BẢN TÌNH CA CỦA
MỘT NGƯỜI TỊ NẠN
(TỰ DO)
Tên thật tác giả là
Nguyễn văn Luận, sinh năm 1937, 63 tuổi, hiện
cư ngụ tại Worcester, Massachusetts.
Công việc: Technician hãng điện tử ở Mass. Sau 1954, kẹt
lại miền Bắc Cộng Sản, gia đình tan
nát, bố bị đánh tư sản rồi
đấu tố tới chết, vì tấm postcard Nữ
Thần Tự Do, cậu học trò năm xưa
thành "người tù Hỏa Lò"
và đã nguyện "Tôi sẽ đi
tìm Tự Do suốt cuộc đời này."Bản
Tình Ca Của Một Người Tị Nạn"
là tự truyện tìm tự do của tác giả
TỰ DO".
*
Hai năm sau ngày đất nước chia
đôi (1956), từ miền Bắc hoang tàn,
tôi lặn lội tới vùng giới tuyến mong
vượt thoát vào miền Nam tự do. Lần tới
gần sông Bến Hải, đêm tối âm u bờ
Bắc, tôi đã nhìn thấy cầu Hiền
Lương vì bờ Nam rực sáng ánh
đèn. Trên cột cờ cao vút, bóng cờ
vàng sọc đỏ lung linh. Giọng ca ngọt
ngào từ loa treo vọng về miền Bắc: “...
Sông Bến Hải là nơi chia cắt đôi
đường... hỡi ai... lạc lối ... mau quay... về
đây...!” Tôi đứng đó
chơi vơi định hướng, đăm
đăm nhìn cờ vàng bên kia bờ
sông lịch sử, uống từng lời ca trong
cơn đói khát, rồi bừng tỉnh, lao
lên phía trước. Từ đâu đó,
mấy cái nón cối xông ra. Tôi bị
trói hai tay bằng sợi thừng oan nghiệt, theo
nón cối về địa ngục trần gian.
19 tuổi, lao tù đầy đọa, tôi
đã mất mẹ, mất cha, bị qui là
tư sản, xa vắng họ hàng vì chia rẽ
giai cấp. Tôi mất Hà nội là nơi
tôi sinh ra làm người Việt Nam.
Không có tang cha khi cha gục xuống, không
có tang mẹ khi mẹ xuôi tay, không hy vọng
có đám cưới
đời mình. Bạo quyền cộng sản Việt
Nam
bắn giết hàng trăm ngàn người, qui
là địa chủ. Nhiều trăm ngàn người
bị tập trung lên
rừng, để lại vợ con không nhà
không đất. Thời gian làm ngưng nước
mắt, oán than cũng vô ích, chỉ còn
tiếng kêu vang vọng khắp miền: "Chúng
tôi muốn sống !"
25 năm sau tôi vượt biển, thoát tới
Hong Kong (1981). Bốn mươi
tư năm từ lúc chào đời, thành
người tị nạn cộng sản.
Ngày tiếp kiến phái đoàn Mỹ
xin đi định cư, một ông Mỹ dáng
nghiêm trang, nghe tôi trả lời, đột
nhiên hỏi "anh có biết nói tiếng Pháp
?". Tôi
nhìn ông, giọng run run: "L'exilé partout est
seul !" (Kẻ lưu đày nơi đâu cũng
cô độc). Ông gật đầu hiểu cả
tiếng Tây, hiểu lòng tôi đau xót.
Xưa tôi học trường Albert Sarraut, Hà nội.
Đứng bên rào kẽm gai, sau dãy nhà
tôn của trại tị nạn Hong Kong, một
mình, suy tư thân phận. Tôi sẽ đến
nơi xứ lạ là
nước Mỹ xa xôi, tìm quê
hương mới, chỉ trở về khi đất
nước Việt Nam tự do, không còn cộng sản.
Đứa bé chừng
5, 6 tuổi, tung trái banh, toan bắt thì trượt
chân, trên sân trại. Tôi đã kịpgiang
tay đỡ cháu khỏi ngã thì người đàn
bà chạy tới, đứng im, lặng lẽ nhìn
tôi. Tiếng trẻ thơ kêu "Má",
tôi nhìn nàng ... Sự thầm lặng và
ánh mắt trao nhau là chân tình của
người tị nạn Việt Nam nhẫn nhục, khổ
đau, nói được nhiều hơn lời
nói. Rồi những ngày sau đó, tâm sự,
nỗi niềm, tôi đã cùng Mai kết
thành bạn đường
và bạn đời, đi Mỹ định cư.
Người lính Cộng
Hòa hiên ngang dưới lá cờ vàng ba sọc
đỏ, quyết bảo vệ quê hương. Anh tử
trận, mang thân đền nợ nước, để
lại con thơ. Mai trở thành góa phụ, miền
quê Đà Nẵng, cuốc đất trồng
khoai, nuôi mẹ già con dại. Sau năm 1975, mất
nước. Mẹ già khuất núi, con chậm lớn
vì cháo loãng, bo bo thay cho sữa mẹ và
cơm. Một đêm mưa bão, Mai bị tên
trưởng công an xã cưỡng hiếp, du
kích xã canh gác quanh nhà. Mai phải sống
vì con mới
lên ba, mất cha còn mẹ.. Người
dân Đà Nẵng ra đi, đã mang theo vợ
con người lính chiến tới Hong Kong năm 1981.
Đứa con lên sáu không biết tiếng gọi
“Ba” !
Tôi mang nặng tủi
nhục, đọa đày triền miên đất
Bắc đi tìm tự do. Mai gánh những
thương đau, mất mát, cơ cực của miền Nam, bồng con
đi tị nạn. Lấy dĩ vãng chia xẻ
cùng nhau, chúng tôi sắp xếp lại
hành trang cho bớt gánh đoạn trường,
đi Mỹ. Con đã có Má, có Ba. Má bồng
Con, Ba xách túi, Con có đồ chơi, cầm
chiếc máy bay vẫy chào các Chú, hai
người lính chiến Quảng Nam đưa tiễn.
Tôi nhìn Con tự nhủ: "Ba
sẽ dạy con tiếng "Cha", chỉ cho Con
hình người lính Cộng Hòa, ở bất cứ nơi
đâu đều là Cha Con đó !"
Mai đã nhất
định không đi kinh tế mới, tôi
đã trốn công trường, vào tù chịu
đựng, bây giờ dù bỏ
lại quê hương nhưng còn Tổ quốc
Việt Nam. Bốn ngàn năm lịch sử, thăng trầm,
người dân, nước Việt sẽ không trở
thành cộng sản,
chỉ có số nhỏ đang cầm quyền. Quê hương
mới của chúng tôi là vùng
đông bắc nước Mỹ.
Căn Apartment hai
phòng, hai chiếc giường nệm, một chiếc
bàn con, đã cho tôi ấn tượng đẹp
những ngày đầu tới Mỹ. Lúc tôi
khôn lớn, không có chiếc giường
làm nơi cư trú, vì đã thành
vô sản. Rồi tôi hiểu, vô sản cũng
vẫn còn giai cấp. Phải lên rừng, một
miếng nylon bọc vài manh vải gọi là quần
áo, thì mới thành "người vô sản
chân chính" !
Nhìn con ngon giấc ngủ
Thần Tiên, vợ chồng tôi thao thức,
không phải lo âu mà thì thầm những
dự định tương lai. 18 tháng welfare trợ
cấp, đủ thời gian cho mình đi học tiếng
Anh. Đọc dòng thư hội M&RS nhắc trả
nửa tiền nợ vé máy bay sang Mỹ "Xin
bạn trả dần 12 tháng, giúp cho người
sau bạn định cư", theo ý Mai, ý nghĩ
nhân hậu của người đàn bà
làm mẹ, "mình trả ngay từ tháng thứ
hai". Việc đơn giản là tại sao người
ta không khấu trừ vào trợ cấp, lại
đòi riêng. Mai chỉ nhẹ nhàng "nợ
thì mình trả, ở hiền sẽ gặp
lành", nhưng tôi lại suy nghĩ mung lung.
Đây là bước đầu thử thách,
cái thước đo lòng người tị nạn.
72 đô tiền nợ
một tháng, có thể không trả và
quên đi. Một lần để lòng vẩn
đục sẽ trở thành bất lương. Cha mẹ
bất lương con cái sẽ chẳng nên
người.
Một sáng mùa
Xuân, "bé Nam" gọi Má, gọi Ba, chỉ
bông hoa mầu vàng mầu đỏ đung
đưa bên vườn hàng xóm, kêu
lên "hoa tu-líp". Bà già người
Mỹ đứng trên thềm, giơ tay vẫy vẫy.
Mai đã nói "Thank you", ngọt ngào, mạnh
dạn, tay chỉ trỏ, diễn tả được những
gì muốn nói. Bà Jenny hiểu chút ít
về "chiến tranh Việt Nam" qua tivi, sách
báo hồi bà còn dạy học. Bà
đã thấy "Boat-people", những thuyền
nhân tị nạn, nhưng lần đầu bà thấy
một gia đình người Việt đến
vùng này, lại là hàng xóm nên
bà có cảm tình.
Đây là ứng nghiệm "Ở hiền
gặp lành" hay là sự may mắn cho gia
đình tôi ? Nói thế nào thì cũng
đúng vì vài nơi trên đất Mỹ vẫn
còn kỳ thị chủng tộc.
Thời gian trôi
đi nhưng hai tiếng "lần đầu" lặp
lại: lần đầu ra nhà Bank, lần đầu
tới Post Office. Có những lần đầu chưa biết, nhưng
có hai lần đầu quan trọng: "bé
Nam" đi học, chúng tôi xin được việc
làm. Bà Jenny cùng chúng tôi đưa
"cháu" tới trường, bà cho chiếc
mũ baseball và đôi giầy sneaker trắng muốt,
khen "Cháu cute". Vợ chồng nhìn nhau,
không hiểu,
lát nữa về tra tự điển. "Từ nay
chúng mình có Má, bé Nam có Bà
...!". Mai thốt lên khi chúng tôi đồng
lòng nhận "Má Nuôi". Bà Jenny
thành "Má Jen".
Chuyện xảy ra
vào ngày Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving), 17 năm về
trước. Sống một mình trong căn nhà rộng
rãi, bà Jenny vốn là cô giáo nên
rất yêu trẻ. Bà mời "cả
nhà" sang ăn turkey. Bé Nam lên bảy,
đi học, hiểu nhiều về Thanksgiving hơn
Má và Ba. Ăn uống vui vẻ, vợ chồng
tôi nói chuyện với bà, có lúc ngồi im lặng
hơi lâu vì vốn tiếng Anh ít ỏi. Bỗng
bé Nam kêu "Má...!". Bà Jenny toan đứng
dậy thì Mai buột miệng nói:
"Má ... let me do it!".
Nghe tiếng "Má" lỡ lời của
Mai, tiếng Việt, vừa lạ, vừa thích,
bà bâng khuâng giây lát. Mai kể chuyện
xưa, miền Đà Nẵng cuốc đất trồng
khoai, nuôi mẹ già con dại ... Tôi góp phần
thông dịch, bớt thêm: Người Việt Nam
coi việc chăm sóc cha mẹ già là bổn
phận, dù chịu nhiều cơ cực cũng cố
gắng đền ơn sinh thành, dưỡng dục. Bà suy nghĩ mấy
ngày, bỏ dự định chuyển về Florida, tỏ
ý muốn nhận gia đình tôi làm Con,
làm Cháu.
Chúng tôi dọn nhà sang ở chung với
"Má Jen", điều này ít thấy
trong các gia đình người Mỹ có con
trưởng thành. Các con nhờ Má, nói
được tiếng Anh. Cháu quấn quít
bên Bà, xem chú chuột Mickey. Mùa
Đông buốt giá nhưng trong nhà nồng ấm
tình người. Má vui tươi hơn trước,
thích ăn bánh xèo và phở Việt Nam.
Mai vẫn cặm cụi hàng ngày, làm
những chiếc ví tay của phụ nữ. Mấy
người bạn Việt Nam đặt cho Mai biệt
danh "Bà đầm hãng bóp" vì
"giỏi việc, lại biết tiếng Anh" nhiệt
tình giúp đỡ bà con. Cũng như
Má Jen, Mai không thích xa hoa, theo Má vào
tiệm sách trong Mall nhiều hơn vào tiệm
bán phấn son, make up. Việc từ thiện
đã thành sở thích, Mai gửi 200
đôla, mỗi lần, giúp đồng bào
bão lụt miền Trung , miền Bắc, vì
lương tâm, đạo lý. Kẻ cầm quyền
ăn chặn của dân, như đám cướp,
có bao giờ được mãn kiếp yên
thân. Đức Phật từ bi dạy Mai lòng
độ lượng.
Tôi làm technician, ngành điện tử.
Nhớ xưa, học sửa radio bị nghi làm
gián điệp. Bộ công an Hà nội lấy
công nông lãnh đạo, coi "điện tử"
là CIA. Mười bẩy năm trong ngành điện
tử, nay chắc tôi thành CIA ngoại hạng ! Bây
giờ, ngồi trước máy computer, nối
vào mạng Net, đọc Website tiếng Anh, tiếng
Việt, thông tin thế giới bằng eMail, việc
hãng, việc nhà, công tư hòa vào
nhau từng ngày làm việc, tôi đã
có cuộc sống an hòa, hạnh phúc, một
Gia Đình thật sự yêu thương.
"Ngày mai, chúng mình đi New York thăm
con". Mai nắm tay tôi, hân hoan về ngày
mai.
Ngày mai là tương lai của bé Nam ngày
trước, giờ là một thanh niên cao 6 foot,
đầy nghị lực bước vào đời.
Xong đại học,
Nam Nguyen trở thành chuyên viên tài
chánh, làm việc trong văn phòng, tầng thứ
32 của một nhà "chọc trời" New York.
Ngày con ra trường là ngày vui trọn vẹn,
ngày con nhận việc mới là niềm sung
sướng của Má, của Ba, của Gia
Đình tị nạn, mong ước từng ngày
cho Con thành Người.
o0o0o0o
Lâu lắm rồi, tôi mới có một
đêm không ngủ để nhìn lại đời
mình. Tháng Chín, sang Thu, se lạnh vùng
đông bắc nước Mỹ. Tôi đã sống
nơi đây 18 năm tị nạn, không thất
vọng mà tin tưởng vào tương lai.
Người cộng sản muốn làm Hung Thần
cai quản địa cầu, dựng lên Địa Ngục.
Dựng được vài phần thì sụp
đổ, sót lại từng mảnh vỡ
điêu tàn. Hung Thần đã chết.
Thoát kiếp lưu đày làm người tự
do, tôi kính cẩn tri ân người phá ngục:
người lính Cộng Hòa, giương cao
lá cờ vàng ba sọc đỏ, chính nghĩa
Quốc Gia Việt Nam,
từ tinh thần đến lãnh thổ.
Người lính chiến Cộng Hòa
hiên ngang đi làm Lịch Sử. Không có
Anh, tôi đã không có niềm tin để
sống sót, đã thành nấm mộ hoang trên rừng
xơ xác. 21 năm kiên cường giữ vững
miền Nam, Anh đối mặt Hung Thần, cứu sống
thêm hàng triệu người vô tội.
Người lính của miền Nam tự do
tử trận. Anh để lại người Vợ hiền,
cuốc đất trồng khoai, chúng vẫn không
tha, chà đạp
nhân phẩm. Tôi lê bước chân vô
định, gặp Mai làm Bạn Đường,
nhìn mắt con thơ thấy hình người
Lính chiến.
Anh đã để lại Con Thơ cho tôi
được làm "Ba" mang tròn trách
nhiệm. Con đã trưởng thành, mai này
sẽ góp phần xây dựng lại Quê
Hương. Tôi muốn níu lại thời gian
để được thương vợ, thương
con nhiều hơn nữa.
Đã quá nửa đêm về
sáng. Nhìn Mai ngon giấc ngủ thần tiên
như "bé Nam" ngày đầu tới Mỹ,
tôi ngồi im lặng bên bàn viết, đợi
chờ sớm mai để được nhìn
bình minh bừng sáng Phương Đông,
được nhìn Mai thức dậy, mỉm cười, âu yếm nhìn Chồng.
Cuộc sống an vui. Ngót 20 năm rồi,
không biết khóc, đêm nay tôi nhỏ từng
dòng lệ, xúc động, bùi ngùi
Tôi đang sống và đang viết
Bài Tình Ca của Một Người Tị Nạn.
TỰ DO
9/2000
(Minh Do chuyển)