Rạch Giá , Ký Ức
Một Quê Hương .
(Võ Ngô)
Khi chúng ta ra đi rời khỏi đất
nước thân yêu
, trên đôi vai chúng ta đều có
mang một quê hương . Quê hương của
chúng ta đó , cho dù có là những
khu xóm thôn nghèo xơ xác , hay những ruộng
đồng bát ngát thẳng cánh cò bay .
Hay là những nơi thị thành phồn hoa
náo nhiệt , Bắc
, Trung , Nam , Hà Nội , Huế , Sài Gòn hoặc
Cần Thơ , thì ai đó trong chúng ta cũng
có một quê hương để mang theo . Còn tôi mang theo quê
hương của tôi là một quê
hương nước mặn đồng chua Rạch
Giá .
Rạch Giá là quê hương của tôi , một quê
hương với hai mùa mưa nắng . Một
quê hương với nước mặn đồng
chua , dưới đôi tay của những người
dân quê lam lũ , với một tâm hồn chấc
phác thuần lương , với con trâu đi
trước chiếc cày theo sau , chồng phác cỏ , vợ
chế , con gom giồng . Và sau đó cấy trồng
lên những cây lúa , chờ ngày gặt
hái những hạt mầm , kết tụ cho những cuộc
sống tầm thường thấp bé nằm xa
ngoài xã hội văn minh và tiến bộ . Quê tôi có hai
mùa mưa nắng . Những hạt mưa bắt
đầu rơi xuống mảnh vườn thửa ruộng
vào những tháng 4-5 , để tưới
lên cánh đồng bao la những lượng
nước đáng kể . Và đồng thời
những đàn cá nương theo đó
mà di cư từ sông rạch , lên đồng
gây giống tạo nòi . Chúng sống ,
và chúng cũng nuôi dưỡng những
người dân quê tôi , có được
miếng ăn cùng với cái mặc . Những
đứa trẻ như tôi được đi ra
đồng giăng câu , đặt lờ , nom , bắt
những con cá , những con cá bị bắt ,
được đem ra chợ xã , chợ quận hay
chợ tỉnh , thậm chí những khu chợ chồm
hổm , chúng được đổi chác những
phần bánh , vải , hay những loại cần
dùng trong nhà , xà bông nước mắm ,
đường , sữa
e.t.c .
Quê tôi những người dân pha trộn
lẫn nhau để mà sống ,người Khờ
Me là người nguyên gốc bản xứ Thuỷ
Chân Lạp xưa và là Miên thuở bấy
giờ . Người Hoa , có người Hẹ , Hải
nam ,Triều Châu , Phúc Kiến , Quảng
Đông , Người Việt Nam có người Bắc
người Trung vào khai khẩn sinh sống , cộng
với một số người Chăm (Chà Và )
thiên di . Tạo cho một khu vực có những nền
văn hóa hỗn hợp , trong một vùng đất
mới khai khẩn , từ hoang sơ rừng chàm
nước ngập , thành những mảnh ruộng
đồng bao la bát ngát những thành thị
nhỏ nhoi mọc lên lổm chổm khắp
nơi . Quê tôi
có hai mùa nước đến nước đi
, nước đến từ biển hồ , qua miệt
Tân Châu , Hồng Ngự , chuyền qua sông Hậu
rồi đi ra biển (Vịnh Thái Lan) . Và
người dân bản xứ Thủy Chân Lạp
xưa nay thường có một lễ hội gọi
là đưa
và rước nước .
Mỗi mùa đưa nước dân Miên
ở các địa phương xa xôi như :-
Cù Là , Minh Lương , Xóm Đập ,
Chùa Phật Lớn , Phi Thông , Máy Nước ,Gò
Quao , Giồng Riềng , Chắc Kha , Sóc Xoài ,Vàm
Răng , Tri Tôn ,Hòn Sóc ,Tà Mọt , Lỳnh
Quỳnh , Kiên
Lương e.t..c họ gom tụ về nơi
thị xã Rạch Giá .
Họ mang những
chiếc ghe Ngo đến để cùng nhau
đua trên giòng
sông Kiên bắt
đầu từ sân vận động Kiên Giang
đua về cầu Tàu Mỹ . Những tiếng reo
hò "dô ta" rền vang dưới mặt
sông , những tay chèo đưa đẩy nhịp
nhàng ,những thân hình trùng trục
đen đủi bóng loáng dưới lớp mồ
hôi nhễ nhại cố gắng đưa mái
chèo đẩy chiếc
ghe vượt nước
. Như con khủng long vẫy vùng trên mặt
nước , người đứng trước mũi
ghe cố gắng nghiêng vai , lắc thân hình
theo nhịp điệu , để đưa đẩy dắt dẫn những tay
chèo cố gắng hết sức để đến
chiếm được mục đích của cuộc
đua là Cầu
Tàu Mỹ . Chiếc
ghe Ngo nào thắng là mang đến một vẻ
vinh quang và huy hoàng cho người cư ngụ
nơi xóm thôn làng đó . Những
người hùng chiến thắng được những
cô gái Miên choàng vòng hoa tay lên cổ
.
Rồi thì đến dịp xuân về tết
đến , những
người Minh Hương Hoa Kiều lập những
gánh múa Lân chúc tụng nhau được
vinh thân, được phì gia, gia đình
được phát đạt , và để tống
cựu nghinh tân . Hầu hết mọi người
sinh sống nơi quê tôi , đều có một
tục lệ là múa Lân , cho
nên hầu như tất cả mọi người , muốn
được lân múa
thì phải có treo tiền quà trước cửa
, để được lân múa làm vui , vừa
góp vui , vừa làm sung cho gia đạo . Vừa
thưởng cho Lân múa , vừa làm cho vui cửa
vui nhà . Lân dưới quê tôi khi múa
có thêm Ông Địa với gương mặt
tròn trĩnh , với cái quạt trên tay
lúc nào cũng phe phẩy , chỉ trỏ , những
gói quà , những gói tiền mà gia chủ
treo để được múa tại nhà
mình . (Quà) lớn múa lâu một chút
, nhỏ múa nhanh , qua sự điều tra , của
ông địa mặt tròn , khó nuốt , hay dễ
ngậm . Những gói
quà tiền đó người treo cũng
đâu có cho con Lân dễ dàng lấy
đựơc , tiền càng nhiều thì việc
lấy tiền càng nhiêu khê . Lúc
đó dãy chợ nhà lồng chúng
tôi , từ tiệm cà phê ông hai vợ (2
căn) , bọc vòng hình cánh cung tới tiệm
Công Trường Xuân thì dãy phố đại
đa số là nhà có hai tầng , ngoại trừ
khách sạn Phú Sĩ , Nam Mỹ , và Công
Trường Xuân có những tầng lên cao .
Nhà 2 tầng nó đã cao rồi mà chủ
gia còn treo lên nhánh tre hay trúc những
gói quà tiền mầu đỏ ở trên ngọn cây tre hay trúc , vậy
thì đâu phải dễ dàng cho đoàn
múa lân lấy
được phần quà đó , đoàn
lân phải tìm trăm phương ngàn kế
, để lấy cho bằng được , đôi
khi cũng có trả gía , bằng đôi tay xụi
lơ đôi chân
què quặt vì sơ sẩy . Khi thì làm cây cột
dài cao , lân phải leo bằng chân lên lấy
, khi thì làm những cọc từ thấp lên
cao , để lân nhảy lên đầu cây
mà lấy phần quà . Tiếng trống của
ông Tàu già nhịp nhàng đưa dẫn
cho lân từng bước một , không nhanh
mà cũng không chậm . Làm sao cho vừa
lòng người bỏ ra của , làm sao cho vừa
sức của kẻ múa lân được nhận
.
Triều Kê
Triều Kê
là một điệu hát nhạc của
người Miên , không như hát bộ , chẳng
phải cải lương
, vì đó là môn nghệ thuật ,
hát và nhảy là những đặc thù
của người Thủy Chân Lạp ( Miên ) . Cạnh xóm tôi ở vào lúc đó
là xóm Rạch Giồng , có chùa Phật
Lớn tọa lạc về hướng Bắc của Thị
Xã Rạch Gía mà lại là hưóng
Nam xóm tôi ở .
Hình như là mỗi tháng đều có
gánh hát Triều Kê từ phương
nào đó về hát ở chùa Phật Lớn
. Những đoàn người Miên từ Xóm
Đập ,Tân Điền , Mỹ Lâm , Sóc
Xoài lũ lượt đi xem . Và những anh chị người Việt lớn
hơn tôi dăm ba tuổi cũng vin vào
đó để đi chơi , hẹn hò nhau đi nói chuyện
tình yêu Nam Nữ . Còn tôi thì bé
tí 9-10 tuổi biết gì về tình yêu ,
biết gì về Triều Kê , hay tiếng Miên
, mà cũng tập tành vui chân đi theo cho
có bọn , (để mà phá , để mà giỡn ) . Những
cô gái Miên ăn mặc áo quần sắc mầu sặc sỡ ,
má trét phấn dầy như tấm mề đay
, môi thoa son đỏ chét , tay khuyên vòng
kiềng vàng óng ánh rực rỡ đi muốn
không nổi , cộng thêm đôi chân
chưa quen với các loại giầy dép ,
nhìn tướng đi lom khom lọm khọm trông
mà buồn cười . Nhưng xem ra họ lại rất
là vui vẻ líu lo những ngôn ngữ
của họ (Tâu na
"Đi đâu" , Un
salanh bòn
tê ? "em
thương anh không ?") Khi thì lót dạ
vài ba câu tiếng Việt . Nói thật ra
thì tất cả người Miên sống chỗ
tôi ở , họ đều biết nói tiếng
Việt , ít hay nhiều , nói hay không nói
mà thôi . Người Miên họ có một
điệu nhảy cũng vui lắm , đó là
điệu nhảy tam phol hay lam thol
gì đó chữ nầy tôi thua không biết
viết hay gọi . Họ nhảy với nhau từng
đôi từng cặp mông lắc tay xòe ,
xê qua xàng lại . Tay
cô gái vân vê tà áo , lắc lắc
chiếc quần không đáy (xà rông) , khi
thì họ kéo nguyên đoàn người
ra trên sàn nhảy . Một điệu nhảy rất
vui , Không như Lambada của Mễ , không như
luân vũ Valse của Áo , không như Tango của
Á Căn Đình , không trữ tình như
slow mùi Mông Cổ
, không bước kỹ như Boston Pháp ,
không nhảy kiểu như
pasodoble của xứ đấu bò . Mà họ
nhảy qua tiếng hò hòa lẫn trong tiếng ca
cùng chung nhau vui vẻ
, hồn nhiên . Cái thật thà cái chấc
phác đã nói lên bản tánh của họ
. Người Miên họ rất hiền , nhưng họ
để bụng và
thù rất dai ,
khi bị người Việt hay Tàu hà hiếp
họ . Những khi Miên "dậy phản", họ
đi "cáp duồn" (chém Việt) là phần
chính cũng vì họ bị chèn ép
và thua thiệt , nó vẫn ẩn tàng trong
đầu họ , nếu có dịp , hay có ai
khơi nguồn thì họ
sẽ dễ dàng bộc phát ..
Những tình cảm dân gian thơ mộng
hay không thơ mộng được nhìn qua mắt
, những cảnh sống
êm đềm hay chẳng êm đềm của
những con người mộc mạc nơi quê
hương tôi , được thể hiện phần
trên . Còn đây là những mùi vị
quê hương mà tôi có dịp thưởng thức nơi
đã sinh tôi ra và
được lớn lên ở đó .
Sau tết Mậu Thân 1968 , xứ Rạch Giồng
làng tôi là con đường rút lui của
Việt Cộng tấn công Thị Xã Rạch
Giá không thành công , chúng len lỏi
vào những khu vườn của dân chúng
để trốn tránh những đợt oanh tạc
của máy bay . Khu vực Chùa Phật Lớn
là khu vực cây cối rậm rạp nhất , những
cây xoài lớn nối vòng tay 3-4 người
, những cây Sao , cây Dầu cao ngất ngưởng
, những chòm mả của nguời Hoa , những ụ
đất mả to tổ chảng , coi như những giao
thông hào chúng len lỏi mà rút lui .
Hay những miếng vườn ổi của xóm
Vàm Chư , nhánh cành đan nhau chằng chịt
, cũng là nơi để cho chúng dựa
nương , cho qua đợt càn quét cuả 4 chiếc trực
thăng , thay phiên nhau chặn đường rút
lui của chúng , cộng với 4 chiếc F5 từ
sân bay Trà Nóc về đó xung kích
và thả bom , làng tôi lúc đó bị
tàn phá khủng khiếp , không còn
cái nhà nào nguyên vẹn , nhà tôi
bị san bằng thành bình địa , cũng may
chúng tôi được di tản trước
đó vài giờ , theo ngõ Xóm Ðập
qua cầu số 2 , rồi dọc theo đường kinh
xáng Hà Tiên , đến Mỹ Lâm tá
túc nhà một người bác thứ hai . Trận
chiến tàn , thì ba mẹ tôi bỏ luôn xứ
sở Rạch Giồng về Hòn Tre mua đất lập
vườn làm rẫy cấy trồng để sinh
nhai . Chúng tôi sinh sống tại Hòn Tre kể
từ đầu năm 1968 cho đến 1975 . Tuy chỉ
có 6 năm nhưng trong tôi đầy ắp những
kỷ niệm .
Hòn Tre
là nơi trong tôi có nhiều kỷ niệm nhất
, là nơi với tuổi đời vừa mới lớn
, vừa mới biết yêu thương những con
người lạ hoắc , và từ đó có biết bao nhiêu
là kỷ niệm trong tôi . Hòn Tre là một
thiên đường của tôi từ dạo
đó , không có chiến tranh , không
có tiếng súng vang rền mỗi đêm .
Bãi trước người dân gọi là
xóm Nhà Lầu , có một căn cứ Hải
Quân , và có một đồn lính, một
trung đội Nghĩa Quân thì phải .Lúc đó gia
đình tôi mua một miếng đất 10
công của ông 6 Phuông ở xóm giữa là 130.000.00 đó
là tất cả gia tài của ba mẹ tôi ,
bán trâu sang đất , và số tiền
dành dụm của ba mẹ gom lại hết mới
có đủ để mua miếng đất
đó . Đất đã có 6 công trồng
mãng cầu , đã có trái , còn 4
công chưa khai khẩn.
Sau nầy gia đình chúng tôi khai khẩn
và trồng hoa mầu các loại hoa mầu
,bí đao ,bí rợ , cà tím cà phổi
, khoai môn , chuối ,
hay các loại rau cải .Chuyến tôi ra Hòn
Tre đầu tiên , vào lúc trường nghỉ
hè , lúc đó trời đã bắt
đầu nhen nhúm những cụm nước , sắp
sửa thả xuống cánh đồng chua nước
mặn của quê tôi . Lần đầu tiên
ra hòn , và cũng là lần đầu
tôi biết thế nào là nhổ cỏ dại
, chặt những cây rau mui , biết soi lỗ tỉa
hạt giống .
Ốc núi
Những cơn mưa bất chợt làm
chúng tôi bị ướt sũng , vì
không thể nào chạy kịp về trại để tránh mưa ,
thì những cơn mưa đó cũng giúp
chúng tôi có những
bữa ăn khó quên là món ốc luộc
. Sau những cơn mưa rớt xuống vội vã ,
khi mưa dứt , thì chúng tôi đi lụm những
con ốc núi , chúng đang bò lểnh nghểnh
đi kiếm ăn , đem về thả chúng vô
trong cái thùng , cho chúng xả đất
và nhớt , rồi bỏ chúng vô nồi xếp
vài ba cọng sả , hay lá ổi . Xếp
chúng lên trên phần của lá sả hay ổi
, rồi nổi lửa luộc. Khi thấy mày ốc
rớt ra là ốc đã chín . Lể thịt
chúng ra và chấm chúng với nước chấm
cơm mẻ , ôi thôi nó ngon tuyệt cú
mèo . Tôi dạo đó nào có biết
uống rượu uống chè gì , chỉ
có ăn , còn
chú năm Thơm (người phụ gia đình
tôi làm vườn) vừa ăn vừa nhâm
nhi vài ba ly rượu đế , tôi thấy
chú có chiều hả hê lắm .
Sóc Nâu
Sóc là loại sinh sống trên cây ,
thân hình chúng mầu nâu hay vàng lợt
, chúng ăn chỉ toàn trái và lá
cây . Mãng cầu , chuối xoài là những
loại chúng khoái khẩu nhất , cho nên khi
trái mãng cầu hột vừa có mầu
đen là chúng bắt đầu ăn . Chúng
khoét lổ từ trái nầy qua trái
khác , làm cho
người làm vườn như chúng
tôi thất thu rất nhiều . Làm bẫy mà
bẫy chúng cũng đâu có dễ dàng
gì . Ðuổi chúng , chúng không đi .
Chúng tôi làm ná (nạng giàn thun) bắn
chúng , chúng cũng chẳng sợ , mà
chúng tôi bắn có trúng chúng
đâu mà chúng sợ . Một hôm
tình cờ tôi ghé chành lúa của
người dì bà con xa , ở đầu voi kinh
xáng Hà Tiên thấy ngưòi cậu
làm cái lồng để bẫy mấy con chuột
đói gom về vựa lúa để ăn .
Và từ đó chúng tôi nghĩ ra
cách bẫy mấy anh chị sóc . Chúng tôi mua lưới
chì , làm khung hình chữ nhật , gắn hai
cái lò xo , một cái móc gài , ở
miếng mồi , khi anh chị sóc tha miếng mồi
thì bẫy bật và nhốt anh chị vào
trong đó . Sau khi đến cuối tuần tôi
trở lại Hòn Tre
chúng tôi bỏ gần một ngày trời
làm được 4 cái lồng , mang lên
vườn để bẫy chúng . Chúng tôi lấy
hai trái chuối chín cắt hai thành 4 miếng
, chúng tôi móc vô cái cò bẫy ,
gài sẵn đem ra mấy tảng đá lớn
bằng phẳng đặt bẫy , rồi chúng
tôi trở lại trại nấu cơm chiều ăn
. Ăn xong chúng tôi ra thăm bẫy , 4 lồng
thì có 4 anh chị sóc ở trong đó .
Chúng tôi cũng chẳng biết làm sao với
các anh chị mới tóm cổ được ,
giết chúng cũng thấy tội nghiệp , thả
ra thì uổng công tôi làm lồng . Tôi
định mang về khu vực nhà dưới
bãi thả chúng , khi đi ngang qua nhà chú
hai Chòi , chú gọi lại hỏi tôi mang
sóc về có bán không , nếu bán
chú mua .
Tôi trả lời :
- Cháu tính
mang nó xa miếng vườn của cháu rồi
cháu thả nó ở dưới nầy .
Chú hai nói :
- Cậu bắt được nó , rồi cậu
thả nó ,nó không còn phá vườn cậu nữa thì nó đi phá
miếng vườn của người khác . Vậy cậu nghĩ
sao có nên hay không nên , loại nầy
là loại phá hại mùa màng , cây
trái , bắt được thì ăn , không
ăn thì cũng giết chúng , để chi
cái loài ăn hại nầy .
Tôi trả lời :
- Ăn chúng thì cháu chưa ăn bao giờ
, làm thịt chúng thì cháu cũng chẳng
biết , cho nên cháu mới nghĩ cách
là mang về đây thả chúng mà
thôi .
- Cậu có thấy miếng đất nầy
là của Ông Tư Răng , dừa xoài , cam
quýt và loại sóc nâỳ ,
đã phá hoại
cây trái của ổng rất nhiều rồi , nay
cậu còn mang về thêm để thả
vào nữa , theo cậu ông Tư Răng ông ta
có phiền cậu không ? . Thôi thì cậu
bán cho tôi đi ,
ít ra cậu cũng có vài đồng đi uống
cà phê . Còn hoặc giả cậu đưa
tôi làm , tôi nấu chín gọi cậu qua
nhâụ , được không .
Tôi cứng lưỡi , không trả lời
được đành giao 4 cái lồng có
sóc cho chú , rồi
về nhà , tắm rửa
xong rồi sang xem chú làm sóc và nấu
sóc.
Việc đầu tiên là chú đem 4
cái lồng có sóc , ném xuống dưới
khe suối . Chú bắt nồi nước sôi ,
đâu khoảng 4-5 phút các anh chị sóc
đã chết ngộp , nồi nước cũng vừa
sôi , chú nhúng các trự sóc vào
, rồi đem ra dùng sống dao cạo lớp
lông cuả sóc . Rồi chú lấy lá dừa
khô đốt lên thui lớp da ngoài cho
cháy hơi vàng , chú mới mổ bụng lấy
ruột gan phèo phổi ra hết , chú chặt
cái đâù trước , rồi thì chặt
theo chiều xuôi xương sống sóc , rồi
đùi rồi tay sóc , phân thây
sóc thành chín
mười mảnh . Chú ướp ngũ vị
hương , tương hột , bột nghệ ,cùng
với nước cốt dừa , chú xào nấu
theo kiểu xào lăn thịt rừng .Chấm với
nước chấm , nước cốt dừa ,
tương giã nhuyễn , đậu phọng rang
vàng đâm nhuyễn , hòa cùng với xả
bầm , mùi thơm bay tận chín tầng mây
. Chú nhâm nhi với dăm người bạn ,
và đốn ngả một chai 1 lít đế ,
chú hả hê bạn chú no bụng , còn
tôi lấy mắt nhìn , lấy lỗ mủi để
ngửi chớ tôi nào có dám ăn .
Khỉ
Khỉ là loại sống trên cây , chủng
loại của chúng cũng chỉ ăn trái, lá cây và các
loại củ . Loại nầy còn dữ dằn
hơn loại sóc nhiều. Chúng đi đến
đâu rẫy vườn điêu tàn xơ
xác đến đó . Hòn Tre chỉ là một
hòn đảo nhỏ nhoi , nhưng tôi không biết
ở đâu mà nhiều khỉ đến thế
. Khỉ mẹ , khỉ con , khỉ chồng , khỉ vợ
, từng bầy từng nhóm , có bầy vài
chục con , có bầy nhiều đến cả
trăm . Loại nầy nó khôn như người
, chúng nó đi có quy tắc đàng
hoàng , không có lang thang như mấy trự
sóc phần trên vừa kể . Khỉ có con khỉ
đầu đàn gọi là khỉ đột
, nó như một ông vua , hiên ngang và oai dũng
, mắt sâu răng nanh dài , tướng đi bệ
vệ oai hùng , hai bên có hai con khỉ theo hầu .
Đầu năm 1969 gia đình chúng
tôi khai 4 công đất còn lại để
trồng khoai môn cà tím , và bí đao
bung (loại bí đao to trái để làm mứt
bí) bí đao trồng ở mé rộp (rừng)
. Tôi thì mỗi cuối tuần mới được
về hòn để phụ giúp gia đình . Cho
nên mọi công việc rẫy vườn thì
chú Năm Thơm làm cả . Hôm đó tôi
lên ngủ trại sáng thức dậy tôi
chưa làm gì , kể cả việc vệ sinh
cá nhân , tôi nhìn về phía rừng ,
viền của miếng vườn tôi , thì
ôi những nhánh cây đầu heo , rừa , da
, miên , kén rung động lao xao cả một
vùng mấy chục thước vuông , tôi
không biết chuyện gì , tôi mang giầy thật
nhanh (*) , tôi chạy xuôi theo hàng chuối ra
mé rộp , để xem chuyện gì , khi đế
nơi thì ôi thôi hàng trăm con khỉ
đang nhăn nhăn nhố nhố , con móc ba sườn
, con gãi tai , con thì đung đưa theo mấy rể
cây rừa lòng
thòng chạy giỡn , hú hí vang cả một
góc vườn . Nhìn xuống đám khoai
mì , thì ôi thôi lăng nhăng lố nhố
mười mấy trự khỉ đang lui cui bươi
móc củ mì . Con thì leo lên cây
mì , đu đưa , năm bảy con chạy quanh gốc
, vừa chạy vừa đái vào gốc cây
. Tôi nhìn chúng
tôi bắt cười vì tôi cho chúng
nó là loài khỉ
chỉ có phá . Nhưng có ngờ đâu
đó là cách thức của chúng đi
ăn trộm khoai mì của tôi . Chúng chạy
, chúng đái vào gốc cây , một con lắc
ngọn chưa thấm , rồi hai con , rồi ba con
trèo lên lắc , thế là .. cây mì gốc
bằng cổ tay , củ bằng hai gang tay ráp lại
, gốc bị trốc , củ lòi lên thì
chúng gọi nhau chí choé đến chia phần
chiến lợi phẩm và phân thây cây
mì cuả tôi vừa bị bật gốc ,
tích tắc dăm ba phút chúng xơi tái
hết nhẵn các củ ở cây mì . Trong
tay tôi chẳng có cây , hay dao gì để
làm vũ khí đuổi chúng , cho nên
tôi lấy mấy cục đá ném vào
chúng và la để đuổi chúng ,
lúc đó .. mấy con khỉ nhỏ chạy về
rừng , hai con khỉ đột từ rừng chạy ra
, vừa bảo vệ lũ khỉ con , vừa hầm hừ
với tôi . Như chúng bảo với tôi
là , thằng nhóc tỳ mầy nhỏ thế chúng tao nào có sợ
mầy đâu . Khi đàn khỉ con vào rừng
hết thì hai con khỉ đột cũng ung dung bước đều
chễm chệ về rừng . Nó xem tôi chẳng
ra gì , như một con khỉ khô đứng nhìn
nó vậy .
Tôi tức giận cành hông cái lũ
ăn cướp 4 chân nầy , nhưng cũng chẳng
biết phải làm sao , đành ngậm bồ
hòn về trại trong lòng thật ấm ức
và tức tưởi
. Chú năm lên , tôi kể với chú nghe
chuyện vừa qua .
Chú nói :
- Bọn khỉ
chúng nó rất thường xuyên đến
đây , khoai lang , khoai mì , kể cả bí
đao bung , có trái nặng hơn 10 kg mà
chúng còn khiêng đi nữa ,chú cũng chẳng có làm
gì được nó hết , chú đuổi thì
nó đi , chú đi thì nó trở lại
, đành chịu mà thôi .
o O o
Xiêm Lo
Đêm đó tôi miên man suy nghĩ ,
không biết làm cách gì để xua
đuổi mấy
lão tề thiên phá hại nầy , rồi
tôi cũng đánh một giấc ngon lành cho
tới mặt trời
đã ló lên mặt biển 3-4 sào .
Chú năm đã ra vườn làm từ
lâu , tôi bắc vội ấm nước ,
đánh răng xong trở lại thì nước
cũng vừa sôi , pha nhanh ly cà phê uống vội
vàng để ra rẫy làm phụ công việc lặt vặt với chú
. Khi trưa trở lại trại chú năm có
mang về hai cái bắp chuối cùng với một
nắm lá bứa , chú hì hục chặt nửa
miếng thịt khô và đầu khô cá
rách , chú đem ngâm nước ..
Tôi hỏi chú :
- Chú làm
gì vậy .
Chú nói :
- Chú nấu canh
Xiêm Lo .
Tôi hỏi :
- Chú năm
ơi canh gì nghe lạ tai quá vậy ?
Chú trả lời :
- Canh nầy là canh chúng ta bắt chước
Thái Lan . Khi xưa Chúa Nguyễn Ánh oánh
lộn không lại và thua quân nhà Tây
Sơn chạy qua Xiêm cầu viện , nhưng khi
quân Xiêm sang Việt Nam lại bị quân
Tây Sơn oánh cho mấy trận te tua 10% chết
7% chỉ còn 3% , chúng cố gắng chạy cho
thoát thân về nước . Giống dân
Thái phần đông ăn uống đều
là khô cá . Vì thế chúng đi
đâu cũng mang theo cá và khô . Thịt
cá khô chúng ăn trước hết rồi ,
nay chỉ còn là đầu khô cá thiều
, cá rách , cá rún . Chúng phải
đành lấy hoa chuối với lá bứa , nấu
chung lại thành một món canh , không chua ,
không mẳn . Vì chúng sợ quân Tây
Sơn tìm gặp bắt giết chúng , cho nên
chúng vừa ăn nhanh , chúng vừa sợ chết , cho nên dân mình mới
gọi là món canh Xiêm Lo là thế .
Tôi nói :
- Trời ơi món canh mà cũng có một
lịch sử dài thòong như thế kia à .
Chú bảo im lặng để cho chú nấu
, đừng bận rộn chú , vì trời
đã trưa rồi .
Cách nấu món
Xiêm Lo :
- 2 bắp chuối lột
phần già của bẹ , cho đến khi thấy phần
bẹ trắng là được . Cắt bắp chuối
theo dạng chuốt viết chì , bề dầy khoảng hai
đốt tay . Lấy luôn cùi chuối đừng
bỏ , vì cùi chuối sau khi nấu chín
ăn bùi lắm .
- Lá bứa cắt sợi
mỏng .
- Đầu thịt
khô cá , chặt miếng thành ô vuông
bàn cờ , hay hình chữ nhật gì
đó thì tùy người thích .
Vuông , dài gì thì khoảng hai ngón tay
là được .
- Bắt nồi nước
đun cho thật sôi , thả bắp chuối trước , đợi khi nước sôi lại
mới thả khô vào , và cũng đợi
khi sôi lại mới thả lá bứa vào ,
nêm nếm xem có đủ chua hay không , nếu
không đủ thì thêm lá bứa . Nếu
đã đủ chua bỏ thêm tí đường
, tí bột ngọt , đem xuống bếp là
ăn được . Một món ăn đơn giản
không cầu kỳ , nhưng nó đầy đủ
hương vị . Từ vị chát của bắp
chuối , từ vị chua của lá bứa , từ vị
mặn của khô , từ vị ngọt của
đường , lắng sâu trong lòng bột ngọt
, cho nên nồi canh cũng rất đậm
đà , khi mà hương vị quê
hương có phôi pha và lạt lẽo nơi
môi lạnh của xứ
người , trong lúc chúng ta những kẻ tha
hương đã nếm .
Mới đó
mà cũng đã hết một cuối tuần ,
tôi phải thu xếp về nhà và còn phải
nhảy gành lên xóm Nhà Lầu , nằm ,
ngồi chờ đến 3:00 sáng ghe mới xuất
phát trực chỉ đi vào Thị Xã Rạch
Giá , để mà mài cái đũng quần
cho mỏng , để nhét dăm con chữ vào
đầu . Ôi nhiêu khê cho đứa học
trò nghèo , cuộc đời luôn luôn
phiêu bạt , cuối tuần Hòn Tre đầu tuần
về nơi thị xã .
Chiều thứ hai , rất
may cậu tôi đi
lưới về , có làm buổi tiệc thết
đãi , mấy người ngư phủ đi chung
tàu gom lại nhậu với cậu . Rượu
vào lời ra , anh , chú ngư phủ ỏm tỏi
, nói chuyện huyên thiên , trời trăng
mây nước , có Trung , có Bắc , có
Nam , kẻ thì họa lũ , kẻ thì ôn o
, kẻ thì nàm nhớn , kẻ thì tâu tắng
tâu đen , kẻ cá gô nằm trong cái gổ
. Sự chung vui sự hòa cùng nhịp điệu 3 Miền qua tiếng nói , nơi
quê tôi , sao mà nó đậm đà
và tha thiết . Sau khi buổi tiệc sắp tàn
, tôi có nói về chuyện phá phách
của mấy trự Tề Thiên nơi miếng vườn
của tôi . Thì có rất nhiều
chú anh ngư phủ
chỉ cách xua đuổi , hay gài , bẫy , bắt
các chú khỉ .
- Có người chỉ
cách nên trồng mè , vì lá mè
nó có nhựa , khỉ đụng đến nhựa
sẽ dính tay , dính lông ,cho nên khỉ
không dám ghé lại để phá nữa .
- Có người chỉ
cách đào hầm , mở nắp , dựng
cây cà bắp (dừa
nước) ngay chính giữa , bắc cầu cho khỉ
tuột xuống , giựt nắp hầm đậy lại
mà bắt chúng .
- Có người chỉ
, làm chuồng khỉ hình vuông một đầu
mở miệng , bỏ thức ăn vào trong đợi
khỉ vào , thả vỉ rơi xuống khóa miệng
chuồng là bắt khỉ .
Mỗi người mỗi
vẻ mười phân vẹn mười .
Mới đó cũng
đã qua suông một tuần lễ học ,
tôi được trở về lại Hòn Tre .
Chiều đến
tôi ghé qua nhà chú tư De , cháu gọi
Ông chủ Le Nestour bằng cố , vì tôi
có nghe qua chú rất thù và ghét khỉ
, vì thiếm , vợ
chú có lần bị mấy con khỉ xé toạc
cả quần áo, định hãm hiếp thiếm
, may là chú về kịp đuổi chúng
nó đi .
Tôi kể cho chú
nghe mọi chuyện ở nhà người cậu
tôi , cách làm chuồng , cách gài bẫy
khỉ , chú đồng ý cùng tôi
làm chuồng bẫy để gài khỉ . Khu vườn tôi
có rất nhiều bụi tre gai , bụi nào bụi
nấy to tổ chảng , cây tre to bằng 3 gang tay nối
lại , cao mười mấy 20 thước , tôi
cùng chú đốn tre để làm chuồng
bẫy . Trước khi đốn tre phải dọn
chà tre , đã gọi là tre gai , cho
nên mình mẩy
chúng toàn là gai , chỗ nào nơi
chúng cũng là gai cả , gai ơi là gai , gai
tùm lum tá la , bùm xùm , chúng móc
rách cả quần áo , lẫn thịt da , nếu
chúng ta chạm vào gai chúng . Chúng tôi phải
dùng loại rựa tra cái cáng thêm thật
dài để móc nhánh , và dọn
chà tre . Lui cui tôi
với chú cả ngày mới đốn được
đâu chín mười cây , tạm đủ
cho việc làm chuồng bẫy khỉ . Cắt khoanh
tre , chẻ tre ra thành miếng đủ để
làm chuồng thì coi như chết tiệt hai
ngày thứ bẩy chủ nhật của tôi .
Trên đỉnh núi mặt trời đã nhắm
mắt không muốn nhìn chúng tôi nữa
,vậy đành thôi , chúng tôi thu xếp đồ , về xóm bãi . Đường dốc
núi quanh co , thoai thoải , từng bước chân
đi như có người xô mình xuống , đôi chân phải gắng
gượng để lấy quân bình cho cái
đầu đang chúi , cho nên cặp gối
đôi khi không sợ mà phải phát run .
Nhìn tôi , xét lại mấy người
khuân vác tôi thấy tội cho họ vô
cùng , vì nghèo nên phải cố gắng
làm việc vất vả . Mấy người thợ khuân vác , ở
đây đại đa số là những người
trốn lính (trốn đi quân dịch), nếu gọi
là "đào binh" cũng đúng
thôi . Kể cả người làm vườn của
gia đình tôi là chú năm Thơm cũng
vậy . Xóm tôi ở hình như hết 80%
là dân trốn lính . Ngoại trừ những
người trẻ tuổi như tôi , hay gìa
như ba tôi , thì
không phải , còn lại thì hình như
là hoàn toàn người trốn lính . Kể luôn cả
chú tư De , 3 Bull cháu ông Le Nestour cũng
là dân trốn quân dịch . Nhưng Việt Cộng
thì lúc đó chẳng có ai lộ diện
. Sau nầy tôi mới biết là có hai người
rể của ông năm Đực , là Ba Cứng
& Tư Thuật
,vào lúc có chiến dịch Phụng
Hoàng và nhổ cỏ
U Minh hai trự chịu không nổi mới chui ra
hòn, nương nhờ bên vợ , còn có
thêm một người
nữa là con trai thứ hai của ông hai Tịch tức
hai Bình không có trốn ra hòn ở , và sau nầy tôi nghe
nói hắn là thiếu
tá tiểu
đoàn trưởng tiểu đoàn cơ động
của Việt Cộng
gì đó .
Tôi với chú
tư De về ngang
quán cà phê nhà
5 Hội , lúc đó đèn cũng vừa
lên mọi người xúm xít lại
cùng nhau , kẻ uống trà người uống cà
phê , rồi
đánh lô-tô , đó là một trò chơi nghèo
nàn mà vui nơi
quê hòn xa thị trấn của chúng tôi .
Chiếc lồng bẫy
chưa làm xong , thì tôi phải trở lại
Rạch Giá vì một cuối tuần dành cho tôi đã
hết . Tôi lại phải khăn gói nhảy
gành lên Xóm Nhà Lầu , nằm chờ
để được về lại Kiên Giang .
Năm ngày học tuần
nầy sao mà nó dài đăng đẳng ,
thời gian nó như một sợi dây nối liền
nhau bất tận làm mắt tôi không nhìn
được đoạn cuối của sợi dây .
Có lẽ một sự chờ đợi , đã
làm cho cọng thời gian khoanh tròn lại ,
và chúng không muốn duỗi thẳng ra để
bước đi , làm cho một ai đó .. chờ
, mắt và lòng được kéo dài
lê thê theo nhịp gõ của chiếc đồng hồ.
Nhưng chuyện gì đến , thì nó sẽ
đến , rồi cũng đến cuối tuần
tôi như thường lệ cũng khăn cũng
gói , cũng cái gùi (ba-lô) trên vai với
chồng sách nặng chình chịch .
Chuyến về Hòn
kỳ nầy tôi được về sớm hơn mọi lần
trước , vì tôi quá giang được
chiếc ghe Hải Thuyền
vào thị xã , cho nên chưa đến
4 giờ chiều tôi đã về được
nhà . Mới bước vô nhà , thằng em thứ
sáu của tôi , nó
nắm tay tôi , nó chỉ phía bên kia
suối nó nói :
- Khỉ , Khỉ , Khỉ .
Tôi không biết
chuyện gì đã xảy ra , tôi chạy
vào nhà hỏi mẹ tôi , thì mẹ
tôi cho biết là hôm nay người đằng
xóm cùng chú năm bắt được khỉ
, và người ta đang làm thịt khỉ ở
nhà ông bảy Nhuần
. Tôi đem cất vội vàng cặp
sách , ba chân bốn cẳng chạy nhanh về
phía nhà ông bảy Nhuần . Lúc
đó tôi thấy hai Hí & bảy Mập
đang lui cui lấy là dừa khô đốt thui
da khỉ . Tôi thấy hai con khỉ bị xỏ
cây ngang , từ miệng trổ về hậu môn ,
nằm trên 4 cây nạng chéo , da mặt
thì nhăn , răng thì nhe ra lòi cả nướu
răng , da chúng bị đốt lem lổ . Tôi
hãi hùng nhìn chúng , thì chúng
có khác chi một đứa con nít bị con
người làm thịt ,nhìn hình chúng
nào có khác chi con người , có
khác chăng là cái đuôi và lớp
áo lông choàng bên ngoài cơ thể , nếu
chúng ta lột bỏ hết . Miệng tôi cảm
thấy tanh tanh và muốn ói , nhưng trong bụng
tôi lúc đó có miếng thịt , miếng
cá , miếng cơm nào đâu mà ói
ra cho được . Chỉ có nước , không
biết nước từ
đâu mà nó trào ra miệng tôi nhiều
thế , bắt tôi phải nhổ ra , càng nhổ
ra , thì nước miếng đưa lên càng
nhiều , những cơ thịt bụng co thắt
,tôi muốn nôn
nhưng lại nôn không được . Lúc
đó chú tư De với chú năm Thơm
đi lại bên tôi khoe chiến công , bắt
khỉ hiển hách của hai chú . Lỗ tai
tôi lúc đó bị lùng bùng tôi
nào có nghe các chú nói gì , qua
công trạng đó .
Tôi thất thểu
trở lại nhà , trèo lên tấm ván ngựa
, gác tay lên trán mà suy nghĩ vẩn
vơ . Nằm trằn trọc mãi cũng chẳng
làm được gì , tôi bật dậy , soạn
những sách vở nào cần để học
cho tuần tới , bỏ vô ba lô , dăm
món thức ăn
đủ hai ngày hai đêm ở trên trại
, tôi lê từng bước một rời nhà
, khi đi ngang qua nhóm người đang đánh
chén , tôi nghe
có tiếng ai đó gọi mời , có tiếng
của ai đó kêu lại ăn , đôi
chân tôi vẫn bước đều , đầu
tôi không ngoảnh lại . Tôi lên tới trại
, lúc đó trời cũng nhá nhem tối , tôi nghe bụng tôi cồn
cào réo gọi đòi ăn , biết tôi
cả ngày nay không có chi bỏ vô cái
bụng . Nhìn lên cái kệ để đồ
ăn khô , thùng mì hai tôm , còn lại
dăm ba gói . Tôi thổi lửa đun nước
, bỏ mì vô tô ra chỗ trồng rau hái
dăm cọng hành thả vô tô , cũng xong một
buổi ăn chiều đạm bạc . Trăng trung tuần
vừa ló lên trên mặt biển , trải
ánh sáng vàng vằng vặc , lên cây
Ngô Đồng sắp sửa trổ hoa trước cửa trại của
tôi . Tiếng cú than đêm vọng lên từ
bên kia phía rộp . Tiếng dơi quạ tìm
mồi cánh đập
vội vã bên khóm chuối chòm Miên
(**) , vài con dơi sen
đang co xòe cánh vờn quanh bắt muỗi .
Hòa cùng tiếng mèo rừng nghêu ngao gọi
bạn trong đêm . Âm thanh rừng về khuya , nếu
lòng vui , thì đó là một điệu
nhạc đưa hồn người tiêu diêu
thoát tục . Nếu
lòng buồn thì đó là một điệu
nhạc trầm cảnh đến thê lương . Trời
trong , khung trăng vành vạnh , những làn mây
áp núi bay vẩn vơ , đang bao quanh bụi tre
già đang phơi
sương cong mình duới ánh nguyệt . Trời
càng về khuya mây áp núi càng dầy
, tôi bụng bảo dạ ngủ thôi khuya rồi
, mai còn phải làm biết bao công chuyện .
o O o
Buổi sáng tinh
sương vầng hồng ở phương
đông chưa tỏ
rạng , thì chú năm đã lên tới trại rẫy , chú lui
cui nấu nước pha cà phê , chú làm
động tác nhẹ thật nhẹ , có lẽ chú sợ
những va chạm mạnh mẽ sẽ đánh thức tôi dậy . Nhưng chú có biết
đâu chú vừa mở cửa là tôi
đã hay chú lên rồi , tôi ngồi dậy
tìm đôi dép , thì không thấy ,
tôi đang loay hoay kiếm tìm.
- Chú hỏi tôi
tìm kiếm gì vậy .
- Tôi nói đôi
dép , đêm hôm qua tôi để
đây , bây giờ sao không thấy .
- Chú nói , tại
vì cậu đóng cửa không
kín , nên mèo
chui vào được , và nó đã tha
đi mất , có thể ngoài tảng đá
bằng đằng kia , hay dưới hang rộp nằm
bên gốc cây vong
, mai sáng cậu đi tìm không mất
đâu mà sợ .
Chú quay lại
nhìn tôi và hỏi :
- Sao hôm qua cậu không
ăn thịt khỉ , cậu có biết không thịt
khỉ nó tốt và bổ dưỡng lắm
đó , nó vừa bổ nguyên khí ,
tráng dương bổ thận trị phong thấp
và chữa khỏi người bị suy nhược
thần kinh . Còn óc khỉ thì chỉ có
những bậc vua chúa thời xa xưa , mới ăn
được . Và
nay mấy người Hoa Chợ Lớn họ rất muốn
mua khỉ sống để ăn óc khỉ , vừa
tẩm bổ đầu óc để mở mang
trí tuệ , vừa tẩm bổ cơ thể
được cường
tráng . Chiều hôm qua có ông chệt
Lèn ở xóm Nhà Lầu xuống , đặt
mua mỗi con khỉ sống , không bị thương
tật là một chỉ vàng tương
đương bằng năm trăm đồng một
con đó , câụ có biết không ? Tôi với tư De , bảy
Nhuần đã hứa với ông ta bắt mười
con khỉ giao cho ông ta vào tuần tới , cậu
cũng có phần trong nầy , vì cậu cũng
có công nghĩ cách bắt khỉ .
Tôi nhìn chú
tôi lắc đầu :
- Chú Năm à ,
chuyện bắt khỉ là chuyện của mấy
chú , tôi không muốn chia phần đó
vì trong lúc
các chú đi bắt khỉ tôi chẳng
có đi theo , vì tôi còn phải ra chợ
mỗi tuần để học , tôi chẳng muốn chia
chác , vì mình chẳng có công
cán. Chuyện làm lồng bẫy , cũng là
một chuyện tình cờ tôi được
người ta chỉ , chớ tôi nào có nghĩ
cách nghĩ chước để bắt gì
đâu . Tôi không cản mấy chú chuyện
bắt khỉ hay khuyên mấy chú không nên
bắt khỉ , vì lợi nhuận của mỗi con
khỉ không phải là nhỏ , mà đây
là một số tiền rất to lớn , làm
gì các chú có được trên
ngàn đồng một tuần ở cái xứ nầy
. Nhưng tôi cũng khuyên mấy chú ; tiền tuy là mạch máu
nơi cần cổ , nhưng tiền cũng sẽ
làm khổ cho mình , khi mình có những
đồng tiền nhiều trong tay .
Chuyện bắt khỉ
, ba chú , Nhuần , De , Thơm xúc tiến làm
cũng rất suông sẻ khoảng trên dưới
6 tháng , Khỉ rừng sinh sống cạnh rẫy
tôi không còn khuấy phá nữa . Ngày
xưa , từng đàn 5-7 chục con, thậm chí
cả trăm con , nay vẫn còn bầy khỉ lui tới
bên vườn tôi , nhưng chúng chỉ còn dăm ba con , bị
bịnh xà mâu ghẻ lở hay già yếu .
Dơi Quạ
Đầu năm 1970 ,
Bác ba Trước (Nguyễn Kỳ Hoa) đến ba mẹ
tôi gạ bán 9 công đất chưa khai
thác , cạnh mấy miếng đất như sau :
- Trên đầu núi
hướng Bắc giáp đất Tư De ,sáu
Đạo
- Bên hông đất
hướng Tây giáp đất Tám
Tương
- Bên hông đất
hướng Đông giáp tư Tặng
- Dưới triền dưới
giáp Út Hưng .
Bác ra giá mỗi
công 7.000.00 , ba mẹ tôi nói , nếu bác
đồng ý bán , thì bây giờ gia
đình tôi chỉ đặt cọc 10% , tới
giữa năm là sau khi thu hoạch mãng cầu ,
chồng thên 50%, tới cuối năm mới trả
tiền hết . Vì miếng đất coi như đất
hoang không có huê lợi gì hết , chớ
không phải ba mẹ tôi neo giá , để trục
lợi . Nếu bác đồng ý bán ba mẹ
tôi mua , nhưng phải có sự thỏa thuận
của bác ba gái , cùng với các anh chị
: Chị Diệp , anh Thẫm ,
Điền . Có
sự đồng ý của tất cả mọi
người thì coi như chuyện mua bán
đã xong .
Và mọi chuyện
mua bán coi như xuôi chèo mát mái , chẳng
có một chướng ngại nào .
Năm đó sau
lúc nghỉ hè , tôi tối tăm mặt mũi
vừa lo hái trái mãng cầu ,vừa phụ
chú Năm trông nom
12 công rẫy . Cho nên tôi đóng
đô luôn trên
trại , ít có khi về dưới xóm
bãi nhà , có chăng là những giao dịch
mua bán với người lái mua mãng cầu
, ăn ngủ tắm gội gì đều ở
trên trại hết . Lúc vào mùa mãna
cầu rộ , thì tất cả mọi người
đều lo hái trái,
lo chuyên chở , lo phân phối đi các
nơi , nhất là Thành Phố Sài
Gòn . Cả xóm rộn
rịp như hội chợ , người khuân
vác , kẻ chạy se cua , người hái
trái. Từ khắp 4 vùng chiến thuật ,
người nghèo đi làm mướn thu gom về
đó rất nhiều , cộng với sau đợt
tổng động viên 1968 , người bị bắt
đi lính , người bị bắt đi làm sĩ
quan , một thời gian . Người sợ chết
thì trốn lính , kẻ không muốn giết
người thì đào binh , cũng gom về
đó sinh sống. Có phải đất lành
chim đậu hay không
, thì tôi không biết , chớ đi tỵ nạn
súng đạn thì đó là việc
rõ ràng trước mắt .
Cứ mỗi chiều ,
khi cơm nước tắm rửa xong , trời cũng vừa
chạng vạng tôí , tôi cùng hai thằng
em , một , thằng em ruột Mạnh , hai , thằng em họ
bạn dì Lễ , lấy
nạng giàn thun , lên rẫy chú bẩy Mập
, ngồi bên gốc cây Bồ Đề , không
phải là tôi tu đâu nhé , ngồi
đó là để bắn mấy con dơi quạ
sà xuống ăn trái bồ đề . Trời vừa
nhá nhem tối , dơi rời hang ổ trong rộp
đá , chúng bay ra đen cả một bầu trời
, có con đi tìm chuối để ăn ,
có con đi tìm mãng cầu hái sót
chín cây để
ăn , có con đi tìm mít chín cũng
để ăn , và cũng có con bay đến
cây bồ , lột da trái ăn , bỏ hột bồ
đề lại cho người lụm đem về
làm xâu chuỗi .
Trời về
đêm mọi thứ âm thanh rừng rú , tiếng
hú tiếng kêu , tiếng la của bọn thú
rừng choảng nhau hòa lại cũng thành một
điệu nhạc làm rờn rợn ngoài da .
Chúng tôi ba thằng cầm ba cái ná , thấy
con nào sà xuống thì thả từng cục
đạn đá bay lên . Chúng tôi bắn
trăm phát trăm trúng , nhưng mà chỉ
có trúng cái màng cánh của các
anh chị dơi mà thôi . Ðạn đá
xuyên qua da cánh , nghe một tiếng bụp ,
chúng tôi thấy một mắt chị hằng
ló ra nhìn tôi , còn con dơi thì vẫn
bay đều đặn , viên đạn đá chẳng
có làm tổn thương chi nó cả . Hoặc
giả chúng tôi bắn
trúng ngay cái mình , cục đạn vô
mình nó kêu cái bịch , dơi bay đi còn đạn
thì rớt xuống . Còn như chúng tôi bắn
trúng ngay cái đầu dơi , thì cục
đạn chạm đầu dơi kêu nghe cái cốc
, dơi vẫn bay đi , đạn thì ở lại
. Chỉ có bắn trúng một chỗ là con
dơi chịu rớt mà thôi . Là bắn ngay
tay cánh của nó , gãy cánh thì
chúng rớt, hết bay , vì cánh xụi lơ
làm sao mà nó vỗ bay đi được .
Đạn bắn hơn
trăm viên , họa hoằn lắm mới có
dăm ba con dơi đem về nấu cháo là may
mắn lắm rôì . Ăn cháo khuya , nhìn
lửa chài của đạn bom xuyên qua xẹt lại
, nơi các vùng miệt thứ , Phi Thông , Mái Nước ,
Hòn Me , Hòn Đất
mỗi ngày những viên đạn đồng
đen nối xâu đuôi cày sâu xuống
khắp 4 vùng của quê hương đất
nước . Chiến tranh đã giết chết biết
bao nhiêu người , chiến tranh đã tàn
phá biết bao nhiêu , căn nhà , mảnh
vườn , thửa rộng . Chiến tranh cũng
đã giết biết bao nhiêu mối tình nam
nữ , kể cả những người nữ hay nam , chết
cho chiến tranh , được gì khi tay họ
xuôi , khi mắt họ nhắm lại . Trả thù
ai ? khi miệng chúng ta bị khóa chặt từ
lâu , bằng chiếc khóa , không xâu ,
không chìa , không ổ . Chỉ có những
con người làm khổ cho những con người
mà thôi . Còn như hòa bình kiểu Việt
Nam hiện nay , 34 năm rồi thì phải . Những
người dân được hưởng lợi
gì trong cái hòa bình đó , có
chăng là những thảm cảnh đau thương khắp cùng trên non
nước . Trăm vạn người có đôi
mắt sáng , lại hoá thành mù , trăm kẻ mù đang
nắm vận mạng của nước non , thử hỏi
non nước sao tránh khỏi cảnh điêu linh
và khốn khổ . Những con dơi quạ ,
chúng nó mù khi đem chúng ra giữa ban
ngày có ánh sáng , nhưng đem chúng
ra giữ đêm khuya
thì chúng lanh lẹ vô cùng . Như những con người sống ở
cõi đời nầy , cứ mãi tính chuyện
đi đêm , cứ tính mãi chuyện dối
trá ,và lừa gạt
thì cuộc đờì họ sẽ làm
được gì cho
xã hội .
Trở lại chuyện
dơi , dơi là một loại có đời sống
ngược ngạo hơn với các loài
khác . Ngày
chúng ngủ , đêm đi ăn , ngủ đít
chổng lên trời , đầu chúi xuống
đất , đầu như đầu chồn
(đèn), chồn có chân , dơi không
có . Mình như mình chim , chim có lông
chim , dơi có lông chuột . Dơi biết bay ,
chim biết bay , chim đẻ trứng , dơi đẻ
con .
Thịt dơi người
ta làm đủ mọi kiểu cách để
ăn: Nấu cháo , xào lăn , ướp xả ớt
muối chiên , xào hẹ , xào mướp ,
xào củ hành tây . Thịt dơi làm
thông khí huyết , chữa thận khí suy , huyết
ứ , chữa được bệnh mắt đỏ ,
mắt cườm , mắt mờ . Muốn ăn dơi phải
biết làm dơi , vì trong châu thân dơi
có 6 cục sạ ( xạ)
4 ở đôi cánh trên và hai ở
đôi chân dưới . Nếu không lấy ra
thịt dơi sẽ hôi ăn không được
.
o O
o
Những con khỉ
nơi quê tôi , đôi chân chúng mang
đôi giầy thiên lý chạy nhanh chạy lẹ
lên Sài Gòn . Thì những con Tắc
Kè cũng đang may áo quần mới chuẩn bị
đi thăm viếng Thủ Đô , sau chuyến du
hành mua bán của mấy người Hoa từ Rạch
Giá lên Sài
Gòn bán khỉ , thì những đợt
người Hoa từ Sài Gòn xuống quê
tôi gạ mua :
Tắc
Kè (Cắc Kè)
Con tắc kè là
loại bò sát ,
chúng nhỏ hơn con Kỳ Đà , lớn hơn con Kỳ
Nhông , Rắn Mối .Thân hình chúng
có bông hoa , màu sắc có thể thay đổi
theo bối cảnh nơi chúng ở . Chúng đẻ trứng
, trứng dính vào đá , sau một thời
gian trứng nở con . Tắc Kè mẹ lẫn cha
không có lo cái ăn cái mặc chi cả ,
chúng tự sinh tự sống , chúng tự
tìm mồi , rồi chúng lớn dần theo năm
tháng . Có con to nặng vài trăm gram , nghĩa
là có con bằng cổ tay .
Người đặt
mua Tắc Kè , con Tắc Kè phải còn
nguyên vẹn , không bị què chân tay , nhất
là phần đuôi , không được đứt
, hoặc mất . Nếu đứt hoặc mất họ
không mua , nếu như người bắt chúng mạnh
tay lỡ để chúng mất đuôi thì
còn có nước đem về nhà mà
ăn chúng . Lúc
đó mấy người trẻ tuổi quê
tôi xôn xao , kẻ làm cần câu đi câu chúng , kẻ
làm cầu vòng , đi vòng cổ chúng .
Từ rừng núi , từ hang động , từ hốc
đá trong vườn , quý anh chị nhỏ cũng
phăng lần tới . Mỗi con tắc kè gía từ
20.00 $ cho tới 50.00$ tuỳ
theo lớn nhỏ , tôi không biết những
người Hoa họ mua tắc kè họ làm thuốc
gì . Chớ thịt tắc kè ăn cũng ngon lắm
, nhất là món xào lăn , nhậu với rượu
đế thì , gà , vịt , chồn , chó ,
mèo , thua xa chúng . Thịt chúng trắng
hơn thịt gà , dai hơn thịt vịt , thơm
hơn thịt chó , ngọt hơn thịt mèo ,
đó là bấy nhiêu tôi nghe người
kể lại .
Cách Làm & Cách Nấu :
Khi chúng ta bắt
được tắc kè đem về nấu nồi
nước sôi ,
nhúng chúng vô , cạo sạch lớp vẩy của
chúng . Mổ bụng lấy hết phần ruột
gan phèo phổi bỏ , chỉ để lại
cái gan mà thôi .
Chặt tắc kè
theo hình thể ô vuông hay ô nhựt gì
đó , không nhất thiết , phải cho đều
đặn , ướp ngũ vị hương , bắc
chảo phi mỡ tỏi hành tím , xáo thịt
cho săn . rồi đổ nước cốt dừa , bột
nghệ cà ri nếu thích , đốt lửa nhỏ
, đừng đốt lửa to , khi vừa thấy
nước lóng còn xâm xấp thì , bỏ củ hành
tây cắt lác , hay cần tàu cắt khúc
, trộn đều , rải tí đậu phọng
rang vàng đâm nhuyễn lên , là chúng
ta có một bữa tắc kè xào lăn rồi
đó .
Dưới hốc
đá trước cửa trại tôi , cạnh
cây Vong Vang (Ngô
Đồng) có rất nhiều cục đá dựng
đứng , tạo thành những cái hang
ngách chạy vòng
, cho nên đó là nơi mà các anh chị
tắc kè làm nơi cư ngụ . Có lẽ lâu đời lắm rồi,
không biết là bao lâu , không biết thời
gian nào chúng về đó cư ngụ . Những
lớp trứng của tắc kè dầy lên theo
ngày tháng , trải một lớp trắng trên chóp đầu
đá của chiếc
hang . Ở đó tôi phỏng đoán chừng
trên dưới trăm anh chị tắc kè . Cứ mỗi sáng , mỗi
trưa , anh chị cất tiếng kêu vang lên từng
tràng dài tắc , tắc kè . Những người dân
địa phương họ từng đếm theo tiếng
kêu đó để định cho việc hên
xui , lẻ xui chẵn hên gì đó . Thông
thường tắc kè kêu từ 7-12 tiếng ,
còn bao nhiêu tiếng sau , chúng ta chỉ
còn có nghe è..
è .. è ,
mà thôi . Dăm tháng truy lùng bắt tắc
kè , mấy anh chị con nít quê tôi kiếm
cũng bộn tiền , thế nên năm đó tết
đến hàng loạt những trò chơi
dành cho mấy anh chị nhỏ vui hưởng . Như :
- Bầu Tôm Cá Cọp .
- Bông vụ ,
- Tài Xiủ , nở như
hoa trên cái xứ vốn dĩ đã là
đìu hiu hút gió , nay bỗng dưng nhộn
nhịp yêu đời quá xá .
Ong Mật
Ong Ruồi
Sau khi sang được
miếng đất của bác ba Trước , năm
đó ba tôi xúc tiến dọn rừng để
cho kịp cho mùa mưa , gieo hột mãng cầu ,
và cấy trồng dăm thứ hoa mầu , để
bán kiếm tiền trả nợ, cộng với
xây xài . Tôi thì chẳng phụ giúp
cho ba tôi được
gì nhiều , chỉ có mỗi cuối tuần về
phụ mà thôi . Miếng đất mới sang tuy
là đất hoang , nhưng chung quanh kế cận
đã có người canh tác , cho nên miếng
đất đó thu gom về khá nhiều con vật
hoang dã . Ong là nhân vật chính trên miếng
đất của tôi , đủ các loại ong ,
ong lá ong bần , ong vò vẽ , ong ruồi .
Chúng làm tổ tùm lum tá la , đâu
đâu cũng có tổ chúng , dọn rẫy
, không thấy chúng trước dọn đến
tổ chúng chúng túa ra oánh chạy vắt
giò lên cần cổ . Ong dữ dằn nhất chỉ
có ong vò vẽ thôi , nếu bị nó
chích , người bị chích , xưng tay
chân là chuyện thường , có thể bị
sốt cao , và cũng có thể chết luôn .
Nọc của nó độc vô cùng ,
chúng len lỏi vào thịt da đau nhức
khó tả . Tôi bị
nó đánh một lần , nghỉ học
luôn cả tuần , vì đi không nổi , tối
ngày cứ muốn lủi vô chăn trùm cho
kín đầu , kín đít . Ong ruồi hiền
hơn , mà tổ chúng lại có mật , cho
nên nó cũng là miếng mồi ngon cho
các anh chị con nít , và người lỡ
con nít lỡ người lớn như tôi nữa
. Đi tìm bắt chúng không khó , mùa
xuân tìm những chỗ có hoa , mùa hè
tìm những nơi có nước , anh chị ong
thợ thường đi kiếm nước , kiếm hoa
, để tha về tổ chúng . Chúng ta muốn
theo dõi chúng phải theo dõi cho kỹ ,
chúng cũng biết đánh lạc hướng
những kẻ thù rình rập chúng lắm
.Thông thường chúng uống nước cho no ,
hay ăn hoa cho đầy bụng , việc đầu
tiên là chúng cất cánh bay thẳng
lên , rồi bay về một hướng trá
hình nào đó , để đánh lạc
hướng người theo dõi , sau đó
chúng mới tà tà bay về tổ , nếu
hoa thì chúng
"pump" vô túi mật , nếu nước
chúng rải cho lũ ong con hay chuyền cho cho cô
nàng ong chúa . Rồi cứ thế con bay đi ,
con trở về ,tạo thành một thứ âm
thanh vi vu vo ve quanh tổ chúng . Bắt
ong ruồi dễ thôi , một điếu thuốc
phà hơi chúng cũng bay tán loạn ,
và bỏ tổ . Nhưng ong ruồi có pha lẫn
ong sắt , hút thuốc phì phà vô ổ
chúng coi chừng bị nó chơi một phát
cái mỏ thành mỏ Chư Bát Giới .
Hai thằng em tôi Mạnh
& Lễ một hôm chúng
nó đi tìm bắt tắc kè , di chưa bao
lâu chúng nó chạy về nhà , hớt ha
hớt hải , chúng nó nói là chúng
nó gặp cọp .Tôi nói với chúng
là ở hòn nầy không có cọp ,
vì làm sao cọp ra được nơi
đây . Chúng nó quả quyết là con cọp
, nó đang nằm trên cây , nó thấy con
cọp sừng lông nữa
. Tôi kêu chúng nó dắt tôi đi
, chúng nó sợ không đi , tôi nói
hai em cứ đi đến xa xa để chỉ anh ,
không cần phải đến gần . Tụi nó
nghe tôi thuyết phục riết chúng nó chịu
đi , chúng nó dắt tôi đi xuyên qua miếng
đất của chệt Quang , lủi vô chòm
cây đầu heo qua mấy khúc rộp đá
, đến gần tới nó chỉ đằng kia
kìa , dưới tàng cây đầu heo , nằm
bên chòm cây miên và kén đó
. Chúng nó không đi nữa , và chúng
nó đòi về , tôi bảo ừ hai em về
đi .Tôi len lỏi qua từng tảng đá , từng
nhánh cây , từng đoạn dây bằng
lăng , khoanh tròn thò ra những đóa hoa mầu
tím , tỏa những luồng hương nhẹ
nhàng , tôi thấy lòng mình thanh thản lạ
lùng , như mình lần dò tìm được
động tiên , mà các nàng tiên nữ đang chờ tôi nơi
phía trước . Đến nơi , khu vực chòm cây
miên và kén , chỗ đó có một
khoảnh đất chu vi khoảng 9-10 thước
vuông . Những hạt của trái Miên lũ
dơi ăn nằm đầy dưới đất , trái của kén trải
một lớp thảm dầy , mầu tim tím (vì
trái kén khi chín nó có mầu tím
, phía ngoài thân trái có một lớp
lông rất mịn màng . Cây Miên gọi
theo tiếng dân hòn , chớ thật ra cây
Miên là loại nhãn rừng , trái bằng
đầu ngón tay cái , và chúng có thể
tương đương với loại nhãn kim
bây giờ có bán ở Phố Tầu , mầu hơi nâu , chớ
không vàng như loại nhãn kim . Trái của
chúng ăn cũng như là nhãn không
khác tí nào) . Đến nơi tôi cũng
dè dặt đi quanh quẩn kiếm tìm , chân
bước rất nhẹ , nhìn quanh tôi nào
có thấy chi đâu , khi mắt tôi hướng
về phía rộp có một cây miên
nghiêng theo chiều thân dựa lên một tảng
đá lớn , cái nhánh hai chìa ra ,
thì tôi thấy trên nhánh một cục rằn
ri hình bán nguyệt , đang chớp chớp .
Tôi đến thật gần trông kỹ , thì
đó là một tổ ong mật to thật to , những
con ong thợ đi về lũ lượt , chúng xoay
chuyển , cánh chúng chớp , tạo thành một
mầu rằn ri vàng , mới nhìn tương tự
như là cọp sừng lông . Nhìn tổ ong
thật lâu , để định làm sao đuổi
chúng và lấy mật , mật trong tổ ong nầy 5 - 7 lít mật như
chơi .Tôi về
nhà , rủ chú năm Thơm và hai thằng
em đi gom xác vỏ của trái dừa khô ,
chúng tôi làm những cây đuốc dừa
thật to , là để
hong khói cho thật nhiều xua đám ong
đang xây tổ . Mạnh & Lễ đòi theo
chú năm không cho vì sợ , khi ong vỡ tổ
chúng bay loạn xạ
chích chúng
nó .
Đến nơi tôi
, chú bật hộp quẹt , đốt bùi
nhùi phía ngoài
tất cả cây đuốc cho bén lửa ,
chúng tôi gom lại để ngay phần dưới
của tổ ong , chúng tôi chạy ra xa , cách
tổ ong 8-9 thước . Ong bị khói bay túa ra
,chúng tìm xem ai
dám lại chơi khăm chúng bằng cách
đốt ổ . Chúng bay chúng xoay vòng
tròn như bông vụ
,có những con bay lạc , chúng tìm
được chúng tôi , và rồi bọn
chúng rủ nhau cùng tấn công tôi và
chú năm , từng đàn ong xung phong ,tôi
nghe trên đầu
tôi kêu lụp bụp lốp bốp , vì
cái nón tôi đội vải hơi dầy kim
chúng chích không lọt hay lọt vô
được tôi lúc đó nào có
biết , còn chú
năm Thơm đầu không nón , bọn ong
nó bu lại lại oánh thấy mà
thương , chú bảo chạy ở lại ong
oánh chết , chúng tôi tắt ngang đất
sư cô Lan , nhảy ùm xuống biển , bọn
ong vẫn còn bám theo truy kích , tôi có
cái xoong đội lên đầu , chú năm
có cái thau , định đi hứng mật ai ngờ
lấy đó mà che đầu máu trở về
. Vậy mà lũ ong còn bay theo đáp
trên cái thau và xoong ,chúng đáp xuống
taọ ra những
tràng âm thanh ngân lên nghe boong boong
,trên cái thau và xoong chúng tôi lần theo
gành đá trở lại nhà , mặt tôi
với chú mặt người nào cũng như mặt
thủ vĩ lợn . (Đầu Heo)
Tổ ong vẫn trơ
gan cùng tuế nguyệt ,những con ong thợ vẫn hiên ngang đi về
, cho đến khi ông tư Răng đi chuyến
lưới Quàng về mới bày kế bắt tổ
ong đó được . Nhắc tới tổ ong mật
, xương sống tôi còn lạnh cho tới
bây giờ .
* xứ Hòn Tre
có một loại từ
có gai như gai cây bướm , nếu không
mang giầy sẽ bị gai đâm chân , cho nên
tất cả mọi người phải mang giầy ,
dép để đi .
** cây Miên là
một loại nhãn rừng .
Võ Ngô .