Lối Cũ Chẳng Sao Quên
(Bích Huyền)
Ðường trần quên lối
cũ
Người đời xa cách
mãi
Tình trần khôn hàn gắn
thương lòng...
(Gửi
Gió Cho
Mây Ngàn
Bay -
Ðoàn Chuẩn-Từ Linh)
Vĩnh Phú, địa danh tôi muốn
quên mà không thể nào quên. Trong suốt
hơn mười năm qua và trong cả cuộc
đời . K1, K2, K3, K4...những
chữ số ký hiệu kinh hoàng. Của tôi.
Của những người tù và gia đình
họ. Ở rồi, đến rồi, đi rồi... mấy
ai muốn quay trở lại ? Vậy mà hôm nay
tôi vẫn phải trở về đây. Cảnh vật
không khác xưa là bao nhiêu dù thời
gian trôi qua bốn năm rồi ...
Những khẩu hiệu:"Chào mừng
thành công Ðại Hội Ðảng 5"
,"Ðảng Cộng sản Việt Nam - Người
lãnh đạo Tài Tình", "Ðảng Cộng
sản Việt Nam muôn năm..." lem luốc màu
đỏ vì nước mưa, chảy dài xuống
như những dòng nước mắt pha máu ngoằn
ngoèo trên từng bờ tường loang lổ, cũ
kỹ. Ngay phía dưới lại có hàng chữ
mang tính "pháp lệnh" bằng những lời
thô tục "Cấm ỉa đái" . Có
cả những nét chữ nguệch ngoạc chửi
thề. Hình như không một ai để
ý.
Ở cái ga xép èo uột gần tận
cùng của đất nước này, những
con người lam lũ, ngác ngơ, còn đang
loay hoay với ký trà, bao gạo, rổ rá nhựa,
nồi niêu xoong chảo, xấp vải Chợ Lớn
hoa xanh, hoa đỏ... Che che, giấu giấu, tránh con
mắt dòm ngó của bọn Công an kinh tế.
Chính sách của Ðảng đổi mới rồi,
tự do buôn bán nhưng người dân lại
khổ vì sưu cao thuế nặng.
Theo lời chỉ dẫn, chúng tôi không
đến trại Tân Lập bằng đường
sông nữa.
Ðạp xe trên bờ đê. Dắt xe
đi bộ qua bãi cát lổn nhổn những vỏ
sò, vỏ ốc. Băng ngang qua những thửa ruộng
khô cằn của vùng đất miền trung du.
Cái hình ảnh "quê em miền trung du, đồng
chiêm lúa xanh rì..." của một thời
hoàng kim nào xa lắm, nay ở đâu ? Giặc
tràn về đốt phá thôn làng. Gia
đình ly tán. "Vườn không nhà trống
tàn hoang" còn trong trí óc non nớt của
tuổi thơ tôi. Giờ
đây, giặc nào đã làm cho miền
Bắc điêu tàn ?
Ðảng Cộng Sản Việt Nam, đỉnh cao của
trí tuệ loài người ! Ôi, mỉa mai
thay những khẩu hiệu kêu to như những chiếc
thùng rỗng ! Ðảng lãnh đạo tài
tình làm sao để bao nhiêu năm đời
ta có Ðảng, bấy nhiêu năm Ðảng
phá nát tan ? Ðể những người dân
quê hiền hòa cởi mở trở nên ngu
ngơ câm lặng đến thế kia sao ?
Dân cư ở đây rất thưa thớt.
Họ sống trong những mái nhà lụp xụp,
vách đất, mái tranh. Mảnh vườn.
Rào thưa. Khoảng sân đất. Giếng
nước. Chiếc gầu.. tất cả đều
quá nhỏ bé, trơ trụi, xa lạ. Trẻ con
gầy còm, ốm yếu. Quần đùi vá
víu miếng nọ miếng kia. Cởi trần, ngồi
nghịch đất. Không tiếng nô đùa.
Không tiếng hát. Không tiếng nhạc của
máy thu thanh. Không cả tiếng hót. Như một
vùng đất chết.
Ba người anh cùng đi với tôi chuyến
này đều là những thanh niên đầy
nhiệt huyết của hơn ba mươi năm về
trước. Thoát ly gia đình, mang tuổi trẻ
của mình cống hiến cho đất nước
. Ðể rồi khi biết mình bị lừa
thì đã muộn. Cũng dòng sông Lô
nắng vàng lấp lánh nhưng còn
đâu tiếng hát rộn ràng ? Cũng con
đê này của những buổi chiều vai
đeo ba lô từ chiến khu về, rầm rập
bước chân.
Trong không gian, hồi chuông ngân nga trong chiều
thu lộng gió, ba người anh tôi ôn lại
một vài kỷ niệm xưa. Tiếc nuối.
Tôi làm các anh tỉnh giấc mơ:"Phải
chi ngày ấy các anh không đi theo phong
trào Thanh Niên Cứu Quốc thì nay em
đâu phải đi bốc mộ chồng ở một
nơi đèo heo hút gió này !" Ba
người anh im lặng. Họ như muốn quên
đi những năm tháng sục sôi khí thế
cách mạng. Yêu tự do. Yêu tổ quốc.
Ðánh đuổi giặc Pháp ra khỏi đất
nước . Chiến thắng Ðiện Biên Phủ,
ngày trở về giải phóng thủ đô
Hà Nội. Những người bộ độ với
tuổi hai mươi. Trẻ trung. Học thức. Hà
Nội đã bừng lên một sức sống mới.
Hà Nội rực rỡ cờ hoa. Hà Nội
tưng bừng tiếng hát. Không bao lâu, những
cuộc đấu tố dã man diễn ra khắp
nơi. Ông bác tôi bị đấu tố,
dù có năm người con đi kháng chiến.
Nghe tin dữ, các anh về quê xin Ðảng khoan hồng.
Không những không tha, họ còn xúi giục
các anh tôi: phải giác ngộ cách mạng,
phải đứng vào hàng ngũ nhân
dân, cùng vạch tội, chỉ tên địa
chủ, cường hào, ác bá. Ông
bác tôi bị tù. Khổ sai lao động. Thất
vọng, đớn đau nhìn bố vác cây,
đào đất, khiêng đá, trộn hồ...Những
người tù già này làm việc suốt
ngày đêm để đạt chỉ tiêu biến
khu đất hoang quanh hồ Bảy Mẫu, Hà Nội,
thành một công viên mang tên Thống Nhất.
Ðến thập niên 1980 đổi thành công
viên Lê Nin.
Cũng vì sự khổ nhục của người
bác thân yêu mà bao lần ra Hà Nội
là bấy nhiêu lần tôi không đặt
chân vào công viên này. Cũng như
tôi đã không đến vui chơi khu K4 Long
Khánh, một địa điểm du lịch mới
lạ của miền Nam. Vì nơi đây
được tạo nên bởi những bàn tay của
cựu sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng
Hoà bị Cộng sản tù đầy, hành
hạ.
Các anh tôi, vài năm đầu
"Sài Gòn giải phóng", vì
đường lối của Ðảng, hay vì muốn
các em của mình ở miền Nam sớm
"giác ngộ" để hoà nhập ngay với
cuộc sống mới, đã có những lần
tranh luận. Bao giờ cũng trở thành lớn tiếng
cãi nhau. Tôi đã làm các anh nhức
đầu không ít. Lần cuối cùng,
tôi không cãi lại các anh nữa.
"Ðảng đã cho các anh tôi sáng mắt
sáng lòng". Ðó là lần một anh
nói với tôi:"Người em không yêu
làm em khổ, em đâu có đau bằng anh ?
Anh đã yêu, anh đã dâng hiến cả
cuộc đời mà ngày nay anh bị phụ bạc,
anh bị lừa dối...". Một anh
khác:"Viên gạch đã trót để
vào xây tường, giờ có rút ra cũng
bị vỡ tan. Thôi em ạ, không còn con
đường nào khác !"
Trên con đê này, giữa khung cảnh
hoang vắng của buổi chiều trung du, bốn anh em
đi bên nhau. Thương cho thân mình.
Thương cho các anh. Lý tưởng sụp
đổ tan tành. Ngày mai đen tối.
Trời chạng vạng. Tôi đã bắt
đầu đi những bước thấp bước
cao. Quãng đường này làm tôi nhớ
lại những lần vượt biên. Xuống ghe tại
Nhà Bè khi thành phố còn chìm trong
màn đêm. Lên bờ đi bộ băng qua
bao nhiêu là thửa ruộng. Vấp ngã bao lần
mà không cảm thấy đau đớn vì thần
kinh đang trong tình trạng căng thẳng: hồi hộp,
lo sợ.
Lần này trên cánh đồng: mệt
mỏi, chán chường…
Cũng phải vài giờ nữa mới tới
trụ sở Ban Chỉ Huy. Tiếng dế nỉ non. Xa xa
ánh đèn leo lét. Cố lê bước tới
đó để xin ngủ nhờ qua đêm.
Nhìn một căn nhà tương đối khang
trang, chúng tôi vào gặp chủ nhà xin ngủ
đỡ ngoài mái hiên. Nhưng cũng bị
từ chối. Ðang lo lắng không biết tôi
có đủ sức đi tiếp hay không,
thì như có phép lạ, một người
đàn bà gánh lúa từ xa đi tới.
Bà ta dừng lại:"Các bác tìm
nhà ai thế ?" Khi biết ý, bà ta mời
chúng tôi về nhà. Bốn anh em mừng rỡ
như người sắp chết đuối vớ
được chiếc phao. Dù gánh lúa nặng
trĩu trên vai, bà ta vẫn bước đi
thoăn thoắt. Trong khi tôi lẽo đẽo theo sau.
Khi bà đẩy cánh cổng tre, bóng tối
làm tôi không thể nhìn rõ một
người đàn ông đang xếp lúa ngay
đầu nhà. Ông ta không quay lại và cũng
không lên tiếng đáp lại lời
chào của các anh tôi. Trước thái
độ lạnh nhạt đó, chúng tôi
hơi e ngại. Trong lòng vẫn mừng thầm
không bị đuổi ra.
Một gian nhà ba gian bằng tre sơ sài nhưng
gọn ghẽ. Nhìn cách trang trí nhà cửa,
nhìn bức tượng Chúa nho nhỏ trên
bàn thờ cao, tôi có thể đoán chủ
nhân không phải là người quê
mùa. Tôi ôm bộ quần áo ra giếng. Những
giọt nước mát lạnh làm tôi tỉnh
táo lại. Trăng bắt đầu lên. Tôi
đã nhìn rõ khung cảnh chung quanh. Mảnh
sân hình chữ nhật. Khu vườn nhỏ.
Chái bếp cuối sân. Ánh lửa bập
bùng. Hàng cây cau vươn cao đón
ánh trăng. Tôi liên tưởng tới
hàng cau của khu vườn trước nhà
tôi ở quê hương. Ngày còn nhỏ,
tôi vẫn thường trèo lên nhanh như một
chú mèo con để hái quả cau cho mẹ
tôi têm trầu đãi khách. Trong không
gian thoang thoảng mùi hương hoa thiên lý.
Âm thanh tiếng đàn mandoline bản Valse Favorite
vui tươi, tiếng hát chan chứa tình
quê "Làng tôi xanh bóng tre. Hồn lắng
tiếng chuông ngân. Tiếng chuông nhà thờ
rung..." chợt khua động trong tôi ngày
tháng êm đềm thời thơ ấu.
Tôi thở thật sâu để nén
xúc cảm. Ðêm yên lặng. Ðêm mờ
ảo. Tất cả đều rất mong manh. Một tiếng
động nhỏ cũng đủ làm tan vỡ giấc
mơ xưa thoáng đến với tôi,
đưa tôi về thực tại. Tôi phải
vào nhà để bàn chuyện ngày mai.
Tiếng cười nói làm tôi ngạc
nhiên. Ông chủ nhà cùng ba anh tôi
đang vui vẻ quây quần bên khay trà bốc
khói. Thấy tôi vào, ông kéo ghế trịnh
trọng mời ngồi. Tôi còn đang ngơ
ngác trước thái độ thay đổi
nhanh chóng thì một anh đã giải
thích:"Ban đầu ông Tuyển tưởng
anh em mình đi thăm nuôi tù. Bây giờ ở
đây có tù hình sự (những thanh thiếu
niên can tội cướp của giết người
). Tù chính trị chuyển đi từ lâu rồi.
Một số về trại Hà Nam Ninh. Ða số
vào Nam.
Ông Tuyển đặt ly trà thơm phức
trước mặt tôi: "Ðược biết
cô về đây bốc mộ cho chồng,
chúng tôi vô cùng cảm kích. Gia
đình chúng tôi xin hết sức giúp
đỡ cô và các ông anh đây."
Vầng trán cao. Khuôn mặt chữ điền.
Cách nói chuyện lưu loát cùng
dáng điệu từ tốn, cử chỉ lịch sự,
chứng tỏ ông Tuyển là một người
có một số vốn kiến thức về học
vấn cũng như về xã hội. Ông cho biết
có một người anh là linh mục trong một
ngôi nhà thờ vùng đất đỏ Long
Khánh.
Ông Tuyển đã sắp xếp chỗ ngủ
cho chúng tôi. Ðể khách được tự
do, ông Tuyển dặn dò vợ con và đi
vào thôn tìm người quen chuyên việc
cải táng.
Gian phòng khách rộng, sơ sài
nhưng ngăn nắp. Giường tre, bàn gỗ mộc
mạc, thô kệch, được hình thành
có lẽ do bàn tay của chủ nhà. Tượng
Chúa và tượng Ðức Mẹ trên cao
là một hình ảnh cảm động hiếm
có trong những ngôi nhà tại miền Bắc.
Theo như lời ông Tuyển, đời sống gia
đình ông bắt đầu khá hơn kể
từ khi hợp tác xã nhà nước tan vỡ.
Lối làm ăn tập thể nhường lại
cho lối khoán sản phẩm. Tuy nhiên, vẫn phải
nộp đủ cho nhà nước , cả nhà xúm
nhau cày cấy mới có gạo ăn.
Dưới nhà ngang, các con ông bà
Tuyển đang đập lúa, giã gạo,
sàng sẩy... Mọi người chăm chú
làm việc, không tò mò để ý
khách phương xa. Tôi mệt mỏi nằm thiếp
đi trong chốc lát.
Khi tôi tỉnh dậy, trăng đã lên
cao. Ông Tuyển vừa về tới. Tay
cầm hai chai rượu và một bó hoa
tươi. Ông cho biết đã tìm được
một người rất thành thạo trong việc bốc
mộ. Chai rượu này để rửa hài cốt.
Tìm mua được rượu ở miền
núi không phải là chuyện dễ dàng.
Bà Tuyển bưng mâm cơm từ nhà
bếp lên. Chúng tôi trải chiếu ngoài
hiên, ngồi ăn cơm dưới ánh trăng.
Ðĩa thịt gà luộc thơm mùi lá
chanh thái chỉ rắc lên trên. Tô canh rau
"tập tàng"- đủ mọi loại rau
hái ngoài vườn - mát ngọt. Tôi
không ngờ anh em chúng tôi được đối
xử như một thượng khách ở nơi
đây. Thế mới biết ở một nơi
tưởng chừng như không có, ta vẫn
tìm thấy một tấm lòng.
Qua một đêm ngủ với nhiều mộng
mị, sáng sớm hôm sau, tôi và các
anh đến Bộ Chỉ Huy. Có quãng đường
đi được bằng xe đạp. Có
quãng đường đá lởm chởm phải
dắt bộ. Chỉ huy trại là người mới.
Không phải Thiếu Tá Nguyễn Huy Thùy
tôi gặp lần trước. Hắn vồn vã
thái quá, khiến tôi chỉ im lặng ngồi
nghe. Hắn kể chuyện, có một người
nước ngoài, cách đây không lâu,
về đây bốc mộ bố. Cầm bình
hài cốt lên xe, xe không nổ máy. Gọi
xe ngựa đến kéo, con ngựa nhảy quớ
lên không chịu chạy.
Nhìn hắn ba hoa, ngồi bỏ cả hai
chân lên ghế, tôi hơi khó chịu. Nhất
là cặp mắt hắn thỉnh thoảng lại
nhìn vào mấy bao thuốc là "555" anh
tôi mang đến làm quà. "Ba con năm vừa
nằm vừa ký", cho nên bọn tôi mới
được chấp thuận một cách dễ
dàng.
Những chuyện hắn nói có thể xảy
ra ở đâu, hắn nghe được. Hắn muốn
nói đến đời sống tâm linh. Anh em
tôi thì có rất ít thời gian. Cũng
có thể sau một thời gian quá dài bị
đè nén, những con người triệt để
chống chủ nghĩa duy tâm ngày nay bắt đầu
duy tâm hơn ai hết.
Xe Volga cọc cạch chở chúng tôi đi
lên ngọn đồi, nơi an nghỉ của những
quân nhân chế độ cũ. Ít ra từ
ngày Việt Cộng muốn bang giao với Mỹ,
đã có lúc họ bỏ được từ
ngữ "ngụy quân ngụy quyền". Nhưng
tiếc tay những tên gọi này vẫn là vết
hằn trong lòng người Việt.
Tôi ngồi đợi trong một căn nhà
nhỏ dựng sơ sài bằng tre nứa. Nền
đất lồi lõm. Trên vách nhỏ treo
đủ thứ khẩu hiệu, kế hoạch công
tác hàng tháng, tuần... Hình ảnh
các lãnh tụ Cộng Sản thế giới
và trong nước quá khổ so với bức
vách, treo xộc xệch như sắp rơi.
Ðây là nơi làm việc của toán
công an canh gác.
Cách đây bốn năm, khi tôi đến
nơi đây nhận mộ chồng, cảnh vật
chung quanh gọn ghẽ hơn. Hàng ngày còn
có bàn tay bạn tù săn sóc. Giờ
đây cỏ cây, dây leo chằng chịt,
không nhìn thấy lối đi. Hơn một giờ
đồng hồ trôi qua, tên công an cầm bản
đồ nghĩa trang và các anh tôi trở lại
trụ sở với gương mặt thất vọng.
Không tìm thấy mộ vì cỏ cây che lấp
cả một vùng rộng lớn. Tim tôi như muốn
ngừng lại. Chẳng lẽ lại về không ?
Tôi xin mọi người hãy cho tôi
đến tìm. Tôi thầm cầu nguyện cũng
như ở Sài Gòn, mẹ tôi và các
em tôi đã cầu nguyện cho chuyến đi của
tôi được tốt đẹp.
Kỳ lạ thay ! Tôi chỉ vạch lá chui
vào đúng một quãng ngắn là
tìm ra mộ. Tôi reo to lên. Các anh tôi
đứng ngoài không tin. Ngôi mộ có hai
bia đá. Tôi lầm thế nào được.
Một tấm bia tôi mang từ Hà Nội lên.
Một tấm bia nữa của anh em bạn tù đẽo
gọt bằng tay. Nét chữ khắc vào
đá mờ đi vì rêu phủ.
Trong khi người thợ cải táng chặt
cây cối chung quanh, tôi thắp nhang lui cui cắm
trên từng ngôi mộ. Ðêm mưa, cỏ
ướt, ngửi thấy có hơi người, những
con vắt nhảy ra, bám lấy chúng tôi.
Máu chảy ròng ròng. Tôi muốn ngất
người đi vì sợ. Cây cối quang dần.
Dầu nóng tôi bôi đầy mặt, mũi,
chân, tay, khiến những chú dế bé
xíu cũng không dám nhảy ra đột
kích nữa.
Một ít trái cây mua vội dọc
đường, bó hoa ông Tuyển mua dùm,
chúng tôi chỉ có những tấm lòng
thành trước linh hồn người đã
khuất. Người anh lớn nhất của tôi khấn
thật lâu. Những cây nhang cháy rất nhanh,
tàn cong vòng... khói nhang thơm toả
ngát. Nhát cuốc đầu tiên bổ xuống
đất, lòng tôi đau buốt. Tiếng cuốc,
xẻng đều đều vang vọng giữa miền
rừng núi hoang vu. Từng tảng đất bật
lên, tâm hồn tôi như vỡ vụn. Cho tới
lúc lưỡi cuốc đụng vào quan
tài. Tôi hồi hộp. Các anh tôi nôn
nóng.
Khi tôi ra đến Hà Nội, các bậc
lão thành có trấn an:"Ðất núi
miền khô ráo, xương cốt lâu
ngày sẽ tan đi. Phải chuẩn bị tinh thần:
có thể đứng trước một cái
hòm chỉ có đầy cát bụi !"
Thế cho nên khi những nhát búa đầu
tiên bổ xuống để nạy nắp quan
tài, tôi cứ giật thót mình. Một cảm
giác đớn đau như lần đầu
tiên nghe thấy tiếng đóng đinh vào
quan tài bố tôi lúc liệm quan ...
Gỗ áo quan dầy và chắc. Khi chiếc
nắp bật lên, tôi lạnh người: chiếc
chăn len màu đỏ ! Suốt đêm qua,
người anh lớn của tôi cứ chợp mắt
là nằm mơ thấy xác chồng tôi quấn
bằng mảnh vải màu đỏ. Gương mặt
các anh tôi xúc động. Bóc lượt
chăn len ra là quần áo. Hết lớp áo
này đến lớp quần khác. Bàn
bè đã dồn tất cả cho người chết
mang đi. Nước mắt tôi ràn rụa.
Màu xanh lá cây đậm của chiếc
áo len mẹ tôi mua tặng, gửi trong năm
ký lô quà đầu tiên ra Bắc. Chiếc
sơ-mi trắng ngà có từng sợi chỉ xanh
xanh, hồng nhạt, mang về Sài Gòn sau chuyến
du học tại Mỹ năm 1971. Chai dầu gió,
đôi giày ba ta... tất cả tôi đã
tự tay xếp vào ba lô trước ngày anh
đi trình diện "học tập cải tạo".
Không còn lầm được. Không
còn ảo tưởng:"Ðã trốn trại,
còn đang ẩn trốn tại một nơi
nào." Tôi mất anh thật rồi ! Thế
là hết. Tôi khóc nức lên. Trời
như nổi gió. Cỏ cây chao đảo. Ðồi
núi quay cuồng. Quanh tôi cảnh vật mờ
đi ...
Lâu lắm, khi tôi tỉnh dậy, đống
tro tàn của áo quần vừa đốt
còn âm ỉ cháy. Trong một cái sanh to bằng
gang dùng thổi cơm cho trại tù đã gẫy
tay cầm, các anh tôi đã đổ bột
nhang thơm với rượu trắng để ngâm
xương cốt. Người thợ cải táng
cùng các anh tôi quấn giấy bao từng
lóng xương, đặt từng mảnh vào
trong nhiều túi ni-lông ...
Không gian mênh mông yên lặng. Tôi
lặng lẽ theo các anh tôi bước nhanh cho kịp
chuyến đò cuối cùng ...
(Chuyến bốc mộ vào năm
1985)
Trích tập truyện Lối Cũ Chẳng Sao Quên
-The Trail I Never Forget-
tác giả: Bích Huyền
(NIEU TRAN sưu tầm và chuyển)