YÊU
(Trần Doãn Nho)
1.
Cô đến Mỹ như một kẻ bị
lưu đày. Trong lúc mọi người vui mừng
tíu tít vì được đặt chân
đến vùng đất lạ với biết bao
điều mới mẻ, cô lại dửng dưng, lạnh
lùng, gần như vô cảm. Cô đi, đứng,
nằm, ngồi, sờ, mó, ngắm nghía mọi
thứ, nhưng tâm hồn cô rỗng không. Tất
cả dường như đều chẳng dính
dáng gì đến cô. Ban ngày, cô theo mọi
người đi đó đi đây, ăn uống,
mua sắm … như một cái máy. Ban
đêm, khi mọi người đã đi ngủ,
cô một mình mở cửa bước ra sân
sau, nhìn lên khoảng không gian vô tận. Trời
đất mênh mông quá. Ngày tháng cũ
vời xa thăm thẳm, mất hút đâu dưới
khoảng chân trời mờ mịt.
Hình ảnh Ngà chập chờn vây quanh.
Ðôi mắt to, lưỡng quyền cao, những nốt
mụn đỏ quanh mũi, mấy chiếc răng cửa
lộn xộn, không đều, miệng rộng, chiếc
cổ cao có nốt ruồi nằm gần vai, tiếng
cười giọng nói rổn rảng, hơi thuốc
lá và thỉnh thoảng mùi rượu đế.
À, cái áo chim cò, hai túi có
bách gài, cái hộp quẹt màu xanh lục,
những ngón tay dài, nhám, sục sạo
như con rắn bò. Còn nữa, chiếc nhẫn
Mỹ to, có chữ N nổi ở phía trên. Bữa
đó, sau nhiều lần năn nỉ, cô cho
Ngà hôn. Thử cho biết. Ngà thở phì
phò, nóng hổi bên tai. Cái miệng
áp vào má, rồi lên môi. Cô luống
cuống, người nóng như lửa đốt.
Nhưng thích.
Lần cuối cùng trước khi chia tay,
không đợi Ngà đòi, cô kéo
đầu Ngà xuống hôn lấy hôn để.
Trái với nhiều lần trước, Ngà thụ
động, buồn bã, ngẩn ngơ. Ðến
lúc giã từ, Ngà không nói gì.
Tuyệt không nói gì. Ngà đứng
như cái cột trụ xi măng, mắt nhìn
cô không chớp. Giờ nhớ lại, cô
không hiểu tại sao lúc đó cô đủ
can đảm bước đi, để Ngà đứng
đó một mình. Vào Sài Gòn,
càng gần ngày lên máy bay, cô
càng buồn, càng nhớ, càng sốt ruột
và âm thầm khóc. Nhưng cô không
đủ can đảm quay trở ra như Ngà đề
nghị. Cô cắn răng ra đi với gia
đình trong một trái tim tan nát và một
hy vọng gặp lại hão huyền. Cô một
mình, một mình, nỗi sầu trĩu nặng.
2.
Mẹ cô nói:
“Mẹ biết con buồn. Nhưng rồi con sẽ
quên. Mẹ đã từng yêu, nên mẹ biết.
Tình yêu đầu lúc nào cũng da diết,
sôi nổi tưởng như mất đi, mình
không sống nổi. Nhưng tình yêu đầu
bao giờ cũng nông nổi. Ngà không xứng
với con đâu. Mà rồi hắn cũng
quên con thôi.”
Cô im lặng. Mẹ bao giờ cũng có
lý.
3.
Cô dấu mẹ gửi thư đều cho
Ngà. Cô nói đến nỗi buồn mênh
mông của cô trên xứ lạ quê người.
Cô nhớ Ngà da diết. Cô vẫn mơ ước
được mãi mãi sống bên Ngà. Thiếu
Ngà, đời cô vô nghĩa. Lần viết
thư nào cũng kèm theo nước mắt.
Ngà hồi âm với những lời lẽ
yêu đương nồng thắm, những nhớ
nhung chất ngất. Ngà nhắc nhở lại từng
kỷ niệm. Góc phố, hàng chè tàu,
đồi núi, đền đài, quán nước,
chợ, tấm hình, chiếc xe đạp, bà mẹ,
tấm phản … Cô như được sống
lại hết thảy cả một quãng đời
thơ mộng. Cô bồn chồn, rạo rực với
những ngày vui không còn nữa.
Cứ nhắc lại mãi niềm thương nỗi
nhớ rồi cũng chán, cô đổi đề
tài. Cô bắt đầu kể cho Ngà về
đời sống ở Mỹ. Lái xe, đi chợ,
đi học, bạn bè, tiệc tùng lớn nhỏ.
Kèm theo, cô gửi về cho Ngà tấm
hình cô chụp trước nhà với hai chiếc
xe hơi. Cô mặc váy, mặt mày không lấy
gì làm vui lắm. Lại nôn nóng trông
thư. Lần này, thư Ngà đến chậm.
Đã thế, thư lại ngắn, chưa đầy
một trang giấy. Khác với những lần
trước, thư toàn là những lời
trách móc, than thân trách phận. Cô ngạc
nhiên. Cô viết thư về thanh minh cho hoàn cảnh
của cô, đồng thời với những lời
hứa hẹn. Không hồi âm. Cô viết nữa.
Lại không hồi âm. Cô giận, cô hờn,
nhưng chẳng biết làm sao được. Xa
quá là xa. Ngà mà có ở đây,
cô sẽ cắn vào tay anh chàng cho chảy
máu mới hả.
4.
Giận chán, cô tìm cách quên. Một
hôm, cô thức giấc nửa đêm, bước
ra ngoài, nhìn bầu trời sao và ánh
sáng rực rỡ muôn màu của thành phố,
lòng cô bỗng hân hoan, phơi phới. Như
một phép lạ, cô đã được
đến đây, ở đây. Cô đã
được hóa kiếp. Nhìn về chân trời,
tưởng tượng đó là nơi cô
đã từng ở, sao bây giờ xa xăm
quá, nghèo nàn quá, buồn quá.
Ngà bỗng xuất hiện trong cô bằng một
hình ảnh tầm thường, ngớ ngẩn.
Áo quần quê mùa, xấu xí. Ăn
nói vô duyên. Ðã thế, học hành
chẳng ra gì. Tiếng Anh không biết. Nhà cửa
nhớp nhúa. Bà mẹ Ngà lại cứ bỏm
bẻm nhai trầu, bập bẹ điếu thuốc vấn,
trông đến khiếp. Chưa kể muỗi cắn
và mùi gì cứ bốc lên hôi
hám trong nhà Ngà.
Hôm sau, cô lục thư Ngà ra, xem lại.
Những chiếc phong bì nhỏ, xấu xí, những
hàng chữ nguệch ngoạc, viết cái địa
chỉ Mỹ trật lên trật xuống, chỗ thiếu
chữ t chỗ thừa chữ s. Ðã thế, viết
qua Mỹ mà trên bì thư lại đề họ
trước tên sau, lại còn đủ thứ dấu
sắc, huyền, nặng … linh tinh. Tên người
ta bây giờ là Phuong Thao Ngo, anh chàng lại cứ
đề Ngô Thị Phương Thảo, nghe quê một
cục. Nhất là đoạn Ngà nhắc đến
cái quán may đầu đường của
cô. Qua đây, người ta đâu có
còn là con bé thợ may tầm thường,
trình độ lớp tám nữa. Bây giờ
ta đi học high school cà ! Ta nói được
tiếng Mỹ cà ! Ta còn biết dance nữa
cà ! Ta văn minh hơn bên đó nhiều. Mai
mốt có tiền, ta sẽ về thăm. Ta sẽ
ăn mặc kiểu Việt kiều. Ta sẽ tiêu tiền
như nước cho bà con xóm giềng lé mắt
chơi. Ðâu có như xưa.
Cầm lui cầm tới, ngần ngừ một hồi,
cô ném thư của Ngà vào giỏ
rác, gần bàn học. Từng cái. Từng
cái. Như ném những mảnh quá khứ
vô nghĩa. Đến cái ảnh Ngà, cô cũng
định ném luôn, nhưng tự dưng, thấy
Ngà tội nghiệp. Dù sao, anh ta cũng yêu
nàng. Suốt đời, anh ta sẽ bị nhốt
trong cái mảnh đất nghèo nàn, buồn
bã đó. Thôi, giữ chiếc ảnh để
trong album như một kỷ niệm thuở thiếu thời,
cũng vui.
5.
Mẹ cười, nói với cô:
“Con thấy không, mẹ mấy khi nói
sai. Bây giờ con đã thấy rõ chưa. Thằng
Ngà tội nghiệp thật, nhưng chỉ là một
thằng nhà quê, sao mà cân xứng với
con cho được. Ở đây, con xem, khối
người, cho con mặc tình lựa chọn. Bạn
bè của ba đông, con cái họ cả bầy,
đứa kỹ sư, đứa dược sĩ, đứa
thầy giáo, đứa chuyên viên … Con
thích loại nào ? Theo mẹ thấy, cứ từ
từ. Con giao du rộng rãi vào, tìm hiểu
đứa này đứa nọ, thế nào chẳng
dính được một đứa tài đức
vẹn toàn cho ấm tấm thân.”
Ừ, thì mẹ đã nói là
đúng. Mẹ là mẹ mà.
6.
Ngà biến mất khỏi cô nhẹ
nhàng không ngờ. Như một phép lạ.
Như thể cô chưa từng quen. Thỉnh thoảng,
có nhớ, thì cũng như cô nhớ mấy
đứa bạn vớ vẩn đâu đó ở
đầu xóm. Hết nhớ thương, hết ray
rứt, mặt mày cô càng ngày càng trắng
ra, hồng hào, đẹp đẽ. Cô mặt
váy ngắn, váy dài. Cô đi dự
“pa-đì”, nhảy nhót tưng bừng.
Sinh nhật cô, cô xin ba mẹ tổ chức thật
lớn, mời cả vài chục người, có
giàn nhạc sống, có quay phim, có hát
karaoke. Chẳng mấy chốc, cô cảm thấy
mình biến thành tiểu thư. Nhớ lại mấy
con bạn nhà giàu ở Việt Nam -
cái mặt cứ dương dương dễ
ghét ! - đâu có thấm gì với
cô bây giờ. Bọn chúng làm gì
có xe hơi, có computer, có TV cái lớn
cái nhỏ, cái để trong phòng khách,
cái để trong phòng ngủ. Cô tự nhủ,
mình cứ ăn cứ chơi, không tội
gì mà yêu vội.
7.
Tên là Ấn. Anh ta chẳng có gì
đặc biệt, mặt mày thường thường,
thậm chí hơi xấu trai. Anh ta có nghề nghiệp,
chịu khó làm ăn, nhưng không có
gì gọi là giàu có. Khi gia đình
cô vừa sang, anh là một trong những người
đầu tiên tình nguyện giúp đỡ.
Anh bưng ghế, khiêng bàn, chở mẹ cô
và cô đi chợ, đưa ba cô đi
làm giấy tờ, đi xin trợ cấp. Nhờ
đâu làm đó, việc gì cũng chu
đáo. Hầu như một hai bữa, anh ghé
nhà một lần, ngồi con cà con kê, kể
đủ thứ chuyện về nước Mỹ. Mẹ,
chị và các em cô ngồi quanh, say sưa lắng
nghe. Nhiều lúc, anh ta mang đến một thùng
bia, ở lại uống với ba cô đến nửa
đêm mới về. Anh biếu nhà cô một
cái VCR mới toanh. Rồi thì, khi đồ
ăn, khi tiền bill, khi đi shopping …, anh tìm
cách trả giùm và không bao giờ lấy
lại. Ðặc biệt, anh chiều cô hết sức.
Cô muốn gì được đó, kể cả
những lúc cô nói đùa.
Mẹ cô bảo:
“Người ta có tình, người ta
giúp mình, thì mình cứ nhận cho
người ta vui, đâu có sao. Mình mới
sang, ai cũng có bổn phận phải giúp đỡ
mình. Sau này, có điều kiện, mình
trả ơn lại chứ vội gì. Còn nếu
người ta có ý định lợi dụng
thì cho ‘de’ luôn, cho đỡ phiền
hà.”
Cô cũng nghĩ như mẹ. Vì thế, cô
tiếp tục giao du với Ấn một cách vui vẻ,
bình thản, không băn khoăn, thắc mắc,
đề phòng.
8.
Cho đến một hôm. Lần đó, Ấn
mời cô đi ăn và mua tặng cô một
chiếc áo ấm đắt tiền. Trên
đường về nhà, Ấn dừng xe ở một
đoạn đường vắng, xin cầm tay cô. Dễ
mà ! Cầm một chút đâu có sao.
Cô để yên bàn tay cô trong bàn tay Ấn,
chợt nhớ Ngà. Ấn bảo Ấn yêu
cô, cô nói lửng lơ. Về nhà nghĩ
bụng, đâu có dễ yêu thế, anh
chàng cho một món quà, rồi tưởng bở
! Lần sau, rồi lần sau và lần sau nữa, Ấn
tiếp tục mua quà tặng cô, tặng mẹ
cô và tiếp tục tỏ tình. Cô tiếp
tục lửng lơ.
Nhưng rồi, đùng một cái, cô
để cho Ấn hôn. Anh chàng này học ở
đâu mà hôn thiệt lạ, thiệt hay. Hay
hơn Ngà. Lại nghe thơm hơn. Cô cuống cuồng
hôn trả. Về nhà, cô bửng lửng
bơ lơ, đi vào đi ra ngơ ngẩn. Cái
anh chàng xấu xí này mà sao đáng
yêu thế ! Và cô đâm ra yêu Ấn.
9.
Mẹ nói: “Thằng Ấn này không
xứng chút nào với con cả. Hắn ở
đây lâu thật, có tiền thật, có
ơn với gia đình mình thật, nhưng
dù gì đi nữa hắn cũng chỉ là một
công nhân. Sang tới Mỹ mà lấy một
công nhân làm chồng à !”
Nghe mẹ nói thế, cô lại thao thức,
băn khoăn. Cuối cùng, như đã từng
bỏ Ngà để ra đi, cô quyết định
không yêu Ấn nữa. So với lần trước,
lần này cô quyết định mau chóng
hơn, nhẹ nhàng hơn và ít vướng
mắc hơn.
Mẹ cô dặn:
“Con đừng cắt đứt vội, vừa
tội nghiệp, lại vừa mất nhờ. Dù sao,
hắn cũng có tình hơn mấy đứa
khác. Con cứ từ từ mà xa hắn.”
10.
Cô nghe lời mẹ dặn.
Từ đó, cô không còn biết
yêu nữa !
TRẦN DOÃN NHO
(Bai Chuyen)