Những Đoản
Văn Rời
(Lâm Chương)
Tôi là vô sản
Khi về đây, tôi dự định
sẽ t́m một việc ǵ kiếm sống qua ngày. Nhưng mọi chuyện không dễ. Cái
xă nghèo đến thê lương, thế mà lại mang tên
Phú Thạnh. Nghèo đến mức con chó đói nằm dài
mơm ngoài hiên cũng biếng sủa khi có người đi
qua. Đàn ông trai tráng không có việc, lêu bêu
đầu thôn cuối xóm. Th́ giờ
thừa mứa, tụ năm tụ ba tán gẫu.
Cuối cùng vét túi chung tiền mua vài
xị rượu, nhâm nhi cho quên đời là bể
khổ.
Tôi lận lưng một số tiền
nhỏ làm kế sinh nhai. Số tiền sứt mẻ dần qua những
cuộc rượu, mà việc làm chẳng thấy đâu.
Bù lại, tôi có thêm nhiều người
bạn mới.
Nhà Tám Nưa có giỗ. Trước mấy ngày,
ông đă mời những người có mặt trên
chiếu rượu. Tôi cũng
được mời. Anh em bảo, Tám
Nưa khỏi lo phần rượu. Mọi
người sẽ đóng góp, bảo đảm uống
mệt nghỉ. Về phần thức ăn,
Tám Nưa cho vật con heo c̣i làm thịt, cắt cổ thêm
vài con vịt đẹt. Xă nghèo, có
người dám chơi thế là chơi ngon. Bữa giỗ xem ra rất linh đ́nh. Khách
được mời ăn giỗ
cũng rất phấn khởi. Thời
buổi khó khăn, người ta thường trông vào
miếng ăn. Có rượu thịt là có ruồi
nhặng vo ve. Tôi là một trong những
con ruồi bay lượn trên những dĩa thức
ăn.
Nhà chật, Tám Nưa che cái chái ngoài sân,
đặt thêm bàn. Cánh đàn bà ngồi trong nhà. Cánh
đàn ông ngồi ngoài sân. Mọi người hỉ
hả ăn uống. Hai bàn
ngoài cùng, dành đăi công an, và nhân viên chính quyền xă. Tám Nưa nói, đó là thủ tục không thể
thiếu. Quy tụ đông người, phải có
thần chứng giám mới yên. Tôi nghĩ,
thời đốn mạt, người ta sống bằng
mặt, không bằng ḷng. Kẻ có
quyền th́ tập thói lưu manh, bóc lột. Người yếu thế th́ học chước
dối trá. Con người sống với nhau mà
như chơi tṛ cút bắt. ở đâu
cũng có tiếng reo ḥ mừng rỡ, lẫn tiếng kêu
la thảng thốt. Xă hội vừa là
phường tuồng, vừa là địa ngục.
Đang ăn, bí thư xă nói:- Nghe
báo cáo có người lạ mới vào xă ta, tôi chưa
biết mặt.
Mọi người ngó vào tôi.
Tám Nưa kéo tôi qua bàn bí thư,
giới thiệu: - Chú em đây tên là Lâm, đă tŕnh diện
bên pḥng công an khi mới về xă.
Bí thư nói: - Mời ngồi.
Tôi nói: - Tôi đang ngồi bàn bên kia.
- Th́ ngồi xuống đây nói chuyện đă. Anh
vẫn khỏe chứ ?
- Vâng, tôi vẫn khỏe.
- Nhiều người cải tạo về gầy
rộc đi. Anh thế là c̣n khá.
- Vâng, tôi c̣n khá.
- Anh đang làm ǵ ?
- Tôi chưa kiếm được việc.
- Nghề nghiệp chuyên môn là ǵ ?
- Thợ đụng.
- Thợ đụng là thợ ǵ ?
- Đụng đâu làm đó. Việc ǵ cũng làm
được.
- Tốt ! . Bí thư
bưng cốc rượu cười khà khà dễ dăi.
Công an bàn kế bên, nói vói qua: - Ngụy
các ông nhiều ma mănh. Gớm bỏ mẹ.
Sang không ra sang, hèn không ra hèn.
Tôi nói: - Vô sản dứt khoát là hèn.
- Anh nói ǵ thế ?
- Tôi nói tôi hèn.
- Vô sản ám chỉ vào ai ?
- Vào tôi. Tôi trắng tay. Tôi là vô sản.
- Lư luận quàng xiên hay nhỉ ? Khi
có đủ vây cánh th́ làm con ngáo ộp. Bị chặt
hết tay chân th́ biến thành con
lươn.
Lời công an như một dằn
mặt cảnh cáo. Tôi ngồi im.
Tám Nưa cứu nguy: - Thôi, chào hỏi thế
đủ rồi. Vị trí của chú ở
đâu th́ về đó.
Tư bản bóc lột
Bữa giỗ nhà Tám Nưa cũng có cái hay cho tôi. Có người lầm tưởng tôi là kẻ
sĩ. Mới đầu, người
ấy nói kẻ sĩ thời nay lắm nhục nhằn
hơn người xưa. Tôi quay nh́n người
vừa nói câu đó, và uống cốc rượu làm quen.
Người ấy nói tiếp, lấy cái thước vô
h́nh mà đo cái nhẫn. Nhẫn càng giỏi,
giá trị càng cao. Một người nhừa nhựa
hơi men, hỏi sao thế ?
Người ấy nói, gặp sài lang
hổ báo, chạy là thượng sách. Đem
cái lư của con người mà tranh biện với thú
dữ là rước họa vào thân. Thực
khách ồn ào như giữa chợ. Những
người ngồi nơi hai cái bàn ngoài cùng, không nghe
những ǵ người ấy nói. Thế
là trước khi ra về, tôi quen với người ấy.
Người ấy tên Trần Xuân Hạnh.
Trước kia, ông làm thầy giáo. Sau cuộc đổi đời, ông xoay qua
nghề đào giếng. Những
đứa học tṛ dốt nát của ông thời cũ,
nhiều thằng bỏ học vô bưng làm cách mạng.
Bây giờ, chúng trở về, ngồi trên
đầu thiên hạ mà chăn dân. Cũng may, chúng c̣n
nhớ bài đức dục mà ông đă dạy, nên
đối với ông, chúng c̣n chút e dè lễ độ. Chúng
cho ông làm công tác dạy văn hóa bổ túc cho cán bộ,
để có tiêu chuẩn gạo. Đời
sống ông, v́ thế, cũng dễ thở hơn nhiều
người khác.
Tôi phụ việc với ông Hạnh,
năm ngày th́ thạo việc. Quá nửa trưa, ông Hạnh bảo
tôi xuống giếng thay ông. Đáy
giếng sâu tối u u. Tôi nghe tiếng rền trong ḷng
đất như tiếng gầm núi lửa. Ngó lên thấy một khoảng trời tṛn
lồng khuôn mặt ông Hạnh ngó xuống.
Tôi sợ hăi: - Cho tôi lên.
- Chưa làm được ǵ, sao đ̣i lên ?. Tiếng ông Hạnh như từ
trời cao vọng xuống hang sâu.
- Tôi ngộp thở.
Ông Hạnh nhằn: - Thế mà bảo việc ǵ
cũng làm được.
Tôi choàng dây buộc ngang nách, hai chân chỏi vào thành
giếng theo thế bích hổ du
tường. Ông Hạnh nắm đầu dây
kéo lên. Khi lên mặt đất, mới
biết trời vần vũ chuyển mưa, rền vang
sấm sét.
Tôi nói: -Tim tôi yếu. Xuống sâu sợ
gần địa ngục. Lên cao sợ
đụng trời.
Ông Hạnh hỏi: - Chỗ nào thích hợp với mày ?
- Lưng chừng ở cơi người.
- Cơi người là địa ngục trần gian
đấy.
Nói xong, ông Hạnh chuẩn bị
xuống giếng.
Tôi nói: -Thôi đi ông ơi, trời sắp mưa. Về nghỉ.
Ông Hạnh nói: - Làm như mày, cám heo cũng không có mà
ăn.
Nói thế, nhưng ông Hạnh cũng thu
dọn đồ nghề.
Trên đường về ngang qua
những rẫy mía. Mía
mới đặt hom, chưa kịp lên mầm. Đất cày chưa ải mặt, cỏ đă
lún phún ngoi lên. Ông Hạnh chỉ
những cái giếng ông đă đào lúc trước.
Ông nói: - Vùng đất thấp, đào năm bảy
thước là có nước. Vùng cao, phải
đào đến mươi thước. Giếng sâu hun hút thấy mà ghê. Người chết dưới giếng, linh
hồn không thoát lên được.
Tôi nói: - Tôi nhạy cảm lắm. Xuống
giếng cứ rờn rợn sợ ḿnh bị chết luôn
ở dưới.
- Nếu chết, tao mời thầy pháp trục
vớt linh hồn mày lên.
- Ông tin thế à ?
- Tao không tin, nhưng nhiều người tin. Cũng
như người ta tin rằng kẻ chết trong tù, linh
hồn không ra khỏi cổng. V́ thế
phải làm giấy phóng thích để giải thoát linh
hồn. Tao c̣n nghe một chuyện
động trời. Có người
đi tham quan nước ngoài về kể, tư bản nó
bóc lột đến cả người đă chết.
- Chết rồi, c̣n bị bóc lột ǵ nữa ?
Ấy vậy mà vẫn nói
được. Người ấy bảo, tư bản Mỹ bóc
lột khiếp hơn hết. Nó bắt
linh hồn người chết đứng giữ cửa.
Linh hồn th́ vô h́nh nên không ai nh́n thấy,
cứ thấy cánh cửa tự động mở khép khi
có người ra vô.
- Chuyện khôi hài. Ai ngu muội ǵ
mà tin là chuyện thật.
- Nói măi, cũng có người tin. Như
chuyện Tăng Sâm đời xưa ở bên Tàu
đấy. Lần đầu có
người đến nói với mẹ Tăng Sâm
rằng, Tăng Sâm giết người. Bà không tin. Lần thứ hai, cũng có người nói
Tăng Sâm giết người. Bà hồ
nghi. Lần thứ ba, lại cũng có
người nói, Tăng Sâm giết người. Bà sợ hăi, và bỏ chạy.
Tôi chép miệng: - Khổ thật !
không biết bao giờ mới thoát
được cái họa tuyên truyền ngu dân.
Ông Hạnh hỏi: - Mày nói cái ǵ ?
Tôi lắc đầu: - Không. Chẳng
nói ǵ.
Ông Hạnh nói: - Từ này về sau, mày ở trên kéo
đất. Tao xuống giếng. Hồi mới gặp mày, tao tưởng mày là
kẻ sĩ. Gần gũi nhau,
thấy mày là thằng lừng khừng.
Cải tạo xong rồi
Ngày nào cũng phải ăn, nhưng
đào giếng không phải lúc nào cũng có việc. Đời sống đi dần
vào thế bí.
Ông Hạnh dẫn tôi đến ban giám hiệu
phụ trách chương tŕnh lớp đêm, nơi ông
dạy bổ túc văn hóa cho cán bộ. Ông
giới thiệu tôi là thi sĩ, và xin dạy học
để có tiêu chuẩn gạo.
Những khi rỗi việc, tôi hay nói chuyện thơ
văn với ông Hạnh. Ông cho tôi là người có
kiến thức văn chương. Nhưng,
thật bất ngờ khi tôi được giới
thiệu là thi sĩ. Tâng bốc lắm,
chỉ tổ làm hư việc.
Người đàn ông ngồi sau
chiếc bàn, môi thâm, mặt sắt, tóc hớt cua, trông không
có vẻ ǵ là mô phạm.
Ông Hạnh cho biết trước, đây là cán bộ
chỉ đạo. Ông ta kéo trễ gọng kính,
giương mắt nh́n tôi như quan sát một hiện
tượng lạ.
- Thi sĩ à ?
Tôi nói: - Ông Hạnh nói quá lời. Tôi
chỉ có chút chữ nghĩa đọc sách thánh hiền.
Ông Hạnh nói: - Không nên khiêm tốn quá. Thành
thật với nhau là hơn.
Cán bộ nói chậm răi rơ ràng, nhấn mạnh
từng tiếng: - Cán bộ học bổ túc văn hóa,
không cần học làm thơ. Chỉ cần
biết bốn phép tính cộng trừ nhân chia, đọc
thông công văn chỉ thị, và biết kư tên là đủ
làm việc. Trong quá tŕnh làm việc
sẽ bật ra thơ. Anh đồng ư không nào ?
- Vâng, tôi đồng ư. Nhưng tôi không xin dạy làm
thơ.
- Chứ dạy về ǵ ?
- Về ǵ cũng được, ngoài chuyện
dạy làm thơ.
Cán bộ ch́a bao thuốc mời ông Hạnh và tôi.
Trầm ngâm một lúc, ông nói: - Chúng tôi đang cần
giáo viên, nhưng muốn nhận anh vào phải xét qua lư
lịch. Anh về làm bản tự khai kèm theo
hai người chứng, rồi mang tới đây. Chúng tôi
sẽ họp ủy ban cứu xét. Một ḿnh
tôi không quyết định được.
- Vâng, tôi sẽ viết bản tự khai.
Tiêu chuẩn mười ba kư gạo hàng
tháng, lấp ló ở một tương lai gần. T́nh h́nh có vẻ lạc
quan. Tôi mỉm cười ngó ông
Hạnh, ḷng đầy phấn khởi.
Cán bộ hỏi, sau khi phà một hơi thuốc: - Trước
kia, anh làm ǵ nhỉ ?
Tôi nói: - Làm lính.
- Bộ đội hả ?
Đơn vị nào ? Tôi
cũng là bộ đội phục viên đây.
- Tôi lính Việt Nam Cộng Ḥa.
Cán bộ chồm
tới, sửng sốt: - Thế à ? Sao
không đi cải tạo ?
- Tôi cải tạo xong rồi.
Cán bộ thất vọng ngửa người ra
lưng ghế: - nh khỏi cần
đến đây nạp bản tự khai. Chúng
tôi không nhận đâu.
Tôi cố vớt vát: - Tôi nghĩ cải tạo xong là
tẩy năo xong, có thể góp phần xây dựng xă hội mới.
Cán bộ lắc đầu: - Cải tạo là h́nh
thức trừng phạt thôi. Đầu các anh đóng
băng, tẩy năo thế nào được !
Quốc tặc
Thấy tôi cũng là thằng ăn
tục nói phét, ông Hạnh không c̣n cho tôi là kẻ sĩ
nữa. Ông nói tôi là người có tài, nhưng
tài năng lớn quá, không có chỗ dùng. Ông
nói với mọi người như thế. Nói
tới nói lui măi, tôi cũng tin ḿnh có tài thật, dù lúc
nhỏ thầy giáo xếp tôi vào loại học tṛ
đần.
Một lần trên chiếu rượu, ông Hạnh
thắc mắc: - Chưa bao giờ xă hội ta có nhiều
người uống rượu như bây giờ. Không
biết tại sao ?
Anh em ngó vào người có tài năng
lớn không có chỗ dùng.
Tôi lên gân giải thích: - Xă hội rối rắm lung tung xèng. Tương lai mờ
mịt. Con người hoang mang mất hướng
đi tới, nên lấy rượu trấn an
tinh thần. Các ông ngày ngày cuốc đất,
ngó tới ngó lui cũng không ra khỏi mấy cái bờ
ruộng. Đời như thế th́ bao giờ ngóc
đầu lên được ? Đó là nói người có ruộng.
Người không ruộng, đất đâu mà cuốc ? Như ông Hạnh
với tôi chuyên nghề đào giếng, năm th́
mười họa mới có việc. Xuống
đáy giếng mà t́m tương lai, có ngày cũng gặp Hà
Bá. Mặt đất đă đầy những
giếng sâu hố thẳm, đi loạng quạng dễ
bị sa chân xuống âm phủ. Chi bằng cứ ẩn nhẫn chờ thời.
Thời cơ chưa tới, lấy
rượu giải khuây.
Một người nói: - Tôi chịu lối giải
thích này. Nhưng, bao giờ thời cơ tới
?
Tôi lại lên gân: - Khương Thương ngồi
câu sông Vị, là chờ thời. Hàn Tín ḷn trôn
giữa chợ, cũng là chờ thời. C̣n chúng ta ư ? Có khi phải chờ
hết đời. Con cháu lại tiếp tục
chờ nữa. Lịch sử biến thiên lúc
nhanh lúc chậm. Nhanh th́ năm
trước năm sau đă thấy khác. Chậm th́
đời này qua đời kia vẫn
c̣n khốn khổ.
- Thời này cũng có nhiều người phất
cờ giàu to đấy chứ ?
- Vâng. Phất cờ giàu to thời này là
tư bản đỏ. Nhưng cách dùng
từ sai. Tư bản là bỏ vốn kinh doanh,
để từ đó sinh ra lợi nhuận. Mấy ông
kẹ nhà ḿnh có kinh doanh ǵ đâu ? Họ
ăn tiền đút lót hối lộ, và
dùng quyền lực chiếm đoạt tài sản thiên
hạ th́ không thể gọi là tư bản, dù xanh hay
đỏ.
- Như thế phải gọi là ǵ cho đúng nghĩa ?
- Gọi nôm na là ăn cướp.
Cướp giựt lẻ tẻ đầu
đường xó chợ, là cướp vặt.
Cướp có hệ thống đường lối chính
sách, là quốc tặc.
Người dân biết ḿnh bị cướp, mà không
cưỡng vào đâu được. Thế mới kinh !
Cuộc rượu đêm đó, xoay
quanh đề tài quốc tặc. Tôi hừng chí nói năng tự do, mất sự đề cao cảnh giác. Tàn cuộc, tôi say bí tỉ.
Đèn nhà ai nấy rạng
Cưới vợ ba năm. Vợ chồng không rơ ḷng
nhau. Tôi đến tuổi cần có vợ, vợ
cũng đến tuổi cần có chồng. Thế là lấy nhau. Chẳng t́nh yêu quái ǵ.
Tôi là lính hành quân. Ba năm, những lần về phép
đếm trên đầu ngón tay. Gặp nhau là quấn lấy nhau. Vội vă
vài ngày, để rồi c̣n chia tay. Th́
giờ đâu mà để ư những điều vớ vẩn ?
Năm đầu, vợ gọi tôi
bằng anh, xưng em. Tôi gọi vợ bằng em, xưng anh. Qua năm sau, vợ gọi tôi bằng anh, xưng
tôi. Tôi gọi vợ bằng em, xưng
tôi. Năm sau nữa, vợ gọi tôi
bằng ông, xưng tôi. Tôi gọi vợ
bằng bà, xưng tôi. Theo thời gian,
cách gọi vợ chồng cứ thay đổi dần
như thế. Và giữ nguyên hai
tiếng xưng hô ông bà cho đến bây giờ.
Ba năm.
Một hôm, t́nh cờ vợ khám phá ra tôi làm
thơ.
Vợ nói: - Có tờ báo đăng bài thơ của
thằng cha nào trùng tên với ông.
Vợ mở trang báo, chỉ vào bài T́nh
Cho Em. Lời
thơ sướt mướt nhớ thương.
Đó là bài thơ tôi làm cho một con nhỏ người
yêu, nhưng không chịu lấy tôi làm chồng.
Tôi nói: - Bài thơ này của tôi làm cho bà, nói lên nỗi
nhớ thương trong những ngày đi xa. Mới
đầu, vợ sung sướng ra mặt. Nhưng
sau đó, vợ phá ra cười.
- Mạo nhận. Tôi không tin !
- Không tin hả ?. Tôi không nh́n trang
báo, đọc thuộc ḷng vanh vách bài thơ, - Bà tin tôi là
tác giả chưa ?
Vợ ngẩn ra một lúc: - Người lỗ măng
như ông cũng làm được thơ. Lạ thật !
- Có ǵ lạ đâu. Tài làm thơ của
tôi giống như chiếc mũi nhọn giấu trong túi áo.
Lâu ngày, nó ló ra cho bà thấy.
- Chẳng bao giờ nghe ông nói tiếng yêu tôi. Vậy
mà làm thơ th́ nước mắt chứa chan t́nh cảm.
Thơ là giả dối !
Vợ không hănh diện về
người chồng biết làm thơ, dù đă có lúc
gần đạt được danh hiệu thi sĩ.
Cuộc thế bể dâu. Đời tôi cũng bầm giập
đau thương khốn nạn. Mũi
nhọn thụt vào trong túi áo. Thơ
tịt ng̣i.
Ra hải ngoại, muốn học hành cho đỡ
nhọc tấm thân, nhưng cái đầu không chịu. Nhồi nhét thứ ǵ vô, vài ngày sau nó đẩy ra
khỏi trí nhớ. Thế là đi làm cu li. Cực tay chân, khỏe đầu óc.
Việc làm bấp bênh. Nay có, mai không. Thất nghiệp ở nhà. C̣ng
lưng viết chuyện cà kê dê ngỗng, viết chuyện
đời ḿnh.
Vợ đi chợ, đem về tờ
báo quảng cáo địa phương, có đăng bài
văn của tôi.
Vợ nói: - Ông bỏ làm thơ, tôi đă mừng. Bây giờ, lại thấy hí hoáy cả ngày.
Không ngờ ông viết văn. Làm thơ, chắp tay sau đít, đi qua đi lại. C̣n đỡ. Viết văn, ḅ
càng ra mà viết. Khổ ôi là khổ.
Tôi nói: - Trong cái khổ, có cái sướng.
- Thất nghiệp. Đói tới
nơi, không biết lo. Ở đó mà viết
chuyện bá láp. Kiếp nào mới được thành danh ?
- Từ từ, sẽ có tiếng vang.
- Người ta viết chuyện ma quỷ. Rùng rợn, hấp dẫn. Viết
về hoàn cảnh xă hội gay cấn, tâm lư t́nh cảm éo le.
Đọc mê luôn. Sách in ra, bán chạy ào ào.
Lại c̣n thu băng đọc
truyện, tiền vô như nước. Truyện
của ông, tôi vừa đọc vừa ngáp. Cố
gắng lắm, cũng chỉ theo dơi
được vài trang th́ ngủ. Bữa
trước, nghe ông nói điện thoại với
người bạn nào đó, rằng ông đang gom tiền
in sách. Đừng làm chuyện phá
sản nghen. Sách ông bán cho ma !
Tôi rên: - Bà ơi, tôi bất hạnh đớn đau
nhiều rồi. Hăy để tôi làm theo
ư thích.
Vợ nói: - Ư thích trong trách nhiệm gia đ́nh. Tự
do trong khuôn khổ luật pháp.
Tôi giơ hai tay lên trời: - Than ôi !
Trên mặt đất, ai người tri kỷ ?
Đoản văn này, dành trả lời câu hỏi
của một bạn đọc: Theo kinh nghiệm bản thân
anh, đời có tí văn nghệ văn gừng làm cho gia
đ́nh dễ lục đục, hay hưng phấn hơn ?
Lâm Chương
(Bai Chuyen)