SU'U TÂ`M 8

Home | VA(N | VA(N [tt] | VA(N 1 | VA(N 2 | VA(N 3 | VA(N 4 | VA(N 5 | VA(N 6 | VA(N 7 | VA(N 8 | VA(N 9 | VA(N 10 | VA(N VUI | VA(N VUI [tt] | VA(N VUI 1 | VA(N VUI 2 | VA(N VUI 3 | VA(N VUI 5 | TA.P GHI | TA.P GHI [tt] | TA.P GHI 1 | TA.P GHI 2 | TA.P GHI 3 | TA.P GHI 4 | TA.P GHI 5 | TA.P GHI 6 | TA.P GHI 7 | TA.P GHI 8 | TA.P GHI 9 | TA.P GHI 10 | TA.P GHI 11 | TA.P GHI 12 | TA.P GHI 13 | TA.P GHI 14 | TA.P GHI 15 | TA.P GHI 16 | BÀI VIÊ'T | BÀI VIÊ'T [tt] | BA`I VIÊ'T 1 | BÀI VIÊ'T 2 | BÀI VIÊ'T 3 | BÀI VIÊ'T 4 | BÀI VIÊ'T 5 | BÀI VIÊ'T 6 | BÀI VIÊ'T 7 | TIN ... Su'u Tâ`m ! | CHUYÊ.N LA. KHÓ TIN

BÀI VIÊ'T 7

HẠNH PHÚC

 

HẠNH PHÚC

(Sơn Nghị)

 

 

Ở cõi đời này có 3 bí nhiệm (mysteries). Đó là Tình Yêu, Đau Khổ, và Sự Chết. Sở dĩ gọi là bí nhiệm vì đây là những vấn đề gay cấn nhất trong cuộc sống. Biết bao nhiêu chữ nghĩa được viết ra nhằm giải thích chúng nhưng vẫn hoài công. Con người đã bỏ công tìm tòi nhưng chỉ hiểu được một phần nào ý nghĩa đích thực của chúng. Chưa một ai dám tự hào đã hiểu trọn vẹn hết những góc cạnh sâu thẳm nhất của những bí nhiệm này.

 

Tình Yêu hiện diện trên cõi đời này ngay từ thuở hồng hoang. Cho dù Agape (Tình Yêu Dâng Hiến) hoặc Eros (Tình Yêu Nhục Dục), Tình Yêu muôn thuở vẫn là một bí ẩn. Xuân Diệu nói, “Có ai cắt nghĩa được tình yêu ? ...” Bi quan hơn lại cho rằng, “Tình Yêu đứng xa trông như hạt kim cương nhưng đến gần chỉ là giọt nước mắt.” Có người thở dài bảo, “Con người không có Tình Yêu như trái đất không có mặt trời.” Mỗi người tùy theo quan niệm và kinh nghiệm sống của riêng mình định nghĩa Tình Yêu mỗi cách khác nhau. Không một ai đúng hoàn toàn và cũng chẳng một ai sai.

 

Sự Chết cũng thế. Con người sinh ra để rồi già đi, vướng bệnh và chết. Chết là từ giã cõi đời này. Có người cho rằng chết là hết nhưng lại có người lại tin rằng chết là bước sang một thế giới khác. Vì muốn chống lại sự chết nên đã có người cố công tìm cho được thuốc trường sanh bất tử. Họ thèm sống. Nhưng không một ai cãi lại được định luật của Tạo hóa. Đúng theo tam đoạn luận của Socrate; phàm là con người đều phải chết, tôi là con người, vậy tôi cũng phải chết. Sự chết đã bám dai dẳng trong suy tư của con người. Một đời người vỏn vẹn chỉ được trăm năm và rồi biến mất hẳn khỏi trần gian này. Thật vô lý nhưng đó là một thực tại không thể chối cãi được.

 

Nhưng Đau Khổ là vấn đề nhức nhối nhất theo thiển ý của người viết. Có người dùng đau khổ để thăng hoa, để cứu chuộc như Đức Giêsu. Nhưng nó nhức nhối vì đau khổ luôn hiện diện trong đời sống của con người. Nhân loại vẫn không thể hiểu được tại sao một người sinh vào cõi đời này để rồi chuốc lấy đau khổ. Có lẽ vì thế mà con người là động vật duy nhất sinh vào cõi đời này bắt đầu bằng tiếng khóc chăng ? Chẳng một ai muốn sống đau khổ cả. Họ muốn sống sung sướng. Sống sung sướng nghĩa là sống thụ hưởng hạnh phúc, ngược lại với sống chịu đựng đau khổ.

 

Vậy làm thế nào để cuộc sống có hạnh phúc ? Đã có nhiều sách vở bàn luận về hạnh phúc. Cũng có nhiều diễn giả nói về vấn đề khúc mắc này. Tôn giáo là một giải pháp giúp con người có bình an trong tâm hồn; để từ đó dẫn đến hạnh phúc trong cuộc sống. Nhưng thử bàn luận vấn đề nan giải này trên kinh nghiệm, qua những con số thống kê thực tế trong xã hội. Mới đây, tờ Readers Digest số tháng 5, Arthur Brooks đã tóm tắt cuốn “Gross National Happiness” (chính ông là tác giả) và đưa ra kết quả dựa trên khoa học và kinh nghiệm làm thế nào để đạt được hạnh phúc. Mời quý độc giả theo dõi cuộc khảo sát giá trị của Arthur Brook sau đây.

 

Quý vị muốn sống hạnh phúc ư ? Tôi tạm cho là quý vị cũng có một ước muốn như tôi. Socrate đã có lần nói với các học trò, “không phải ai ai cũng muốn hạnh phúc sao ?” Nếu suy nghĩ của Socrate đúng thì một câu hỏi hợp lý đặt ra là xã hội mà chúng ta đang sống cũng phải tạo ra những điều kiện để người dân có thể mưu cầu hạnh phúc chứ ? Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, những vị Khai Quốc không bao giờ xem hạnh phúc là một khái niệm mơ hồ; nhưng họ tin tưởng rằng con người luôn muốn hạnh phúc và có quyền mưu cầu nó. Theo sát đời sống và tự do, hạnh phúc là nhịp cầu nối liền giữa Thượng đế với vận mạng của quốc gia, và chính khả năng của người dân mưu cầu hạnh phúc là thước đo sức mạnh và nền luân lý của xã hội.

 

Nhưng ngày nay, những vị lãnh đạo hầu như quên mất điều này. Cứ nghe những nhà chính khách hoặc các chính trị gia nói về tổng sản lượng quốc gia, cuộc cách mạng y tế và tiền già, người ta nghĩ rằng những vị Khai Quốc nếu còn sống sẽ cảm nhận rõ ràng là con người được sinh ra để cố mua sắm những món hàng có phẩm chất cao, hoặc thỏa mãn về một nền kinh tế tăng trưởng vững vàng với mức lạm phát thấp và lực lượng lao động dồi dào. Những vị Khai Quốc không hề nói đến những vấn đề này, không phải là tại vì chúng không quan trọng, nhưng bởi vì Họ tin tưởng rằng đạt được hạnh phúc không chỉ đơn thuần như thế, mà hạnh phúc mang một chiều kích sâu xa hơn.

 

Là một giáo sư ngành kinh doanh và chính sách quốc gia, đã từ lâu tôi xem mưu cầu hạnh phúc là một khái niệm quốc gia. Theo những cuộc khảo sát tin cậy liên quan đến hàng nghìn người dân ở quốc gia này thì nếu người dân càng sống hạnh phúc, thịnh vượng quốc gia cũng tăng theo, và làm vững mạnh đời sống cộng đồng. Hạnh phúc làm con người tốt hơn, và chính những công dân tốt sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy xã hội tiến triển lành mạnh. Hạnh phúc, nói một cách khác, rất quan trọng trong đời sống của xã hội Hoa kỳ.

 

Sau đây là 5 nhân tố ảnh hưởng đến hạnh phúc. Chúng không những liên quan mật thiết với nhau mà còn hỗ trợ nhau, bổ túc cho nhau trong việc mưu cầu hạnh phúc.

 

1. Niềm Tin

 

Khoảng 85% người dân nhìn nhận có theo một tôn giáo nào đó, và khoảng 1/3 tham dự một nghi thức tôn giáo hàng tuần. Con số này thay đổi một ít trong vài thập niên trở lại. So với các nước khác thì con số dân Mỹ theo đạo và giữ đạo khá cao so với các nước tân tiến khác trên thế giới. Chẳng hạn như chỉ có 9% dân Hòa Lan tham dự thánh lễ hàng tuần; còn ở Pháp con số lại thấp hơn, 7% và ở Latvia chỉ có 3%.

 

Nhìn chung, những người Mỹ có niềm tin (đi dự lễ hàng tuần hoặc nhiều hơn) có hạnh phúc hơn những người tuy có đạo nhưng chẳng bao giờ đến nơi thờ phượng. Năm 2004, cuộc Khảo Sát Xã hội Tổng Quát (General Social Survey) cho thấy 43% những người dân từng tham dự nghi thức thờ phượng nhìn nhận họ sống hạnh phúc, so sánh với 23% những người chẳng hề bao giờ tham dự. Con số những người hữu thần nhìn về tương lai cảm thấy lạc quan so với những người vô thần có lạc quan cách biệt 33%. Còn con số những người vô thần cảm thấy thất bại trong cuộc sống gấp đôi con số những người hữu thần có cùng một cảm nghĩ.

 

Tôn giáo và hạnh phúc gắn chặt với nhau như tương quan nhân quả. Niềm tin vào bất cứ tôn giáo nào đều đưa đến một hạnh phúc gần giống nhau. Những cuộc khảo sát khác cũng cho thấy những người Thiên Chúa giáo (Tin lành, Công giáo, Mormon, và các giáo phái khác) và Do thái giáo nhận thấy họ sống hạnh phúc hơn, rất xa con số của những kẻ vô thần. Năm 2004, 36% những người cầu nguyện hằng ngày cảm thấy hạnh phúc, so với 21% những người chẳng hề bao giờ cầu nguyện.

 

Dĩ nhiên, không phải tất cả những người hữu thần đều hạnh phúc, hoặc tất cả những người vô thần đều không thấy hạnh phúc. Nhưng một điều không thể phủ nhận là niềm tin tôn giáo chính là một nhân tố quan trọng dẫn đến hạnh phúc.

 

2. Công Việc

 

Nếu trúng số độc đắc, quý vị có nghỉ việc không ? Nếu quý vị là người Mỹ thì có thể điều đó không xảy ra, nghĩa là trúng số rồi nghỉ việc. Năm 2002, khoảng 1000 người được hỏi rằng, “Nếu có đủ tiền bảo đảm một cuộc sống thoải mái cho đến lúc chết, liệu quý vị có nghỉ việc không ?” thì chỉ có khoảng 1/3 số người trả lời sẽ nghỉ việc.

 

Trái ngược với rất nhiều người lầm nghĩ, hầu như tất cả những người Mỹ yêu thích công việc làm của họ. Năm 2002, con số đó lên đến 89%. Con số phần trăm này lại không áp dụng vào trường hợp những người có mức lương bổng cao, hoặc những người với việc làm đòi hỏi nhiều kỹ năng nhưng lại đúng với số nhân công với lợi tức trung bình. Con số phần trăm này cũng gần đúng với những người có hoặc không có bằng đại học làm trong các công ty tư nhân, trong các hội từ thiện, hoặc trong các công sở của chính quyền.

 

Hầu hết những người Mỹ cho rằng sự yêu thích việc làm (job satisfaction) quan trọng ngang ngửa với sự yêu thích cuộc sống (life satisfation). Trong số những người cảm thấy yêu thích cuộc sống thì 95% cũng cảm thấy yêu thích việc làm. Kết quả những cuộc khảo sát còn cho thấy, yêu thích việc làm dường như dẫn đến hạnh phúc trong cuộc sống nhưng lại không đúng trong trường hợp ngược lạị

 

Vấn đề lõi cốt là nếu muốn hạnh phúc, quý vị cần phải làm việc. Việc gì cũng được nhưng cần phải làm; có thể là tình nguyện làm một công việc từ thiện nào đó ở các hội thiện nguyện, hoặc giúp nhà thờ, chùa chiền…v..v. Biết bao nhiêu công việc ở những cơ quan công cọng như nhà thương, thư viện, trường đại học đang cần nhiều người tình nguyện. Quan niệm này cũng cần nên chia sẻ với con cháu của quý vị.

 

3. Hôn Nhân & Gia Đình

 

Có những quan niệm sai lạc về hôn nhân kể từ thập niên 60. Những lời đồn đãi này làm nhụt chí, trong đó phải kể đến giới phụ nữ, nhiều người không dám nghĩ đến việc lập gia đình. Đừng tin vào những lời đồn đãi như thế.

 

Năm 2004, khoảng 42% những người lập gia đình nói họ tìm thấy hạnh phúc. Trong khi đó, chỉ có 23% những người độc thân cảm thấy họ có hạnh phúc. Con số phần trăm này càng ít đi đối với những nhóm khác: 20% những người góa vợ hoặc chồng, 17% những người ly dị, 11% những người sống ly thân chờ ly dị. Nhìn tổng quát, số người lập gia đình cảm thấy hạnh phúc cao gấp 6 lần số người tuy lập gia đình nhưng lại không cảm thấy hạnh phúc. Nói chung, phụ nữ lập gia đình cảm thấy hạnh phúc nhiều hơn đàn ông lập gia đình.

 

Hôn nhân không những tương quan đến hạnh phúc mà chính nó mang đến hạnh phúc, ít nhất là cho hầu hết mọi người. Một trong những thống kê hoàn tất năm 2003 sau hơn một thập niên khảo sát 24.000 người đưa đến một nhận xét rằng mức độ hạnh phúc đã gia tăng đáng kể sau khi lập gia đình. Chỉ một số nhỏ trong nhóm 24.000 người này cảm thấy mức độ hạnh phúc giảm dần sau vài năm lập gia đình, trở lại mức độ trước khi chung sống nhưng hầu hết đều cảm thấy hạnh phúc tiếp tục tăng trưởng theo thời gian chung sống.

 

Còn con cái thì thế nào ? Nếu chỉ nói đến sinh con đẻ cái thôi thì hình như mức độ hạnh phúc có phần thuyên giảm nhưng những cuộc khảo sát đều thấy một điểm tương đồng rằng con cái hầu hết là một nhân tố gắn liền với hạnh phúc trường cửu, trong đó bao gồm cả niềm tin và hôn nhân. Hãy cân nhắc điều này: trong khi 50% những người lập gia đình có con cái và đặt niềm tin vào tôn giáo cảm thấy hạnh phúc thì chỉ có 17% những người vô tôn giáo, không lập gia đình, không con cái cảm thấy có hạnh phúc trong cuộc sống.

 

4. Từ Thiện

 

Ai cũng biết rằng tiền của không dẫn đến hạnh phúc và cho đến tận bây giờ điều này vẫn là một chân lý. Nhưng nếu cho bớt tiền tài của cải thì lại dẫn đến hạnh phúc. Hai điều này vẫn là chân lý tuyệt vời nhất.

 

Bằng chứng thật rõ ràng là biếu tặng cho các hội từ thiện mang đến một niềm vui đáng kể cho những người rộng lượng. Nếu quý vị muốn một hạnh phúc đáng giá $50 thì nên dâng cúng cùng một số tiền cho một hội từ thiện mà quý vị ưa thích.

 

Những người dâng cúng tiền của cảm thấy rất hạnh phúc 43% nhiều hơn những người không bao giờ dâng tặng. Những người tình nguyện (làm việc không lương) cảm thấy rất hạnh phúc 42% nhiều hơn những người không bao giờ dấn thân trong các công tác tình nguyện. Cho đi mới quan trọng, cho ai đôi khi lại không quan trọng lắm; nghĩa là quý vị dâng tặng của cải cho nhà thờ, chùa chiền, hội từ thiện, hoặc bất cứ cơ quan thiện nguyện nào đều mang đến một niềm hạnh phúc như nhau và cảm nhận hạnh phúc hơn hẳn những người không bao giờ dâng tặng. Ngay cả đến việc hiến máu, và đặc biệt tặng những di sản cá nhân, luôn dẫn đến một đời sống lạc quan hơn.

 

Thực tế thật rõ ràng, càng cho đi càng hạnh phúc.

 

5. Tự Do

 

Những vị Khai Quốc đã khẳng định quyền tự do với quyền theo đuổi và mưu cầu hạnh phúc cho chính mỗi công dân. Đây là những quyền căn bản của con người trong một quốc gia độc lập. Nói cho cùng, tự do và hạnh phúc tương quan mật thiết với nhau: những người cảm thấy có tự do trong cuộc sống luôn thấy hạnh phúc hơn những người không có tự do. Năm 2000, cuộc Khảo Sát Xã Hội Tổng Quát cho thấy số người có “hoàn toàn tự do” hoặc “rất tự do” cảm thấy đời sống hạnh phúc có tỉ lệ gấp đôi số người không có tự do cảm nhận được hạnh phúc.

 

Tuy vậy, không phải tất cả các loại tự do đều mang đến hạnh phúc. Tự do về kinh tế quả mang đến hạnh phúc, kể cả tự do về chính trị và tôn giáo. Nhưng tự do về luân lý, một loại tự do phóng khoáng thiếu tự chế, thì hoàn toàn không mang lại hạnh phúc. Những người cảm thấy họ có rất nhiều sự chọn lựa (quá tự do) về luân lý trước những vấn đề, chẳng hạn như, tình dục và ma túy thường không cảm thấy hạnh phúc hơn những người cảm thấy họ không có quá nhiều sự chọn lựa trước cùng một vấn đề.

 

Cử tri Mỹ hiểu điều này rất rõ ràng. Những người đi bầu cử chọn Tổng thống năm 2004 khi được hỏi xã hội đang đối diện với vấn đề nào nghiêm trọng nhất thì hầu hết mọi người đều cho là vấn đề luân lý. Vấn đề này vượt hẳn lên trên những vấn đề khác như kinh tế, khủng bố, chiến tranh Iraq, y tế là những khúc mắc làm họ nhức đầu từ bấy lâu nay.ỵ Những nhà chính trị lại mong dân Mỹ gạt bỏ vấn đề luân lý sang một bên và nghĩ đến vấn đề khác để họ dễ kiếm phiếu. Những nhà phê bình cho đó là một bằng chứng hiển nhiên rằng không dễ gì nắm được cử tri Mỹ. Thật thế, những giá trị luân lý đang dằn vặt tâm trí những người dân. Điều này nói lên rằng: là một người dân trong xã hội này, chúng ta làm tất cả những gì có thể làm để gìn giữ một nền tự do kinh tế và chính trị đồng thời đề phòng những loại “văn hóa” cổ võ một nếp sống phóng túng và thác loạn.

 

BÀI HỌC CHO DÂN MỸ CHÚNG TA

 

Những số liệu này cho thấy hạnh phúc không phải ở chỗ sở hữu thật nhiều cho mình nhưng chính là bảo toàn những giá trị lành mạnh. Không có những giá trị căn bản này, việc làm và nền kinh tế của chúng ta chỉ mang lại một sự vô cảm và sự giàu có vô nghĩa. Sẽ chẳng có lý do nào để chúng ta chiến đấu bảo vệ cuộc sống này cả. Hệ thống y tế tân tiến ở đất nước này sẽ giúp chúng ta sống thọ hơn nhưng sống lâu làm gì khi cuộc sống không tìm thấy hạnh phúc.

 

Kết quả của công trình khảo sát này cũng giúp chúng ta tìm thấy chìa khóa hạnh phúc ở đời này. Đó là những giá trị căn bản giúp con người đạt được hạnh phúc. Nên nhắc lại những giá trị này một lần nữa mà không cảm thấy thừa; đó là niềm tin, việc làm, gia đình, từ thiện, và tự do. Những giá trị mà chúng ta nên gìn giữ và bảo vệ để bảo toàn hạnh phúc. Kết quả của công trình khảo sát đồng thời gửi đi một thông điệp đến những nhà lập pháp, những nhà lãnh đạo tinh thần cũng như xã hội về tầm mức quan trọng của sự mưu cầu hạnh phúc cho quần chúng. Chúng ta phải tỉnh thức để lên tiếng khuyến cáo họ về sự thật của niềm hạnh phúc trong tâm hồn của từng người cũng như trong mỗi gia đình chúng ta. Mỗi khi họ ra những đạo luật làm giảm thiểu giá trị của niềm tin, việc làm, gia đình, từ thiện, và tự do thì chúng ta phải vô hiệu hóa những đạo luật đó bằng những quyền công dân mà hiến pháp Hoa-kỳ cho phép. Ứng cử viên trong bất cứ mọi địa hạt hoặc lãnh vực nào đều phải trả lời cho chúng ta rõ quan niệm của họ về hạnh phúc như thế nào, và làm thế nào để mưu cầu hạnh phúc cho người dân. Câu trả lời của họ chắc chắn phải liên quan đến 5 nhân tố quan trọng trên. Câu trả lời này đồng thời sẽ quyết định lá phiếu của chúng ta.

 

Hạnh phúc rất quan trọng trong đời sống của mỗi chúng ta. Và không một ai có quyền xem nhẹ những nhân tố tinh thần dẫn đến niềm hạnh phúc mà Thượng đế đã ban tặng cho nhân loại.

 

 

Sơn Nghị

 

(Sưu Tầm Liên Mạng chuyển)

 

 

website counter