Hành trình 30
năm
(Võ Trang)
Tác giả 56 tuổi, cư dân ở San Diego;
Nghề nghiệp: Kỹ Sư Điện cho Bộ Hải
Quân Hoa Kỳ. Bài viết về nước Mỹ
đầu tiên của ông là một tự truyện
với tâm tình vừa biết ơn quê
hương thứ hai, đồng thời cũng "mang
trong lòng một mối "hận" người Mỹ
đã bỏ rơi đất nước
mình..." Bài gần nhất là hồi
ký về Tết Mậu Thân tại
Huế, khi thân phụ ông bị cộng sản bắt
đi. Và lần này, là chuyện 30 năm
vượt biển đến Mỹ.
***
Đâu là định mệnh ?
Tất cả hành trang đều
đã được kiểm soát lần
chót. Không có
nước mắt cho mẹ tôi và em tôi nữa.
Lần này chúng tôi quyết định khởi
hành từ nhà vợ tôi để tránh
những giây phút cuối cùng ... Sau 4
năm sống như
đang lẩn trốn trong đói rách, sợ
hãi và tủi nhục, cái gì ở
bên ngoài bức màn sắt này đều
có thể tốt hơn cả .... "có
thể nói, tất cả nhân dân miền Nam
đều có tội", viên quản giáo
chính trị đã nói như thế, huống
hồ tôi là con của một cảnh sát
viên đã từng bị cộng sản xử tử
? - cuộc sống sẽ khốn nạn
đến mức độ nào nếu sự thật
này bị tiết lộ !
Nhìn bóng người anh Cả mờ dần
đi trong màn đêm dày đặc trên
chiếc xe đạp, tôi bỗng thấy trống vắng
lạ thường .... "Phước-Em,
từ nay em hãy coi nó như con cho anh. Bé Tí, từ nay con gọi
chú là cha đó, nghe con!"... Tháo chiếc
đồng hồ Seiko cũ tôi để nhẹ
vào lòng bàn tay anh tôi
nhưng không nói năng gì - như một
món quà cuối cùng. Tất cả chúng
tôi đều không biết chuyện gì sẽ
xảy ra trong tương lai nhưng có thể
đây là lần gặp mặt sau cùng ... trong chuyến đi hụt lần
trước cách đây 3 tháng, chúng
tôi đã mất sạch tất cả vốn liếng
dành dụm. Lần
này, nhờ chút kiến thức y-khoa, gia
đình tôi được cho đi không để
săn sóc các bạn bè trên tàu. Móc nối thêm đứa
cháu gái là đã quá khả năng
tôi có thể làm được.
Con đường xuống Rạch-Giá phải
qua 2 chuyến cầu phà là nơi chúng
tôi phải tránh mặt thật kỹ. Mặt trời
xuống trên cầu Rạch Giá, đỏ rực
như một chiếc banh tròn thật đẹp
nhưng có lẽ không một ai trong chúng
tôi còn có tâm trí để thưởng
thức nữa. Tản
mác trong đám đông của chợ trời, nhóm bốn
nguời chúng tôi phải chịu đựng nhiều
giờ trước khi được lên ghe nhỏ
để ra eo biển, nơi tàu lớn đang đợi. Ngoại trừ
gia đình của người đánh cá, tất
cả chúng tôi đều mửa nhào và
nhức đầu như búa bổ. Sau khi kiểm soát lần
cuối, tàu nhổ neo và đi về phía Nam
trọn ngày hôm sau, như là một tàu
đánh cá, để có thể vượt mũi
Cà Mau đêm sau đó như đã dự
tính. Ban đêm,
tàu đánh cá quốc doanh dàn thành
mạng lưới ở cuối chân trời với
đèn sáng rực.
Che hết tất cả ánh sáng trên
tàu chúng tôi âm thầm vuợt qua biên
giới. Khi
những ánh đèn từ các chiếc thuyền
quốc doanh biến mất trên chân trời,
tàu chúng tôi mở hết tốc lực
phóng thẳng ra khơi. Ngoại trừ người
hướng đạo, tất cả chúng tôi
đều rơi vào giấc ngủ dễ dàng
sau 2 ngày mệt nhoài ...
Đại dương bao la ...
Ngoại trừ tiếng động
cơ vang đều, tôi chưa bao giờ cảm nhận
được một sự yên tĩnh lạ
lùng như thế. Cả tiếng
động cơ cũng nổ nhẹ hơn đêm
qua trong cái đại dương bao la này. "Chúng ta đã ra
đến hải phận quốc tế rồi
!", tiếng la lớn của người anh thứ
Hai đi với chúng tôi làm cả tàu 44
người thức dậy. Một ngày
mới đã đến với một bầu trời
thật trong xanh. Mọi
người kiểm soát lại đồ dùng
và thu dọn đồ đạc
cho rộng thêm chỗ ở.
Về phần tôi, túi cấp cứu với
các ống thuốc cầm máu, giảm đau
đã vỡ hết, chỉ còn một ống
Atropin đủ giúp cho 2 cậu nhỏ đi tiểu
sau hơn 2 ngày sợ hãi không đi được,
đau đến độ muốn vỡ bàng quang
... Bây giờ
tôi mới có dịp quan sát chiếc tàu
dài khoảng 30 feet rộng 10 feet mà có thể
chứa 44 người như chúng tôi nằm
đâu chân vào nhau và dựa đầu
vào 2 bên thành tàu. Tàu có một cabin nhỏ,
trên mái đủ chỗ cho anh tôi (pilot) và người
Tài Công đánh cá ngồi trông coi chiếc
la bàn Trung Cộng mua lậu cả 1 lượng
vàng.
Bữa ăn sáng trên thuyền chỉ với
cá khô và nước đá lạnh tan ra
từ những tảng dùng để dằn thuyền
đồng thời cũng dùng làm nước dự
trữ. Đại
dương thật yên tĩnh với những cơn
sóng ngầm kéo dài rất xa như Việt-Nam
ta có
câu: "tháng Tư bà già đi biển". Như người
anh tôi tính toán, 117 độ Nam sẽ
đưa chúng tôi đến nơi gần nhất
của bờ biển Mã Lai. Chúng tôi hít thở
thật sâu cái không khí trong lành. Đây là lần
đầu tiên sau 4 năm tôi cảm nhận
được cái không khí tự do của một
cuộc đời không sợ hãi.
Dưới nước, rất nhiều cá to
đuổi theo con thuyền như cùng chúng
tôi chạy đua cho một cuộc đời mới ...
Đối diện sự thật ...
Nhưng loài người bây giờ đang ở
đâu ? - Trước đây
chúng tôi đã chỉ suy nghĩ rất
đơn giản: một
chiếc tàu lớn nào đó sẽ
đón chúng tôi ngoài hải phận quốc
tế. Đã
2 ngày lênh đênh trên biển cả
chúng tôi không gặp một chiếc thuyền
nào cả.
Vào hoàng hôn, mây đen ở cuối
chân trời hiện lên như những
dãy núi với hình thù kỳ dị. Nhưng đi
mãi mà hy vọng vẫn cứ lùi lại
đàng xa.
Một ngày trời trở mưa và
chúng tôi chỉ còn biết nằm sát
bên nhau với những mảnh nylon đủ che phần
trên của cơ thể trong khi con thuyền vẫn
xuôi Nam
ở 117 độ. Không có chim biển có nghĩa
là chúng tôi phải ở rất xa đất
liền. Đến
ngày thứ năm chúng tôi có thấy một
chiếc tàu sắt với những ống khói rất
to, có thể là một chiếc tàu hải
quân nhưng chưa làm được gì
thì nó đã biến mất sau chân trời ...
Rồi thêm 1 ngày qua nữa. Lần thứ hai khi gặp một chiếc
tàu từ xa chúng tôi đã vội bắn
flair cấp cứu.
Nhưng khi đến gần thì chúng
tôi mới nhận ra là mình đã
làm một lầm lẫn chết người... Cũng có một vài
thiếu phụ ăn mặc hoa hòe như người
Hawaii nhưng hơn
cả chục người khác là đàn
ông, mặc xà
rông ngực trần và mặt mày vẽ
vôi trông rất hung dữ ... Hi hi ho ho...những
âm thanh như mọi rợ phát ra từ những
người này nghe rất
dễ sợ. Chúng
tôi cố gắng khoát tay cho họ
đi đi và nổ máy chạy hết ga ... nhưng đã quá muộn. Tàu họ mạnh hơn rất
nhiều nên đã đuổi kịp chúng
tôi dễ dàng. Trên boong tàu không còn phụ nữ
nữa, chỉ còn đàn ông múa giao
và quăng giây cột tàu chúng tôi lại. Phụ nữ trên tàu
bắt đầu khóc lóc. Chúng tôi hiểu
chúng tôi đã gặp hải tặc
Thái-Lan..
Nhìn tôi trong tuyệt vọng, vợ tôi
thổn thức: "Anh ơi !, em sẽ nhảy xuống biển nếu
họ "làm điều
đó" với em... "Đừng
nói bậy", tôi vội trả lời mà
không chắc mình phải làm gì.
Nhảy lên tàu, bọn hải tặc la
hét, múa giao, lục lọi khắp mọi nơi Để
đứa con trai và đứa cháu gái
lên 2 đùi vợ tôi tiếp tục
khóc: "Lấy hết đi, lấy hết những
gì các ông muốn"... Đây là một
câu chuyện cười ra nước mắt mỗi khi chúng
tôi nhắc lại chuyện cũ: vợ tôi không có
gì cho chúng lấy cả !
Mỗi lần tìm được
chút của cải là bọn hải tặc reo
hò vui mừng. Riêng tôi
rất lo. Tôi biết
phần đông chúng tôi không ai có nhiều
của cải cả. Bạn
bè chúng tôi chỉ lo đủ tiền để
vượt biển.
Nhưng nếu không cướp được
gì, bọn
hải tặc sẽ kiếm cách bù trừ
trên phụ nữ, hoặc nổi nóng giết
thêm ngườ i...
Trước khi rút đi, một người
đàn ông mặc âu phục còn cho lại
chúng tôi 1 cần xé gạo và nước
đá như để trao đổi ? Có thể bọn họ
không phải là hải tặc chuyên nghiệp
hoặc chỉ là những người đánh
cá trở thành hải tặc chỉ vì tham tiền ...
Cả nửa giờ sau khi bọn hải tặc
đi rồi mà chúng tôi vẫn còn sững sờ. Chúng tôi cố an ủi nhau tiền của có mất cũng
còn làm lại được. Thật ra
chúng tôi đã may mắn, như về sau
lên đảo tôi có nghe những mẫu chuyện
có thuyền bị cướp và hiếp dâm
đến 27 lần !...
117 độ Nam, chúng tôi tiếp
tục đi nữa. Người
tài công bỏ cuộc sau nhiều ngày
đêm không ngủ và có lẽ mất
mát khá nhiều.
Nhưng chỉ vào rạng sáng hôm sau
thì chúng tôi đã đến được
bờ biển Mã Lai với hàng ngàn ánh
sáng từ thành phố dọc theo
bờ biển và từ các con thuyền chung
quanh. Người
dân điạ phương nhận ra chúng tôi. Rồi một người
lính địa phương xuất hiện rút
súng bắn vào chung quanh con thuyền
của chúng tôi ra dấu đuổi đi. Mọi người đếu
hoàn toàn kiệt quệ sau 6 ngày đêm
vượt đại dương. Chúng tôi đành
di chuyển chầm chậm theo bờ biển. Đến tối, chúng
tôi thả neo và lăn ra ngủ cho đến khi
tôi phát giác nước vào ngập đến
nữa thuyền và phải múc ra bằng tay
trước khi có thể cho nổ máy để
bơm ra ...
Buổi sáng hôm sau chúng tôi tiếp
tục đi chầm chậm dọc theo
bờ biển nhưng không có chủ định
sẽ về đâu cả.
Một chiếc thuyền câu cá
ra dấu có trại tỵ nạn ở ngoài
khơi nhưng chúng tôi không ai tin cả. Cuối cùng
chúng tôi đồng ý ra đó thử xem
vì đàng nào cũng không còn lựa
chọn khác. Quả thật có trại tị nạn ở
đó. Từ xa chúng tôi đã thấy rất
nhiều người tị nạn lố nhố đứng
nhìn qua những hàng rào trên đảo. Tại
đây chúng tôi tình cờ gặp lại
anh Ngô thanh Nho trên một chiếc thuyền
khác đã hư máy. Nhưng tất cả
chúng tôi không được lên đảo.
Hải Quân Mã Lai đã kéo thuyền
chúng tôi trong suốt 1 ngày 1 đêm
và bỏ ngoài khơi Quần Đảo Thứ 7
của Indonesia. Tại đây chúng tôi cũng có
gặp một chiếc thuyền khác đến chiều
hôm trước trong đó có gia đình
của anh Dương Quang Tuấn. 3 chiếc thuyền của
chúng tôi là những thuyền đầu
tiên "khai thiên lập địa" quần đảo tị nạn
ở vùng này cho nên mãi đến hơn
3 tháng sau Ủy Hội Quốc Tế mới biết
và bắt đầu cứu trợ ...
Chúng tôi được
đưa vào Tanjung Pinang đễ chuẩn bị
đi các quốc gia định cư nhưng đến
6 tháng sau các thủ tục giấy tờ mới
hoàn tất.
Một chân trời mới ...
"If you're going to San
Francisco..." nhưng không phải
để gặp tứ quái Beatles mà để bắt
đầu một cuộc đời mới cho chính
mình.
Cuối tháng Mười năm 1979
trời lạnh kinh khủng, nhất là đối với
những người quen sống trong vùng nhiệt
đới như chúng tôi. Khi xe đi qua những chiếc cầu treo hiện
đại để đến một motel làm trạm
chuyển tiếp tôi mới tin là mình
đã đến được bến bờ tự
do. Bóng tối
đã qua.
Chúng tôi tự an ủi về
một cuộc đời đầy hứa hẹn
phía trước như tôi đã đặt
tên cho đứa con gái đầu của
chúng tôi tại đây là
Minh-Phương, có nghĩa là "Chân trời
mới xán lạn".
Vợ chồng chúng tôi đã làm
đủ nghề để sống còn: Rửa Chén, Thư
Ký, đưa Pizza ban đêm ... Từ một sinh
viên Y-Khoa dang dở tôi ra trường với bằng
Kỹ Sư Điện rồi làm việc, viết
Software. Con đường
ở Mỹ không hề được lót bằng
vàng nhưng có một thứ không thể mua,
không thể cho đó là tự do. Gần đây, vị Tổng Thống mới
của Hoa Kỳ còn cho phép xem xét lại
các hồ sơ liên quan đến các kỹ
thuật hạch hỏi các tù nhân bị
ghép tội khủng bố. Ai cũng biết, nhất
là các tập đoàn lãnh đạo cộng
sản và độc tài, rằng "an ninh quốc gia" phải là ưu
tiên hàng đầu.
Nhưng ở đây, và có lẽ chỉ
có ở quốc gia này, có những thứ
còn trên cả an ninh quốc gia
nữa, đó là những giá trị nhân bản.
Tôi được thăng chức "ông nội",
một danh từ rất dễ thương mà lần
nào được gọi tôi cũng phải trả
bằng một cái giá, nếu không phải
là đồ chơi mới thì cũng phải
là chút quà, kẹo bánh.
Dù không trở lại được
trường Y, nhưng với tất cả thử
thách đã qua và nhìn quãng đường
còn lại, tôi hiểu và tin rằng cuộc
đời của một con người thật ra có
rất nhiều giá trị để sống với. Một
tiếng thở dài của mẹ hiền cũng đủ
cho ta ăn năn hối tiếc cả
đời. Một nụ
cười của đứa cháu thơ cũng
có thể
cho ta biết bao ấm áp và hạnh
phúc ! Tháng Mười
tới đây đứa con gái đầu của
tôi sẽ lập gia đình, để bắt
đầu một chân trời mới cho chính
nó. Tôi đã
thật ứa lệ khi dở lại chồng ảnh cũ,
ngơ ngáo trong những ngày đầu tiên
trên xứ người mà tưởng như chỉ
mới hôm qua ...
"ai bảo anh hùng không rơi lệ ?" -
huống chi tôi chỉ là một
con người bình thường với biết bao kỷ
niệm và nuối tiếc.
Rồi sao nữa ?
Nhớ ngày xưa khi còn theo học một lớp Kinh-Tế
Xã-Hội tại trường Đại-Học Vạn
Hạnh, có lần vị
giáo sư đã hỏi chúng tôi
"các anh chị có biết người ta gọi
thế kỷ thứ 20 là gì không ? - giờ đây tôi mới hiểu
cái cay đắng của câu trả lời: "Đó là thế kỷ của
phù thủy ngôn ngữ !"
Thế mà đã hơn 30 năm từ khi
tôi bỏ Sài-Gòn đi tìm tự do. Có lần tôi
được gặp lại một số người
xưa trong một chuyến về thăm quê
hương sau hơn 20 năm, trong cả hai phía của
một cái biên giới gọi là bạn -
thù. Nhưng tất cả đều giống nhau -
đều là nạn nhân của một tập
đoàn lãnh đạo lừa bịp và
đạo đức giả.
Giờ đây tóc trắng của
tôi đã có phần lấn đen rồi.
Nhưng ai lại không chết ? Tục ngữ ta có
câu: "Cọp chết
để da, người ta chết để tiếng". Không dễ dàng chết
là hết ! Có người
chết để lại bao thương tiếc. Có người chết
để lại cái tiếng mà lịch sử vẫn
nhắc mãi để làm con cháu đời
đời tủi hổ.
Và ngay cả khi còn sống , vẫn có
một loại tòa án không cần nhân chứng,
không cần luật sư biện hộ, không cần
thẩm phán buộc tội mà phán xét vẫn
rõ ràng như những tiếng vọng trong
đêm về sâu thẳm.
Võ Trang
(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)