc của người dân,
chúng giầu lắm rồi, hồi trước mỵ
dân, chúng đem những người giầu
có ra đấu tố, gọi họ là địa
chủ, giờ thì ai đấu tố chúng ?
Thùy Trâm này nếu mà không chết
và giả như có ô dù, giờ có
thể là Bộ trưởng Y tế hay làm
Giám đốc một bệnh viện nào
đó thì cũng là những con giòi, con
bọ đang tham gia đục khoét thân thể Việt
Nam.
Cũng
là cái chết nhưng chị chết trong
vòng tay người chồng, có mồ yên mả
đẹp, có nhang, có khói, tội cho cha mẹ
cô Thùy Trâm, không biết nắm
xương khô con giờ ở chỗ nào, họa
chăng là cái bàn thờ với tấm
hình cô ấy mà thôi.
Bốn mươi năm đã qua, bây giờ
nhiều thay đổi lắm rồi chị Nở ạ,
ông Thiếu úy trẻ năm xưa giờ là
ông cụ già rồi, vẫn khó tính
như trước và đang phiêu bạt nơi xứ
người, Thượng sĩ Hội đã mất,
Nở từ ngày đào ngũ tôi không gặp
lại, chắc đã có vợ khác, xin
được tạ lỗi cùng chị là
đã không giữ được đất
nước để rơi vào tay quân thù, thật
không xứng đáng với sự hi sinh của chị,
chúng tôi làm mất nước không phải
vì hèn kém, không chiến đấu, mất
nước vì bị phải mất nước.
Quên kể cho chị nghe,mấy tháng sau
ngày chị mất, vũ khí được tối
tân hóa, những cây Garant cổ lỗ sĩ
được thay bằng súng M16, còn cây
đại liên 30 nặng chình chịch chị biết
đấy, thay thế bằng đại liên M60, nhẹ
hơn, bắn nhanh hơn và không hay bị kẹt
đạn nữa chị Nở ạ. Thôi tất cả
đã qua, chúng tôi vẫn không bao giờ
quên những người đã hi sinh vì mảnh
đất miền Nam thân yêu, không bao giờ
quên được những gương chiến đấu
dũng cảm của quân và dân trong việc
chống lại quân Bắc phương xâm lược,
hôm nay ngồi viết lại những hàng chữ
này như được thắp nén hương
trang trọng cho chị, thưa chị Nở.
Trần như Xuyên
(Bùi Mạnh Hùng sưu tầm
và chuyển)