Chuyện “Cá
Rô Cây”
(Nguyễn Ngọc Bích)
Tác giả là một kỹ
sư, từng du học Mỹ thời còn trẻ
nhưng hiện định cư tại Canada. Bài viết về nước Mỹ đầu
tiên của ông kể kinh nghiệm về khoảng
trống trong giao dịch (communication gap) giữa những
người sống trong hoàn cảnh khác nhau.
Từ sự khác biệt Nam Bắc qua câu chuyện
“Bắc kỳ ăn cá rô cây”,
bài viết lưu ý về sự khác biệt
và khoảng trống trong giao dịch giữa các
di dân tị nạn với người bản xứ,
và giữa các thế hệ người Việt
tại hải ngoại. Mong ông Bích sẽ tiếp
tục viết thêm và xin kính lưu ý bạn
đọc: Nguyễn Ngọc Bích, P. Eng. Canada và
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích hiện cư
trú tại Virginia
là hai người khác nhau.
***
Tôi lớn lên tại miền Nam trong khung cảnh đất
nước chia đôi theo Hiệp
Định Genève. Sau năm 1954, hàng
triệu người miền Bắc di cư vào Nam chạy
trốn gông cùm cộng sản. Hồi còn đi học trường tiểu
học tôi đã nghe chuyện Bắc Kỳ ăn
cá rô cây. Chuyện nầy
thì những người có tuổi ai cũng biết
nhưng tôi xin phép tóm lược lại
để cho các em còn trẻ lần đầu
tiên nghe chuyện nầy hiểu thêm.
Chuyện kể là ở ngoài Bắc
có một gia đình nghèo và hết sức
tiết kiệm nên trong các bữa ăn
chỉ có ngô khoai, chút ít cơm, và
luôn luôn là rau luộc và nước muối
chớ không có thịt cá gì cả. Để
có thể ăn nổi các
món khó nuốt này, người cha treo giữa
bàn ăn một con cá rô bằng gỗ để
cả nhà nhìn vào mà tưởng tượng
là mình cũng đang ăn thịt cá hẳn
hòi. Để tăng thêm phần hấp dẫn
cho câu chuyện (nói nôm na là thêm mắm
thêm muối), một cậu con trai đang tuổi lớn
cần ăn nhiều cứ nhìn đăm đăm
vào con cá quá lâu nên bị mắng
là tham ăn.
Chuyện nầy bịa đặt hay có thật
thì không ai khẳng định được. Nếu có thật, đây là một
câu chuyện về cái nghèo rất xúc
động đáng lẽ người nghe phải chạnh
lòng thương xót cho hoàn cảnh một
gia đình nghèo. Nhưng khốn thay, nhiều
người trong miền Nam nghe xong lại cười
chê bai không hiểu làm sao có thể ăn uống như vậy được.
Tuy không phải là người có ác
ý nhưng chính tôi cũng cười vì
tôi chưa thông cảm hay hiểu được
cách sống và tập quán của người
miền Bắc. Phải nói là có một sự
cách biệt rõ ràng trong nếp sống của
người miền Nam
và người miền Bắc vào thời điểm
lịch sử đó. Do hoàn cảnh thiên
nhiên dễ dàng, người Nam tiêu xài rộng
rãi, ăn nói tự nhiên thật
tình và thấy đa số người miền Bắc
tiện tặn và ăn nói khách sáo
rào trước đón sau. Ngược lại
người miền Bắc thấy người miền Nam chi
tiêu không nghĩ đến ngày mai và
cư xử có phần thiếu lịch sự hay tế
nhị.
Vì hoàn cảnh thiên
nhiên khác nhau nhiều nên nếp sống cũng
khác nhau là điều tự nhiên. Cũng phải mất một
thời gian khá dài, nhiều người miền
Bắc không còn rào trước đón
sau khi giao dịch với người miền Nam. Dần dần người Nam chấp nhận nếp
sống của ngườI miền Bắc sau khi
đã trừ hao đi một phần mà họ
cho là phóng đại. Khi tôi lớn
lên, bạn bè người Bắc khá nhiều
và tôi thấy khi hoàn cảnh kinh tế thuận
lợi, họ cũng cư xử giống như người
miền Nam.
Được học bổng USAID (US Agency for
International Development), tôi đi du học ở Mỹ
và ở chung trong cùng ký
túc xá với mấy anh bạn Bắc Kỳ tại
thành phố San Jose
từ năm 1967. Vừa mới qua chân
ướt chân ráo, tôi thủ kỹ tiền học
bổng chẳng dám xài một xu nhỏ. Một
hôm đi ngang phòng của anh bạn Trần Đắc
Trung, một người Bắc lớn hơn tôi 4, 5
tuổi đang học Cao Học, một người
mà tôi rất gần gũi và cùng chung
nhiều sở thích, quan niệm xã hội,
tôi nghe tiếng Connie Francis hát thánh thót
bài Never on Sunday, một bài tủ của tôi.
Thì ra anh mới tậu một bộ máy quay dĩa
Columbia Masterworks, tuy không phải là sang nhưng
âm thanh nghe rất hấp dẫn. Hầu như cuối
tuần nào tôi cũng ghé phòng anh
vài ba tiếng đồng hồ nghe cọp những
bài mà mình thích (ai là người
ăn cá rô cây đây hở bạn
?). Vài tháng sau, nhịn hết
nổi, anh Nam Kỳ nầy đành phải xuất tiền
ra mua cho mình một giàn máy riêng để
có thể nghe nhạc mỗi ngày.
Chưa hết đâu, lại một anh bạn Bắc
Kỳ, Vũ Chí Thiện, khởi xướng chơi
băng open-reel (thời đó cassette mới ra, âm
thanh còn bầy nhầy lắm). Bạn đoán
đúng: sau đó tôi lại bắt chước,
mua ngay máy thâu băng Sony ! Anh
Thiện nầy còn chơi cả máy quay phim cầm
tay, Super 8 (không phải là Video 8
ra đời 20 năm sau). Đến đây thì
tôi đầu hàng, không theo nổi cậu
công tử Hà Nội di cư nầy
!
Bây giờ định cư ở Canada, tôi và con
gái hoạt động chung trong
các công tác thiện nguyện và đấu
tranh nhân quyền, tự do, v.v. với Anh Phạm Hữu
Giáo và con, rể trong nhiều năm. Tôi học
được nhiều điều hay từ Ông Bắc
kỳ di cư nầy và gia đình nhưng
có lẽ giờ phút thoải mái và vui vẻ
nhất là khi được Anh Chị kêu
(tôi không dùng chữ mời vì là
thân tình) đến nhà ăn. Chị Giao nổi
tiếng về tài nấu ăn
và có nhiều lúc tôi tự cười
thầm phen nầy Ông Nam Kỳ nhà ta được
tha hồ ăn ngon.
Sở dĩ tôi kể lể dài dòng ở
đây để nói lên điều nầy: dù Bắc hay Nam, có
ai muốn sống cực khổ đâu, chỉ
vì hoàn cảnh bó buộc thì
đành phải thắt lưng buộc bụng
thôi. Chính
vì không biết cách nói với nhau cho hai
bên cùng cảm thông nên tôi cho là cả
hai giới người Nam
và Bắc đều phải trả giá rất
đắt cho khoảng trống trong giao dịch
(communication gap) ngày xưa. Người miền Bắc
đã từng kể lại những cách cai trị dã man của cộng sản
nhưng vì có ấn tượng là người
miền Bắc có khuynh hướng phóng đại
nên người miền Nam chỉ có tin một
phần. Do đó mới có những bà mẹ
nuôi tiếp tế cho Việt cộng, do đó mới
có việc chúng ta nhắm mắt không tố
cáo những thân nhân theo Việt
cộng, v.v.
Tôi xem cuốn phim "Chúng
Tôi Muốn Sống" hai lần. Lần đầu trước năm
1975 tôi thấy rợn người thật nhưng nghĩ
là cốt chuyện có phần phóng đại
sự thật vì làm sao người Việt lại
có thể đối xử với đồng loại
một cách dã man như vậy được.
Sau khi sống với cộng sản hơn 6 năm, trải
qua trại cải tạo và cuối cùng đi
vượt biên, khi xem lại cuốn DVD
“Chúng Tôi Muốn Sống” vào năm
2003, tôi mới thấy là cuốn phim và những
gì mà các ông Bắc Kỳ di cư
nói về cộng sản chỉ mới tả
được một phần nào sự tàn
ác của chế độ nhưng không nói
lên được sự ngu xuẩn của cấp
lãnh đạo và đa số đảng
viên khi cai trị dân chúng. Tôi đi đến kết
luận là trong nhiều lý do khiến cho
chúng ta mất nước sống lưu vong là chúng ta không hiểu hết
được hiểm họa cộng sản khi còn
trong nước. Câu chuyện Bắc Kỳ ăn cá
rô cây là biểu tượng cho khoảng trống
trong cách sống và giao dịch của chúng
ta mà sau nầy chúng ta phải san bằng để
không bao giờ phạm sai lầm một lần nữa.
Câu chuyện chưa dứt đâu bạn ơi ! Khi di tản, chúng
ta định cư tại nhiều quốc gia mà phong
tục tập quán hoàn toàn xa lạ với
người Việt chúng ta. Khoảng trống trong
cách sống và giao dịch giữa chúng ta
và người địa phương còn lớn
hơn khoảng trống trong câu chuyện Bắc Kỳ
ăn cá rô cây nữa !
Chúng ta sống chen chúc, share phòng, ăn uống
rất là tiện tặn, v.v. cốt để
dành tiền mua nhà, trả nợ vượt
biên, tiếp tế cho thân nhân còn kẹt
lại, đầu tư cho con đi học đại học,
v.v. Trước mắt người dân địa
phương chúng ta đâu khác gì Ông
Bắc Kỳ ăn cá rô cây ngày xưa
nhưng mà lần nầy Ông Nam Kỳ cũng
ăn cá gỗ như ai.
Nhớ lại thời gian tuy ngắn nhưng
đã có lần cả gia đình anh em vợ
chồng con cái chúng tôi 9 người sống
chen chúc trong apartment một phòng ngủ, một
điều mà Tây dù ăn welfare cũng
không làm, tôi chợt nghĩ là ngày
xưa tôi đã cười Ông Bắc Kỳ
ăn cá rô cây bây giờ tôi bị quả
báo ! Ngoại trừ một
vài địa phương như Biloxi, Mississippi mà
người Việt tị nạn hành nghề
cào tôm gặp cảnh kỳ thị, nói chung
người địa phương không ai cười
chúng ta mà trái lại họ càng
thương, phục và giúp đỡ chúng
ta !
Bây giờ thì thời kỳ ăn cá
rô cây đã qua; người Việt tị nạn
đa số có nhà riêng, con cái học
hành đỗ đạt, làm ăn phát
tài, và nhiều người đã làm rạng
danh dân tộc trong nhiều lãnh vực hoạt
đông khác nhau. Càng thấy xấu hổ
vì cái cười thiếu ý thức của
mình ngày xưa, tôi càng chân thành
cám ơn Ông Bắc Kỳ ăn cá rô
cây kia. Nếu Ông là người
có thật, Ông
đã nêu một tấm gương sáng về
tiết kiệm trong cuộc sống cho nhiều người
noi theo.
Con em chúng ta sinh trưởng ở hải ngoại
có thể không hiểu được những
tình tiết éo le trong câu chuyện, khoảng
trống Nam Bắc ngày xưa vì chúng nó
nói cùng một ngôn ngữ: Việt ngữ
lơ lớ ! Tôi định
chấm dứt câu chuyện ở đây thì một
hôm đi sinh hoạt cộng đồng về
nhân quyền và dân chủ cho Việt Nam, tôi
thấy đại đa số người tham dự
đều lớn tuổi còn bọn trẻ thì
không thấy đâu. Tôi hỏi
thăm thì nhiều em muốn tham dự các phong
trào này nhưng không đồng ý về
hình thức và phong cách diễn đạt
tư tưởng. Các bạn trẻ
cho là người lớn có khi quá cực
đoan trong khi giới trẻ đặt trọng tâm
vào các hình thức đấu tranh chánh
trị, xã hội, y tế ôn hòa. Ngược
lại các người lớn lo ngại là
các em sa vào cạm bẫy cộng
sản giăng ra vì thiếu kinh nghiệm và không
tin tưởng là nhóm trẻ có thể chống
cộng có hiệu quả nếu không có sự
chỉ đạo của người lớn. Nhìn thấy khoảng trống già trẻ
đó tôi giật mình lo sợ là nếu
hai bên không xích lại gần nhau, câu chuyện
Bắc Kỳ ăn cá rô cây lại tái diễn.
Mong rằng qua câu chuyện xưa, chúng ta
thuộc nhiều thành phần, quê quán, lứa
tuổi khác nhau cùng tìm đến với
nhau để thông cảm, để cùng nhau thực
hiện được giấc mơ hồi hương
trong một khung cảnh tự do, dân chủ và hạnh
phúc cho đất nước Việt Nam thương
yêu.
Nguyễn Ngọc
Bích
Calgary, Canada
(Bai Chuyen)